Nhân ngày Quân Lực 19-6 của VNCH vừa qua, chúng ta cũng cần ôn nhắc lại các chiến công của Quân Lực VNCH trong việc bảo vệ quê hương mà trong Quân Sử chưa ghi chép kịp. Một trong các chiến công đó được ghi nhận trong cuối thập niên 1950-1960.
Vào ngày 4/9/1958, Trung Cộng tuyên bố bản xác định mở rộng lãnh hải ở Biển Đông.
Phạm Văn Đồng Thủ Tướng của CSVN Đã gởi công hàm ngoại giao chấp nhận và yểm trợ cho hành động chiếm hữu lãnh hải ở Biển Đông của Trung Cộng. Nhưng VNCH không chấp nhận hành động lố bịch đó của Trung Cộng. Bốn tháng sau (tức 1/1959), VNCH gởi 1 đại đội TQLC ra chiếm lại đảo Đảo Quang Hòa Duncan (1 trong những đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa). Một cựu SQ khóa 5 Vì Dân là Trung Úy Cổ Tấn Tinh Châu, ĐĐ trưởng ĐĐ 3/TD2/TQLC đã hoàn thành sứ mạng một cách anh dũng, và kết quả đã bắt được 60 địch quân Trung Cộng (Dân+Quân),tịch thu một số ghe, tàu.
Chính Phủ VNCH do Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúc đó đã áp dụng phương thức ngoại giao, khôn khéo của tiền nhân là đối xử tử tế với tù hàng binh, và trả họ về Đài Loan nhưng nơi này không nhận, sau cùng đã trao họ cho Hồng Kong để trả cho Trung Cộng qua ngoại giao với Anh Quốc.
Xin mời quý vị, đọc bài viết sau đây của cựu Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu, một người hùng TQLC, đã viết cách đây ít lâu!
Cựu TNS Lê Châu Lộc
Đảo Quang Hòa thuộc quần đảo Hoàng Sa
Vào khỏang đầu năm 1959, Chỉ Huy Trưởng TQLCVN là Thiếu Tá Lê Như Hùng, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ.2 TQLC là Đại Úy Nguyễn Thành Yên. Tôi, Trung Úy Cổ Tấn Tinh Châu, Đại Đội trưởng ĐĐ3/TĐ2 TQLC. Đại đội tôi đang đóng ở Cam Ranh thì được lệnh đem đại đội ra kiểm soát các đảo trong quần đảo Hoàng Sa là Pattle (đảo chánh), đảo Hữu Nhật Robert,Quang Hòa Duncan, đảo Duy Mộng Drummont và Quang Ảnh Money. Khi đến quần đảo Hoàng Sa thì tôi đóng quân tại đảo Hoàng Sa Pattle với 2 trung đội, còn một trung đội thì đóng trên đảo Hữu Nhật Robert. Hai ngày sau tôi nhận được lệnh di chuyển bằng chiến hạm do HQ Trung Úy Vũ Xuân An* làm hạm trưởng đến kiểm soát đảo Duncan, sau này tên Việt Nam là đảo Quang Hòa, cách đảo Pattle chừng 1 giờ 30 phút đi bằng tàu.
(* Hạm Trưởng Vũ Xuân An sau cùng là HQ đại tá, hiện định cư ở Canada, khoảng 10 năm trước đây, cựu HQ Đại Tá Vũ Xuân An có đến thăm tôi. Nay theo lời của HQ Đặng Thanh Long thì sức khỏe của anh hiện quá yếu, còn nhớ trận dánh này, nhưng không đầy đủ chi tiết)
Tôi chỉ đi với một trung đội+, phần còn lại đóng và giữ hai đảo Pattle và Robert. Tàu chạy được khoảng gần một giờ thì hạm trưởng Vũ Xuân An chiếu ống dòm và nói với tôi là trên đảo Quang Hòa có lá cờ nhưng không phải là cờ đỏ 1 sao vàng, rồi anh đưa ống dòm cho tôi xem. Sau khi quan sát kỹ, tôi nói với anh đó là cờ Trung Cộng, cờ đỏ 5 sao vàng.
Tôi và hạm trưởng hội ý với nhau và quyết định dừng tàu lại để báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân, vì thời gian đó TQLC còn dưới quyền chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Hải Quân.Sau chừng một tiếng thì chúng tôi nhận được lệnh thượng cấp cho chiếm đảo Quang Hòa.
Chiến hạm chở chúng tôi không phải là loại tàu đổ bộ nên tàu phải đậu cách bờ trên một cây số, vì đây là bãi san hô, không thể vào gần hơn được cũng không có xuồng để vào bờ.Tôi có nêu vần đề khó khăn này với hạm trưởng và yêu cầu báo cáo về BTL/HQ thì tôi được lệnh “bằng mọi giá phải chiếm”.
Đây là lúc khó khăn nhất mà tôi “đơn thân độc mã” phải quyết định một mình, không liên lạc được với Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Thành Yên để vấn kế. Không có xuồng thì phải lội trên bãi san hô gập ghềnh ngập nước nông sâu chứ đâu phải bãi cát phẳng phiu.
Đảo Quang Hòa hình móng ngựa, có cây cối khá nhiều, nhìn lên đảo tôi thấy có hai dẫy nhà vách cây lợp lá, thấp thoáng có bóng người đi lại sinh hoạt bình thường, dường như họ không biết có Hải Quân và TQLC/VN đang chuẩn bị tấn công họ để chiếm lại đảo.
Khi có lệnh phải chiếm đảo bằng mọi giá mà tàu không vào sát bờ được, tàu cũng không có xuồng đổ bộ, để hạn chế tối đa thiệt hại cho đơn vị mình, tôi đã yêu cầu hạm trưởng yểm trợ hải pháo, tác xạ tối đa lên mục tiêu trước khi TQLC đổ bộ. Nhưng sau khi quan sát tình hình trên đảo tôi thay đổi ý định và yêu cầu HQ chỉ tác xạ lên mục tiêu khi chúng tôi đã nổ súng trước. Sở dĩ tôi thay đổi kế hoạch hỏa lực yểm trợ vì những lý do:
1/ Cờ Trung Cộng rõ ràng trên đảo, nhưng chưa xác định được những người trên đó là quân hay dân hoặc cả hai lẫn lộn nên nếu HQ tác xạ hải pháo lên đảo trước thì chắc chắn có thương vong, chết dân tội nghiệp.
2/ Dường như lực lượng trên đảo không biết sắp bị tấn công nên tôi chưa xin HQ tác xạ lên mục tiêu trước để giữ yếu tố bất ngờ.
3/ Nếu trên đảo là quân TC, có vũ khí, khi HQVN nổ súng coi như báo động cho họ chạy ra tuyến phòng thủ thì khi TQLCVN bì bõm lội nước tiến lên thì chắc chắn sẽ là những tấm bia di chuyển dưới nước để quân địch trên bờ tác xạ, thiệt hại cho TQLC là chắc chắn nhưng chưa chắc đã chiếm được đảo. Đây là những giờ phút quan trọng nhất của các cấp chỉ huy trực tiếp tại mặt trận.Phải thi hành như thế nào giữa cái lệnh thượng cấp và sinh mạng của người lính?Đành rằng nhiệm vụ của người lính là bảo vệ Tổ Quốc nhưng chúng tôi phải giảm tối đa sự hy sinh cho đồng đội.
Tình hình địch trên đảo không rõ ràng, không cung cấp phương tiện đổ bộ nhưng lệnh ra thì phải thi hành, mà tôi là cấp chỉ huy trực tiếp tại mặt trận, sống chết của đồng đội, của thuộc cấp nằm trong tay tôi, phải thi hành như thế nào đây?Do đó tôi yêu cầu HQ sẵn sàng và chỉ trực xạ và bắn tối đa lên mục tiêu khi có súng của địch quân từ trên đảo bắn vào TQLC chúng tôi đang lội nước, đạp lên đá san hô tiến vào bờ.
Chúng tôi đổ bộ xuống, tiến quân rất chậm và khó vì bước trên đá san hô.Khi đến gần bờ thì nước lại sâu nên tiến quân không nhanh được, có nơi chúng tôi phải kéo binh sĩ lên khỏi những vũng sâu.
Vừa tiến quân vừa hồi hộp, nếu lúc này có tiếng súng nổ, dù chỉ một vài cây AK trên đảo bắn ra thì TQLC chịu trận nằm giữa 2 lằn đạn. đạn của địch từ trên dảo bắn ra và hải pháo của quân bạn HQ từ ngoài biển tác xạ vào, thương vong chắc chắn là lớn mà cái giá là chính thân xác của anh em TQLC chúng tôi.
Rất may mắn, phải gọi là may mắn chứ không thể nói là tài ba, lính TQLC không phải là mình đồng da sắt nhưng sẵn sàng xung phong vào lửa đạn khi có lịnh, đã không có một tiếng súng nổ khi chúng tôi hô “xung phong” ào ạt tiến lên đảo, bắt được tất cả là 60 “thanh niên” không trang bị vũ khí, rồi đưa ra chiến hạm của Trung úy An bằng xuồng của Trung cộng.
Tôi suy nghĩ đây không phải là thường dân Trung Cộng mà là dân quân, chắc chắn chúng phải có vũ khí, nhưng chúng đã chôn dấu kỹ để khỏi lộ diện là mang quân đi xâm lăng nước láng giềng mà chỉ là giả dạng thường dân đi tha phương “cầu thực” mà thôi, ngoài ra còn có mục đích để dò phản ứng của VNCH và Hoa Kỳ nữa. Vì vào thời điểm này TC còn quá yếu so với HK. Nghĩ vậy, nhưng đó là chuyện của thượng cấp, còn tôi chỉ là cấp đại đội trưởng TQLC đã hoàn tất nhiệm vụ, đã bắt được “dân TC” trên đảo, có nghĩa là đã thi hành nhiệm vụ xong, không tốn một viên đạn, máu TQLC có chảy nhưng do san hô đâm. Chúng tôi để nguyên hai dẫy nhà đã xây cất 5 hay 6 tháng rồi, lá cờ đỏ năm sao vàng của bọn xăm lăng đã bị Thũy Quân Lục Chiến hạ xuống và tịch thu.
Sau đó chiến hạm cũng phát giác quanh đảo Quang Hòa thêm 5 ghe nữa, chúng tôi đuổi theo bắt được và kéo về đảo chính Pattle nơi Đại Đội 3/TĐ.2/TQLC đóng quân, còn hơn 60 “dân TC” thì đem về Đà Nẵng.
Chiều hôm đó Thiếu Tá Lê Như Hùng CHT/TQLC đã dùng máy bay Dakota (C47) bay vòng vòng trên đảo Pattle để khuyến khích khen ngợi tinh thần anh em binh sĩ, vì ở Hoàng Sa không có sân bay.
Một tuần sau, số người bị bắt trên ghe được đưa trở ra đảo Pattle và thả họ cùng trả mấy chiếc ghe lại cho họ. Còn 60 dân (quân) TC bắt được trên đảo Quang Hòa thì một tháng sau trao trả sang Hồng Kông. Và sau đó thì TQLC chỉ đóng quân trên 2 đảo Pattle và Robert mà thôi, không có ai đóng quân trên đảo Duncan nữa.
Tôi xin nhắc lại là vào thời điểm 1959, theo tôi nghĩ thì TC chỉ muốn dò phản ứng của VNCH ra sao mà thôi, vì khi đó TC chưa đủ mạnh để “bắt nạt” các quốc gia trong vùng, và nhất là đối với HK, đồng minh của VNCH, có lực lượng hải quân hùng mạnh trên biển Đông nên TC chưa thể ngang nhiên đem quân xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chưa thể ngang nhiên vẽ cái “lưỡi bò” trên biển Đông như ngày nay.
Thời điểm sau 30/4/75, không còn VNCH, không còn Mỹ mà chỉ còn chư hầu là XHCNVN với 15 tên đầu sỏ trong bộ chính trị của đảng CSVN sẵn sàng làm tay sai, dâng đất liền, dâng biển cả, dâng mồ mả tổ tiên cha ông lên quan thầy TC.
Cái gọi là câu khuôn vàng thước ngọc của CSVN là:
“Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu, các nước anh em giúp đỡ nhiều” Thì nay còn đâu? Con dân Việt bắt tôm cá ở cái “biển bạc” của nước mình thì bị tầu-Tầu giúp đỡ bằng cách đâm cho chìm mà bọn cầm quyền CSVN sợ, không dám nói là tàu-Tầu mà bẩu rằng tầu lạ! Thế mới là chuyện lạ.
Thế còn “rừng vàng” thì sao? Bất chấp sự phản đối của các tầng lớp trí thức công nông dân, bộ chính trị CSVN vẫn ngang nhiên cho TC, “nước anh em giúp đỡ nhiều” bằng cách cho chúng đem nhân công và máy móc vào Tây Nguyên VN khai thác bô-xít mà hậu quả vô cùng tai hại cho các thế hệ mai sau. Ngay trước mắt, rừng Cao Nguyên không còn là lá phổi, đất Tây Nguyên không còn, mà chỉ còn lại là những đồi trọc, bãi bùn lầy chất thải bô-xít thì lấy gì điều hòa khí hậu, lấy gì điều hòa lưu lượng nước mưa? Hạn hán và lũ lụt là hậu quả đương nhiên phải xảy ra, đó đâu phải là thiên tai, mà là nhân tai, tai nạn khôn lường do 15 tên BCT gây ra cho toàn dân VN.
Bất chấp sự kêu than phản đối của người dân, VC ngang nhiên cho TC “thuê” đất rừng biên giới, đầu nguồn để trồng cây “kỹ nghệ” trong thời hạn ban đầu là 50 năm, là 1/2 thế kỷ ! Chuyện gì đang xảy ra và sẽ xẩy ra?
Rừng rậm biên giới, đầu nguồn bị đào xới tận gốc, bóc tận rễ để trồng cây kỹ nghệ, (thuốc phiện, cần sa ma túy, ai mà biết), không còn rừng để giữ nước, điều hòa lưu lượng nước mưa, hậu quả nhãn tiền là hạn hán và lũ lụt trong tích tắc, (như bo-xít Tây Nguyên). Vừa mưa là lụt, lũ cuốn trôi tất cả tài sản và sinh mạng. Nhưng mưa vừa ngưng là hạn hán, khô sông, khô đồng, toàn dân hả họng kêu “khát”.
Nhãn tiền là thế, còn họa diệt vong thì lởn vởn trước mắt. Thời hạn 50 năm, TC đem dân sang “tạm cư” đất Việt để trồng rừng cây kỹ nghệ, để săn sóc cây kỹ nghệ và lẽ tất nhiên chúng phải “trồng người”. Bản chất quân Tàu đẻ như gà, nhưng để tránh nạn nhân mãn thì dân trong nước của chúng chỉ được phép đẻ MỘT con, còn dân “tạm cư trồng rừng” trên đất Việt thì tha hồ đẻ!
Hãy tưởng tượng 50 năm sau, khi đã hết hạn thuê rừng thì cái đám di dân này là bao nhiêu? Như đàn kiến cỏ nói tiếng Tầu, ăn cơm Tầu, reo rắc khắp đó đây những mần sống “ghẻ Tàu” thì những rừng VN sẽ lở loét sẽ là những phố Tàu, huyện Tàu với chữ Tàu! Lúc đó không còn là tàu lạ mà là Tàu cha CSVN!
ĐAU! ĐAU! ĐAU!
Hỡi dân Việt, mau mau đứng dậy.
Mũ Xanh Cổ Tấn Tinh Châu.
Cali 2011
Le Nguyen chuyen
No comments:
Post a Comment