Đến bao giờ Công Án Quốc Tế sẽ đưa những người chủ mưu và thực hiện “Trại Cải Tạo” ở Việt Nam ra công luận và tòa án thế giới? Đến bao giờ mới có một lịch sử đúng nghĩa về “Quần Đảo Ngục Tù” của Việt Nam?
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Hình: Benjamin Vũ
Tôi hoàn tất phần bốn, phần cuối cùng cho loạt bài tiếng
Việt của Dự án TTĐTTS với tâm trạng vừa nhẹ nhõm, vừa 'tội lỗi.' Nhẹ nhõm, vì
tôi đã tận lực hoàn tất những công việc mình đã đề ra cho Dự án trong giai đoạn
này. 'Tội lỗi,' vì trong cả năm trời và nhất là mấy tháng cuối của Dự án, tôi
đã dành hết thời gian để lo cho công việc, còn nợ chồng con bao nhiêu cái 'em
sẽ' và 'mẹ sẽ.' Đã vậy, trong thời gian đó, tôi lại bắt đầu có một tình trạng
sức khỏe đặc biệt, nên hay bị mệt và cần nghỉ ngơi nhiều, mà vẫn phải một mình
làm mọi việc cho đến nơi đến chốn. Những ngày phải lo bài vở hay đi phỏng vấn,
tôi phải bàn cách với chồng, trốn con để ở trong văn phòng làm việc, hay hẹn
với chồng con đến tháng Năm sẽ có sức có giờ để đi công viên chơi, đi sở thú,
đi viện bảo tàng. Bây giờ, tôi có thể trở lại thời khóa biểu bình thường, và
hất cái chữ "Hẹn" xuống khỏi mặt tôi, nơi nó đã xâm lăng và nằm chình
ình trên đó mấy tháng nay. Đánh dẹp được giặc “Hẹn” làm cho cái cảm giác 'tội
lỗi' của tôi được 'nhẹ nhàng' hẳn ra.
Tuy nhiên, tôi cũng chỉ ‘nhẹ nhõm’ một phần thôi, vì vẫn còn
nhiều công việc phải làm cho Dự án này, bên cạnh hoàn tất bài tiếng Anh “Black
April, Bright April” cho tờ Sacramento Bee. Cho loạt bài tiếng Việt, tôi viết
cho một cộng đồng độc giả quen thuộc, có cùng lịch sử, tâm tư, văn hóa. Viết
cho báo Anh ngữ, tôi phải mang một não trạng khác, phải làm việc với Chủ Bút,
sửa đi sửa lại mười mấy lần, đổi cấu trúc, thay cách nhập đề, chuyển dịch nội
dung của Dự án từ tiếng Việt sang tiếng Anh, cân nhắc xem những đề nghị của Chủ
Bút có thích hợp với chủ trương của Dự án hay không, thẩm định xem có nên áp
dụng những cách tiếp cận đề tài theo xu hướng của báo chí Mỹ. Đây có lẽ là lần
đầu tiên, tôi cảm thấy mình như con cá nằm trong lợp, ngúc ngoa ngúc ngoắc giữa
hai bờ văn hóa, phải đi làm thông ngôn ở bờ bên kia, mà hồn vẫn còn ở lại bờ
bên này. Dòng sông Việt chảy ngoài kia là thế giới của tôi, nên cái gì cũng
thân thiết hơn, trong cùng tâm thức cộng thông nên tôi không phải thắc mắc có
cần giải thích điều này, có cần chú giải điều nọ. Trong bài tiếng Anh, với số
chữ ít ỏi, tôi không làm sao nhúc nhích được.
Nhiếp ảnh gia Benjamin Vũ, Lê Thủy Tiên, Nguyễn Thanh Thủy, tác giả, và Đạo diễn Đức Nguyễn. |
Khi viết tiếng Anh, tôi phải theo sự ‘ràng buộc’ của tờ báo
và Chủ Bút, vì đề tài Tháng Tư không phải là quan tâm hàng đầu của họ. Đây cũng
chính là lý do mà tôi muốn đưa đề tài này vào báo chí Anh ngữ, nhất là vì câu
chuyện tù cải tạo vẫn chưa được đưa ra ánh sáng. Nhà báo Steve Maganini, cố vấn
của tôi trong chương trình California Endowment Health Journalism Fellowship,
cũng là một giáo sư văn chương tại Đại học UC Davis, đã thốt lên sau khi đọc
bản thảo và ‘khám phá’ ra lần đầu tiên cái gọi là ‘trại cải tạo.’ Ông nói, “Tôi
không ngờ sau 1975, nhiều người đã bị thảm sát đến như vậy!” Ông Maganini là
một nhà báo danh tiếng, đoạt nhiều giải thưởng cho các bài viết về các cộng
đồng sắc tộc và di dân, trong đó có cộng đồng Việt Mỹ. Cha mẹ ông cũng là những
người Ý di dân, và do đó, ông cũng nói tiếng Ý từ nhỏ, và sống trực tiếp kinh
nghiệm di dân trong gia đình. Nhưng phản ứng của ông đối với bài viết cho chúng
ta thấy, kinh nghiệm hỏa lò tại Việt Nam vẫn còn là một bí ẩn xa xôi đối với
đại đa số quần chúng Mỹ, hay nhiều dân tộc khác trên thế giới, ngay cả một ký
giả chuyên viết về chính cộng đồng của chúng ta tại Thủ phủ Sacramento như ông
Maganini.
Nguyễn Thanh Thủy và Hạnh Nhân, hai tấm gương dấn thân. |
Nhiều năm nay, các phiên tòa xử những cá nhân đã từng nắm
quyền và giữ vai trò giết người hàng loạt trong các chế độ chuyên chế độc tài,
như Khmer Đỏ, hay Hitler, đã diễn ra. Tại Campuchea, nam phụ lão ấu, từ tăng ni
đến sinh viên học sinh, từ những người sống sót nạn Pol Pot cho đến những người
mới lần đầu tiên đối diện với lịch sử diệt chủng, đã xếp hàng lũ lượt đến dự
phiên tòa xử những người nồng cốt trong việc giết hàng triệu người Campuchea
trên ‘the killing field.’ Có hàng ngàn cuốn sách, hàng trăm cuốn phim, hàng
trăm viện bảo tàng ghi lại bằng chứng tội ác của ‘holocaust.’ Nhân loại ở bất
cứ nơi nào và thời nào cũng đi tìm công lý. Đến bao giờ Công Án Quốc Tế sẽ đưa
những người chủ mưu và thực hiện “Trại Cải Tạo” ở Việt Nam ra công luận và tòa
án thế giới? Đến bao giờ mới có một lịch sử đúng nghĩa về “Quần Đảo Ngục Tù”
của Việt Nam?
Trong công việc nghiên cứu về người Việt hải ngoại trong gần
20 năm nay, tôi vẫn quan tâm đến việc chạy đua với thời gian của những cộng
đồng di dân mới hình thành. Vì rào cản ngôn ngữ và văn hóa, những sử liệu cần
thiết và quan trọng của những cộng đồng này thường không được thu thập và giữ
gìn. Cộng đồng Việt hải ngoại cũng vậy, vẫn còn cần rất nhiều những Dự án
nghiên cứu đi sát với kinh nghiệm cộng đồng, với tâm tư của người dân, với lịch
sử của một dân tộc. Tâm huyết của tôi vẫn là việc thực hiện những Dự án này.
Do đó, Dự án “Tháng Tư Đen, Tháng Tư Sáng” nằm trong chương
trình nghiên cứu nối dài của tôi từ thập niên 1990s, khởi đi từ những bài
nghiên cứu về kinh nghiệm của người Mỹ gốc Việt, và khởi sắc với Dự án Việt Mỹ
VAP Vietnamese American Project. Dự án Việt Mỹ bao gồm hai phần chính. Phần thứ
nhất là các cuộc phỏng vấn với người Mỹ gốc Việt theo phương pháp lịch sử
truyền khẩu (oral history), chú trọng vào cộng đồng tại quận Cam, bên cạnh các
cuộc phỏng vấn với những cá nhân sinh sống tại Los Angeles, Redwood City, San
Jose, San Francisco, Utah, Pensylvania, vân vân. Nguyễn Thanh Thủy là người đầu
tiên tôi phỏng vấn cho Dự án VAP. Trong một bài viết cho tờ báo chuyên đề Lịch
Sử Truyền Khẩu Oral History Review,
số 29, tập 2, năm 2002, tôi đã dành cả trang để viết về bà, và trích dẫn hai
phần phát biểu của bà trong bài viết đó.
Phần thứ hai của Dự án VAP là những chương trình nối kết cộng đồng và trường đại học, đưa những tư duy học thuật vào cộng đồng, và đưa tiếng nói cộng đồng vào môi trường nghiên cứu. Một vài chương trình chính trong Dự án VAP gồm có Diễn đàn VAP (Cal State Fullerton, 2002), thăm viếng Little Saigon (nhiều lần trong suốt nhiều năm, với phái đoàn sinh viên, giáo sư, và nghiên cứu sinh), “Nối Kết các Thế Hệ Việt Mỹ” (kết hợp với Trung Tâm Thông Tin Việt Nam VIC, tại Nhật báo Viễn Đông, 2002), “Vết Thương Vô Diện, Hòa Bình Vô Danh” (tại Nhật báo Người Việt, 2004), các bài thuyết trình tại các trường đại học khắp nơi về đề tài người Việt, Tháng Di Sản Châu Á Thái Bình Dương hằng năm, vân vân.
Ở thời điểm thập niên 1990, việc sử dụng phương pháp lịch sử
truyền khẩu để nghiên cứu về người Mỹ gốc Việt – đặc biệt là sử dụng tiếng Việt
để phỏng vấn – vẫn còn chưa được nhiều người thực hiện, và vẫn chưa có những
chương trình với ngân sách hẳn hòi. Tôi dùng tiền vay chính phủ (student
loans), một mình cưỡi ngựa sắt đi khắp Quận Cam, và đôi khi lại bay đi nơi này
nơi nọ, để gom góp chứng từ về lịch sử cá nhân và kinh nghiệm sống của người
Việt. Có nhiều người sau này hỏi tôi:
-
Bây giờ, chị được trao nhiều giải thưởng cho Dự
án VAP, lại được Bộ ngoại giao tặng học bổng Fulbright, chị có thấy những điều
này làm cho công việc của chị có ý nghĩa không (do you feel validated)?
Câu trả lời của tôi rất đơn giản:
-
Từ ngày đầu tiên, khi quyết tâm thực hiện Dự án
này, tôi đã hiểu rõ giá trị của nó. Sự tưởng thưởng từ những tổ chức nghiên cứu
hay các cơ quan công quyền là một khích lệ lớn và tạo điều kiện thuận lợi hơn
khi tôi phát triển chương trình nghiên cứu của mình, nhưng tất cả những điều
này chỉ hỗ trợ cho công việc của tôi, chứ không đóng vai trò khẳng định giá trị
của nó. Tự bản thân công việc đã mang giá trị của nó.
Nếu không tin vào công việc mình làm – tuy có vẻ ‘liều’ và
‘điên’ khi đi vay tiền học để làm một cuộc nghiên cứu – thì tôi đã không đầu tư
công sức, thời gian, và tài chính vào việc này ngay từ những ngày chật vật mới
tới Mỹ. Hơn nữa, nếu công việc tôi làm vô nghĩa, chắc sự hưởng ứng ngay từ đầu
đã không có. Tất cả những ai tôi liên lạc để xin phỏng vấn đều hết lòng đón
nhận Dự án VAP, và nhiều nơi đã mời tôi nói chuyện về Dự án. Tuy nhiên, tôi
cũng cần nói thêm, là lúc đó, tôi mới đôi mươi, nên kinh nghiệm sống còn giới
hạn, và kiến thức lịch sử vẫn còn là một khoảng trống. Do đó, tôi tự đào luyện
mình, bằng cách vừa thực hiện nghiên cứu tham khảo tài liệu, vừa ghi danh chính
thức học những ngành giúp tôi có một kiến thức căn bản cho các Dự án tôi đã
hoạch định. Chính những Dự án nghiên cứu, như VAP và các Dự án khác tôi theo
đuổi, đã giúp tôi trưởng thành, cả về mặt cá nhân lẫn học thuật. Tôi có tâm sự
với Cô Thủy khi thực hiện loạt bài tháng Tư 2012:
-
Nếu cháu viết loạt bài về Cô vài năm về trước,
thì có lẽ ý tưởng và cái nhìn sẽ không đầy đủ như bây giờ, vì bây giờ, cháu đã
lập gia đình, vợ chồng cũng chịu cảnh xa cách nhiều năm, và sau khi đoàn viên,
cháu lại có hạnh phúc làm mẹ. Hơn nữa, trong mười mấy năm nay, cháu đã đi nhiều
nơi khác trên thế giới, phỏng vấn nhiều phụ nữ khác thuộc thế hệ của Cô, nên sự
cảm nhận của cháu về kinh nghiệm của Cô chắc chắn sâu sắc và thấu đáo hơn so
với lần đầu gặp Cô.
Thật vậy, nếu tôi chưa sinh con và nuôi con, chắc tôi đã
không cảm hết cái tâm tình của bà mẹ Nguyễn Thanh Thủy khi phải lìa xa ba con
dại mà vào trại cải tạo, hay cái đứt ruột của bà khi mất con. Xin cám ơn cuộc
đời đã cho tôi trưởng thành, và những người phụ nữ Việt ở khắp miền thế giới đã
nuôi tâm thức tôi lớn bằng chính kinh nghiệm đời họ. Nên tôi muốn dùng chính
lòng biết ơn này để thay lời kết.
Trước hết, tôi xin đặc biệt cám ơn Nhà báo Phan Tấn Hải đã
tin tưởng vào công việc tôi muốn thực hiện, viết về những biến cố đau thương
như chiến tranh, chết chóc, mất mát và ảnh hưởng của những biến cố này trên đời
sống tinh thần và tình cảm của người Việt ở Mỹ và trên thế giới. Từ đầu năm
2011, khi tôi liên lạc để xin Việt Báo phổ biến loạt bài này, Chú Hải đã đồng
ý, không chần chừ. Xin cảm ơn Chị Hòa Bình đã khuyến khích tôi tham dự giải
Viết Về Nước Mỹ trong một lần gặp mặt đầu năm 2012, giúp tôi nghĩ đến việc gửi
loạt bài này cho Ban Tổ Chức. Tôi cũng biết ơn Nhà thơ Trần Dạ Từ đã nhận bài
và đăng mỗi tuần theo đề nghị của tôi, để bài cuối cùng sẽ trùng vào dịp kỷ
niệm 30 tháng Tư.
Tôi xin cảm ơn Chương trình California Endowment Health
Journalism đã chọn Dự án “Tháng Tư Đen, Tháng Tư Sáng” của tôi cho năm 2011-12.
Đặc biệt, xin cảm ơn Nhà báo/Tác giả Martha Shark, Cố vấn của Chương trình; Cô
Michelle Lavendar, Giám đốc; Cô Andrea Kobrinsky Alday và Ban nhân viên văn
phòng; và Nhà báo/Giáo sư Steve Maganini, Cố vấn của tôi, đã góp ý cho bài viết
tiếng Anh trên tờ Sacramento Bee.
Tôi cũng cám ơn Nhiếp ảnh gia Benjamin Vũ đã giúp chụp những
tấm ảnh phóng sự trong lúc phỏng vấn Cô Thủy tại tư gia, lúc gia đình Cô đến
viếng nghĩa trang, và khi Cô làm việc thiện nguyện tại Hội TPB/QPVNCH. Bạn tôi
có hỏi, “Sao Trangđài làm gì mà cực quá vậy?” Tôi đáp, “Vì thấy cần.” Và vì tôi
‘cần’ nên anh Benjamin đã chụp hàng trăm tấm hình để tôi có thể chọn những hình
ảnh cần thiết và ưng ý. Xin cám ơn tấm lòng của anh Benjamin đối với Dự án này.
Xin cảm ơn Nhà làm phim Đức Nguyễn (đạo diễn các phim
Bolinao 52, Stateless, vv) đã dành thời gian để giúp thu hình sinh hoạt tại Hội
TPB/QPVNCH, hình ảnh viếng nghĩa trang, và phần đầu của các cuộc phỏng vấn.
Tôi xin cảm ơn Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã
chịu khó lắng nghe phần trình bày của tôi về Dự án (trong rất nhiều lần), cũng
như sẵn lòng dành thời gian để gặp gỡ và trả lời phỏng vấn. Tôi đã định hướng
Dự án trong nửa năm đầu, soạn đề cương cho toàn loạt bài, trước khi chọn Cô làm
nhân chứng cho mảng lịch sử hậu chiến đắng cay. Do đó, sau khi Cô nhận lời góp
mặt trong Dự án, tôi đã chủ động giải thích rành rọt cho Cô về mục đích, phương
pháp, và tiến trình làm việc. Tôi rất cảm động khi Cô vẫn còn nhớ tôi sau mười
mấy năm mất liên lạc, từ lần tôi phỏng vấn Cô cho Dự án Việt Mỹ VAP. Cám ơn Đại
úy Võ Bị Lê Thành Long, chồng Cô Thủy, đã là người tài xế trung thành, giúp đưa
Cô Thủy đến những nơi cần phỏng vấn và chụp hình tài liệu.
Xin chân thành cám ơn Linh mục Đinh Minh Trí (Dòng Tên), anh
Tri Nguyễn, và Tiến sĩ Eliza Noh đã sẵn lòng nhận lời mời của tôi và đóng góp
những phát biểu giá trị cho phần cuối của loạt bài.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn tất cả các Chủ Bút, Chủ Biên đã sẵn
lòng hỗ trợ và phổ biến loạt bài cho Dự án này trên các tờ báo Việt ngữ – cả in
lẫn ảo – mà Quý vị đảm trách:
Nhà thơ Phan Tấn Hải, Nhà thơ Trần
Dạ Từ, và Việt Báo vietbao.com
Nhà báo Vũ Đình Trọng và Tuần báo
Sống
Nhà báo Hoàng Định Nam và Ban Biên
Tập, Tuần báo Trẻ baotreonline.com
Nhà thơ Bắc Phong và Thư viện Sáng
Tạo sangtao.org
Nghị viên Vũ Khánh Thành, MBE, và
An Việt Toàn Cầu (Anh Quốc) anviettoancau.net
Hải Ngoại
Phiếm Đàm, cũng như hoangsaparacels.blogspot.com
Nhà văn Phạm Xuân Đài và Diễn Đàn
Thế Kỷ diendantheky.com
Cô Nguyễn Thanh Nhã, và Tạp chí
Gạch Nối (UC San Diego)
Nhà văn Phạm Quốc Bảo và Quán Văn,
Người Việt
Nhà báo Phạm Đình Chiến và Nguyệt
san Hiệp Nhất
Nhà báo Trầm Hương và Cộng đồng
Người Việt Utah nguoivietutah.org, cũng như mp Blog.
Cũng như tất cả các mạng tôi không có liên lạc nhưng đã đăng
lại loạt bài này: Blog Nhà Báo, Tiếng Nói Việt Nam, Vinh Danh QLVNCH, Lý Tưởng
Người Việt, và các trang khác.
Tác giả phỏng vấn Nguyễn Thanh Thủy.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý độc giả đã theo dõi và để lại
phản hồi trên các trang mạng, hay gửi email cho tôi để chia sẻ cảm tưởng của
quý vị về Dự án “Tháng Tư Đen, Tháng Tư Sáng.” Những đóng góp chân tình cũng
như lời chúc sức khỏe của quý vị là phần thưởng lớn nhất cho tôi trong Dự án
này. Câu chuyện này là câu chuyện của mọi người chúng ta. Tôi hân hạnh có cơ
hội kể hầu quý vị một ‘câu chuyện gia đình’ trong dịp tháng Tư năm nay. Xin một
lần nữa trân trọng cám ơn.
Tôi cũng rất may mắn, có một cộng sự viên đắc lực, một thiện
nguyện viên toàn thời gian. Anh đã chịu khó chờ cơm tối – bữa cơm chung duy
nhất của gia đình chúng tôi – khi tôi cần phải thu xếp công việc trên điện
thoại hay chưa kịp về. Anh chăm sóc cho con trong những ngày tôi phải ngồi từ
sáng đến tối bên bàn phím, đánh máy các cuộc phỏng vấn, sọan thảo lịch làm việc
cho Dự án, định hướng cho các cuộc phỏng vấn, chuẩn bị câu hỏi và đề tài cho Dự
án, hướng dẫn Cô Thủy qua điện thoại về tiến trình làm việc trong Dự án và giúp
Cô hiểu mục đích và viễn ảnh của Dự án, hay lúc tôi ngồi giữa vài trăm tấm hình
văn khố hết ngày này đến ngày khác để chọn đi chọn lại chỉ vài tấm hình cho mỗi
tuần.
Riêng phần hình ảnh văn khố, tôi hết lòng biết ơn Anh đã
dành rất nhiều thời gian để chụp lại các hình một cách chuyên nghiệp. Sau khi
chụp, Anh còn tỉ mỉ điều chỉnh ánh sáng và góc độ, để dù những tấm hình trắng
đen đã vàng ố và phai mờ, vẫn được ghi lại thật rõ và đúng tiêu chuẩn. Tôi
không giỏi về kỹ thuật, và cũng không có đủ thời gian để lo tất cả những việc
này, mà đây lại là một khâu quan trọng trong Dự án. Hình văn khố chiếm phần lớn
số hình cần dùng trong Dự án, và đóng một vai trò quan trọng trong việc kể lại
lịch sử hậu chiến của Nguyễn Thanh Thủy và gia đình. Một tấm ảnh đáng giá một
ngàn lời nói. Cám ơn Anh đã đưa thêm gần ba chục ngàn lời quý giá vào loạt bài
này.
Tại văn phòng của HTPB_QPVNCH.
Cám ơn Cục Cưng, trong lúc tôi bôn ba thực hiện dự án, hay
lúc tôi dỗ ngọt “Chờ mẹ đánh máy xong đoạn này rồi mình đi chơi nhà chòi nghe,”
đã kiên nhẫn đón đợi sự hiện diện giới hạn của tôi trong suốt thời gian qua.
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
No comments:
Post a Comment