Written by Trúc Giang MN
1* Mở bài
Trong tháng 7 năm nay, 2013, tuân hành Đạo luật Tự do Thông tin FOIA (Freedom of Information Act ban hành năm 2005), Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã giải mã hồ sơ tối mật Area 51 (Vùng 51), là một khu quân sự bí mật nhất hành tinh trong suốt 60 năm qua.
Tờ Atlantic Report đưa tin, một tập tài liệu 407 trang được Đại học George Washington vừa công bố, cho biết Vùng 51, một khu vực mà từ lâu đã có rất nhiều đồn đoán, cho rằng đó là nơi cất giấu thi thể của người ngoài hành tinh (Aliens) và những mảnh vở của con tàu vũ trụ của họ. Nhưng tài liệu giải mật cho biết Vùng 51 chỉ là một khu vực để chế tạo và thử nghiệm các loại phi cơ do thám tối tân nhất trong thời gian đó là chiếc Lockheed U-2. Sau U-2 là phi cơ do thám siêu âm OXCART A-12.
Tài liệu giải mật của CIA đã phá tan những đồn đoán về người ngoài hành tinh và những vật thể bay không xác định UFO (Unidentified Flying Object) có liên quan đến vùng đó.
Trước tháng 7 năm 2013, chính phủ Mỹ không công nhận về sự hiện hữu của Vùng 51 nên những đồn đoán về người ngoài hành tinh và dĩa bay càng gia tăng, không những chỉ ở Mỹ còn còn lan tràn nhiều nơi trên thế giới, có rất nhiều nhân chứng xác nhận đã thấy hiện tượng dĩa bay.
2* Cái tên “Area 51” được đưa ra ánh sáng
Chỉ có cái tên “Area 51” được đưa ra ánh sáng, nhưng nội dung hoạt động của nó vẫn chìm trong bóng tối của mức độ tối mật (Top Secret).
2.1. Cái chết của hai nhân viên Vùng 51
Chính phủ Mỹ dùng mọi biện pháp để bảo vệ bí mật của Vùng 51, tuy nhiên, một sự kiện làm cho cả thế giới biết đến cái tên Area 51, đó là cái chết của hai nhân viên làm việc tại đó.
Trong quá trình thiêu hủy vật liệu, hai nhân viên nầy không được trang bị quần áo và thiết bị bảo hộ lao động nên bị chết do nhiễm khí độc. Sau đó, gia đình nạn nhân và những nhân viên khác đưa đơn kiện chính phủ.
Lúc đó không ai biết Vùng 51 là gì, kể cả quan toà và luật sư. Để chứng minh thật sự có Vùng 51, các nhân viên đưa ra những tài liệu không thuộc loại mật, nói về điều kiện bảo vệ an toàn của Vùng 51 để làm bằng chứng. Những tài liệu chính thức chỉ nói đến tên của Vùng 51 mà thôi, nhưng ngay sau đó chính phủ thu hồi các tài liệu và đưa vào danh sách tối mật nên toà không được xử dụng tài liệu đó làm bằng chứng.
2.2. Chính phủ Mỹ chính thức công nhận có Vùng 51 vào năm 1995
Năm 1995, Tổng thống Bill Clinton ký một sắc luật về việc bảo vệ môi trường tại “Vùng 51” vì những tác hại trầm trọng do phóng xạ gây ra.
Như vậy, chính phủ đã chính thức công nhận hiện có một vị trí tên là Area 51.
Hiện nay, Vùng 51 cho phép Cơ quan Bảo Vệ Môi Trường EPA (Environment Protection Agency) được kiểm tra các thiết bị và khu vực chung quanh Vùng, theo nội dung của luật năm 1995. Tuy nhiên, những báo cáo của EPA cũng được xếp vào loại tối mật.
Đến đây, cái tên Area 51 được đưa ra ánh sáng nhưng hoạt động của nó vẫn chìm trong bóng tối.
(Mức độ bí mật được xếp theo thứ tự như sau: Top secret, Secret, Confidential, Restricted, Unclassified, Clearance và Compartmented Information)
3* Sự thật của Vùng 51
3.1. Vùng thử nghiệm Nevada
Vùng 51 (Area 51) là một khu vực rộng lớn nằm giữa sa mạc Nevada, cách thành phố Las Vegas 133km. Vùng 51 tiếp giáp với khu vực thử nghiệm Nevada NTS (Nevada Test Site) do Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử AEC (Atomic Energy Commission) quản lý. NTS là khu vực thử nghiệm công khai, dùng để thử nghiệm các loại vũ khí hạt nhân. Nó được chia ra 30 lô, đánh số từ 1 đến 30, để thử nghiệm nhiều loại vũ khí khác nhau
Vùng 51 nầy có nhiều tên khác nhau như: Paradise Ranch, The Ranch, Watertownn Strip, The Box, Red Square, The Farm, Groom Lake, Dreamland, Air Force Flight Center, và Detachment 3… Cố ý cho nhiều cái tên của một vị trí là để đánh lạc hướng hơn là chỉ dùng một tên duy nhất. Diện tích toàn bộ Area 51 rộng 360Km2.
3.3. Những biện pháp bảo mật cho Vùng 51
Phi cơ các loại bị cấm bay qua không phận Groom Lake (Vùng 51). Chung quanh là sa mạc trống trải khiến cho mọi tiếp cận bị phát hiện bởi hệ thống Radar giám sát toàn khu vực. Các biện pháp an ninh khác, bao gồm việc tuần tiểu bằng xe hơi, trực thăng, và bằng hệ thống cảm biến (sensor) có thể phân biệt được con người và loài vật.
Ranh giới Vùng 51 không có hàng rào phân định, nhưng được đánh dấu bằng những cột mốc màu cam và bảng Cảnh báo (Warning Sign)
3.4. Bên trong Vùng 51
Vùng 51 bao gồm những dãy nhà chứa máy bay, một đường băng và các phòng. Các toà nhà trong khu vực rất ít cửa sổ, để nhân viên không nhìn thấy những gì bên ngoài, khác với công việc họ đang làm. Đặc điểm để nhận diện là hồ Groom Lake.
Các nhóm nghiên cứu cũng không biết được công việc của những nhóm khác. Những viên chức cao cấp khi được phép vào liên hệ công tác thì cũng bị giới hạn trong phạm vi phần hành của mình mà thôi.
Có hai giả thuyết về con số 51. Một giả thuyết cho rằng khu vực bí mật nầy nằm sát bên cạnh lô thử nghiệm số 15 của Khu Thử Nghiệm Nevada (NTS), nên họ đảo ngược số 15 thành số 51, đặt tên cho vùng nầy.
Thuyết thứ hai về con số 51 là, giới chức thẩm quyền lấy con số khá lớn để tránh lẫn lộn với những số của các lô thử nghiệm thuộc NTS, khi họ muốn phát triển thêm con số lớn hơn 30 đã có.
3.5. Việc di chuyển của nhân viên làm việc tại Vùng 51
Tài liệu giải mật cho biết, nhân viên làm việc tại Vùng 51, thường xuyên khởi hành từ lúc tờ mờ sáng thứ hai và trở về lúc trời sẩm tối ngày thứ sáu trong tuần.
Những chuyến bay đặc biệt mang tên Janet Airlines của nhà thầu quốc phòng EG&G chuyên chở nhân viên đi và về tại phi trường Quốc tế McCarran ở Las Vegas, Nevada.
(EG&G=Edgerton, Germeshausen and Grier, Inc.).
4* Những dự án được thực hiện tại Vùng 51
Từ năm 1950, CIA hợp tác với công ty Lockheed nghiên cứu, chế tạo và thử nghiệm phi cơ do thám mới. Người đứng đầu công ty Lockheed là Johnson cùng với CIA chọn Vùng 51 để thực hiện dự án.
Từ khi thử nghiệm những chuyến bay U-2, Tổng thống Eisenhower ký sắc lịnh cấm bay trên vùng trời Groom Lake (Vùng 51).
Sau U-2, chính phủ Mỹ tiến hành những dự án chế tạo phi cơ hiện đại nhất bao gồm các loại tàng hình cũng tại Vùng 51 nầy.
4.1. Phi cơ do thám U-2
U-2 là một tiến bộ vượt bậc của Mỹ trong thời gian chưa có vệ tinh do thám.
Thông số kỹ thuật của U-2:
Bay cao: 25km* Cánh rộng: 31.4m* Phi đội: 1 người* Cao: 4.88m* Tốc độ tối đa: 805km/giờ* Hoạt động hiệu quả cả ngày lẫn đêm trong mọi điều kiện thời tiết.
Tháng 7 năm 1957, lần đầu tiên U-2 thành công mỹ mãn trong nhiệm vụ do thám, bay vào không phận Liên Xô, chụp hình các vị trí quan trọng và bay về an toàn. Những chuyến bay sau đó cũng thành công, nhưng đến năm 1960, sự kiện U-2 năm 1960, gây thêm căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh lạnh.
4.2. Thử nghiệm vũ khí nước ngoài tại Vùng 51
1). Thử nghiệm phi cơ MiG của Liên Xô
Việc Không Quân Mỹ nghiên cứu, thử nghiệm vũ khí nước ngoài đã được biết đến sau Thế Chiến 2, nhưng không biết nó diễn ra ở đâu.
Tài liệu giải mật của CIA cho biết nó được thực hiện ở Vùng 51. CIA đã thu được một số phi cơ MiG của Liên Xô, mang về Vùng 51 để phi công Hoa Kỳ bay thử, xem xét đánh giá ưu khuyết điểm của nó, từ MiG-17 đến MiG-21. (MiG=Mikoyan-Gurevich, tên công ty sản xuất)
2). Phi cơ F-14 thực tập không chiến với MiG-21
Đến Vùng 51, tôi được yêu cầu bay chậm lại và chờ lịnh mới. Sau đó tôi nhận được chỉ thị, “nhìn về phía trước 5 dặm, ở cao độ 10,000 bộ và mô tả lại những gì mà tôi trông thấy”.
Ông Palmer nhanh chóng nhận ra chiếc MiG-21 sơn cờ Mỹ, và bắt đầu không chiến trên vùng trời Area 51. Palmer nhớ chính xác như vậy vì nhìn thấy lòng hồ Groom Lake cạn nước đến trơ đáy. Cuộc không chiến bắt đầu và chấm dứt trên Vùng 51.
Ông Palmer cho rằng ông dễ dàng nhận ra chiếc MiG-21 vì trước đây đã nhiều lần chạm trán với nó trong các phi vụ ở miền Bắc Việt Nam. Ông nói tiếp: “bây giờ nó rất lạ vì mang cờ Mỹ, so với trước kia nó mang cờ đỏ sao vàng. Tuy nhiên nó cũng tạo ra một cảm giác ớn lạnh như trước kia”.
Thật ra ông Palmer đã nhận ra căn cứ bí mật nầy của Mỹ: “Tôi đã nhận ra lòng hồ Groom Lake, các nhà chứa máy bay, và đường băng từ xa. Tôi biết đó là máy bay do thám U-2, các bạn đồng đội của tôi cũng biết thế. Tuy nhiên, chúng tôi đã phải viết cam kết “cấm khẩu”, không được tiết lộ những gì đã thấy và những trận không chiến với phi cơ MiG mang cờ Mỹ.
Ông Palmer nay đã ngoài 70 tuổi, làm giám đốc điều hành Bảo Tàng Quốc Gia Thử Nghiệm Nguyên Tử NATM (National Atomic Testing Museum).
Tháng 3 năm 2012, ông đã mạnh dạn mở phòng triển lãm “Huyền Thoại và Thực Tế ở Vùng 51”, ở đó ông trình bày các hoạt động và công trình nghiên cứu của khu vực bí ẩn nầy, bao gồm những tài liệu chưa được giải mật.
Huyển thoại và thực tế của Vùng 51 được ông trình bày xen kẽ nhau, người xem không biết đâu là thật, đâu là giả. Không có cái thật để xác nhận cái giả.
Theo ông Palmer, mặc dù chính phủ thừa nhận có Vùng 51 là căn cứ bí mật với những dự án cũ, nhưng những nghiên cứu mới cũng có thể được giữ bí mật, ngoài sự hiểu biết của công chúng.
5* Sự kiện U-2 năm 1960
5.1. Bối cảnh
Chiến tranh lạnh là thời gian chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Khoa học kỹ thuật về không gian của Liên Xô đã đi trước Mỹ một bước, và Mỹ mong muốn được biết những bí mật đang diễn ra ở nước đầu đàn Cộng Sản nầy, thế là chiếc phi cơ do thám Lockheed U-2 ra đời.
Lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1957, chiếc U-2, biệt hiệu là Dragon Lady (Rồng Cái), được đánh giá là một thành tựu vượt bậc, có khả năng do thám hữu hiệu nhất trong lúc vệ tinh do thám chưa được sáng chế.
Đặc điểm của U-2 là hoạt động cả ngày lẫn đêm dưới mọi thời tiết. Tính ưu việt nhất của U-2 là độ cao 25km, mà các loại chiến đấu cơ MiG của Liên Xô không bay tới được, thậm chí hỏa tiễn đất đối không SAM (Surface-to-Air Missile) cũng không có hiệu lực.
Tháng 7 năm 1957, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower điều đình với Thủ tướng Pakistan là Hussein Suhrawardi, để cho Mỹ lập một khu vực thám thính trong căn cứ không quân Peshawar thuộc thành phố Badaber (Pakistan), một vị trí thuận lợi để do thám Liên Xô.
Chuyến bay U-2 đầu tiên do phi công người Anh thực hiện, vì Mỹ muốn tránh chiến tranh có thể xảy ra giữa Mỹ và Liên Xô trong không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh.
Chuyến bay thành công. U-2 đã chụp hình được các vị trí thử nghiệm hoả tiễn liên lục địa, các trung tâm phóng hoả tiễn và nhà máy chế tạo Plutonium cho việc sản xuất bom nguyên tử.
Sau đó, ngày 9-4-1960, một chiếc U-2 thuộc đơn vị 10-10 của CIA,do phi công Bob Erison đã bay vào không phận phía Nam Liên Xô, chụp hình 4 vị trí quân sự bí mật: là khu thử nghiệm hoả tiễn liên lục địa Semipalatinsk, căn cứ không quân Dolon, nơi chứa phi cơ ném bom chiến lược Tu-95, khu thử nghiệm hỏa tiễn SAM và trung tâm phóng phi thuyền không gian Baikonur.
Chiếc U-2 nầy bị lực lượng phòng không Liên Xô phát hiện khi bay trên độ cao 25km, nhưng họ không có vũ khí nào có khả năng bắn hạ được nó, nên chiếc U-2 đáp xuống an toàn tại phi trường Zaheran của nước Iran, mang theo hình ảnh đã chụp được.
5.2. Sự kiện U-2 năm 1960
Ngày 28-4-1960, phi công Glen Dunaway lái chiếc U-2 từ căn cứ không quân Mỹ ở Thổ Nhỉ Kỳ bay đến phi trường Peshawar của Pakistan. Nhiên liệu và phi công Francis Gary Powers đã được vận tải cơ C-130 chở đến phi trường nầy vào ngày hôm trước.
Nhiệm vụ bị đình hoãn vì thời tiết xấu.
Ngày 1-5-1960, đại úy phi công Francis Gary Powers cất cánh, thi hành hiệm vụ mang tên Grand Slam.
Chiếc U-2 bay vào không phận Liên Xô, chụp được 6 giàn phóng thử nghiệm hỏa tiễn liên lục địa (ICM), 2 giàn ở trung tâm không gian Baikonur, 4 ở Plesetsk, và một nhà máy Plutonium có tên là Chelyabinsk-6. Nhưng chiếc U-2 bị phát hiện. Tất cả lực lượng phòng không Liên Xô báo động đỏ, Trung tướng Yevgeniv Savitskiy ra lệnh cho các phi đội MiG bay lên tấn công phi cơ lạ.
Chiếc U-2 bay quá cao nên phi cơ MiG không tiếp cận được. Chiếc U-2 đã vượt qua những hàng rào hoả tiễn một các an toàn, trong đó có một đơn vị hỏa tiễn không làm việc, vì nghỉ Lễ Lao động ngày 1 tháng 5.
Sau cùng, đại úy Powers nghe một tiếng nổ của hoả tiễn ở phía sau, phi cơ không bị đạn, nhưng sức nổ làm chao đảo và phi cơ bổ nhào xuống.
Powers bấm út Eject cho ghế bay bật tung ra khỏi phi cơ, nhưng ông ta bị kẹt dính vào phi cơ, vì ống dẫn dưỡng khí không được tháo ra. Cuối cùng, Powers nhảy dù an toàn xuống một vùng nông thôn của Liên Xô. Ông hy vọng dân địa phương giúp đở để trốn thoát, nhưng bị bắt giữ.
Các đơn vị phòng không và phi đội MiG của Liên Xô không biết chiếc U-2 bị rơi xuống đất, nên hỏa tiễn SAM bắn rơi, làm nổ tan một chiếc MiG-21 trên đường tìm kiếm chiếc U-2.
5.3. Mỹ che đậy sự kiện U-2 năm 1960
Bốn ngày sau khi đại úy Powers mất tích, cơ quan NASA họp báo cho biết, một chiếc phi cơ thăm dò thời tiết của họ bị mất tích ở phía Bắc Thổ Nhỉ Kỳ, phi công gọi về cho biết có trục trặc về hệ thống dẫn dưỡng khí. Đồng thời NASA cũng trình diện báo chí một chiếc U-2 đã được cấp tốc sơn lại màu của cơ quan nầy, và cho biết phi công có thể chết và phi cơ vở nát.
5.4. Nikita Chrushchev của Liên Xô giăng bẫy
Sau cuộc họp báo của NASA, Nikita Khrushchev giăng ra một cái bẫy, đó là tuyên bố một phi cơ do thám của Mỹ đã bị bắn hạ nhưng không nói là phi công còn sống.
Nghe vậy tưởng thật, Mỹ lại tiếp tục che giấu vụ do thám của U-2 bằng cách nói rằng phi công báo cáo là đang gặp khó khăn vì trục trặc về hệ thống dưỡng khí và Mỹ tuyên bố một công tác mang tất cả những chiếc U-2 ra kiểm tra về hệ thống dưỡng khí để tránh trục trặc tương tự có thể xảy ra sau nầy.
5.5. Nikita Khrushchev tố Tổng thống Eisenhower
Ngày 19-8-1960, Gary Powers bị kết án về tội gián điệp, bị 3 năm tù giam và 7 năm tù lao động khổ sai.
Sau 1 năm 9 tháng, Gary Powers được trao đổi tù binh với điệp viên Liên Xô Rudolf Abel vào ngày 10-2-1062 tại cây cầu Gliennicke Bridge, nối giữa biên giới Đông Đức và Tây Berlin. Rudolf Abel hoạt động tại tổ gián điệp ở New York City, đã bị FBI bắt, và toà kết án 45 năm tù.
Vụ U-2 xảy ra 15 ngày trước cuộc họp thượng đỉnh bốn bên giữa Đông và Tây, tham dự gồm có Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, Nikita Khrushchev, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle và thủ tướng Anh Harold MacMillan.
Tưởng đâu vụ U-2 phá vở hội nghị, nhưng Liên Xô hòa hoãn. Khrushchev chấp nhận chính sách “Sống chung hoà bình” của Mỹ, và sau đó, những vụ diễn binh ở Liên Xô không còn phô trương xe tăng, hoả tiễn, mà thay vào đó là hình ảnh các thiếu nhi với chim bồ câu trắng, chim hoà bình, và những đoàn lực sĩ điền kinh.
Rõ ràng là Liên Xô đã ngán Hoa Kỳ.
6* Người ngoài hành tinh và vật thể bay không xác định
6.1. Chụp hình UFO rượt đuổi máy bay ở Chile
Liên tiếp nhiều năm qua, người dân Chile đã ghi hình những lần xuất hiện của UFO trong vùng trời của quốc gia họ.
Theo hãng tin LiveScience, một đoạn Video đã ghi lại buổi trình diễn phi cơ chiến đấu của Không quân tại El Bosque, Santiago, Chile, vào ngày 5-11-2012. Trong đoạn Video, người ta quan sát và thấy một vật thể tròn, màu đen đuổi theo các phi cơ chiến đấu với tốc độ thật nhanh.
Một đoạn Video trước đó, năm 2010 cũng ở vị trí cũ đã gây chú ý trong dư luận.
Hãng tin LiveScience tường thuật, từ những địa điểm khác nhau, một số nhân chứng đã dùng các thiết bị thu hình hay điện thoại di động, ghi lại cảnh rượt đuổi một nhóm máy bay nhào lộn trên không, tuy nhiên, khi xem lại với tốc độ chậm người ta thấy một vật thể lạ xuất hiện trên màn hình. Đó là một vật hình tròn, màu đen kỳ lạ bay trên bầu trời. Các chuyên viên về hình ảnh gởi đoạn Video trên cho Ủy Ban Chính phủ Nghiên Cứu về những hiện tượng bất thường. Các chuyên gia của Ủy Ban đưa ra kết luận rằng: “Cuối cùng, những phi cơ phản lực của Chile đã bị UFO quấy nhiễu. Đây là bằng chứng tốt nhất phản ảnh việc UFO đã ghé thăm trái đất của chúng ta”.
Một số người hoài nghi cho rằng đó là hình ảnh của côn trùng, nhưng giả thuyết đó không thuyết phục cho lắm, bởi vì tốc độ của vật nầy vượt quá 65,000Km/giờ.
6.2. Trực thăng cảnh sát Anh đã từng đụng độ với UFO năm 2008
Theo BBC News và báo The Sun, thì Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Anh đã phổ biến một tài liệu nghiên cứu về UFO của Bộ Quốc Phòng, trong đó có một số báo cáo về việc trực thăng cảnh sát đã từng đụng độ với vật thể lạ trên vùng trời thành phố Cardiff vào tháng 6 năm 2008.
Vật bay bí ẩn bất ngờ hướng về trực thăng cảnh sát khi họ chuẩn bị đáp xuống sân bay quân sự St. Athan của thành phố Cardiff. Cả ba phi công quyết định rượt đuổi vật thể lạ, họ bay đến tận bờ biển North Devon thì dừng lại, vì kim đồng báo sắp hết xăng.
Các phi công nhấn mạnh: “Đích thị đây là dĩa bay cho dù đó là một điều khó tin”.
6.3. UFO xuất hiện ở Mỹ năm 1980
Theo tờ The Telegraph (Anh), sáng sớm ngày 26-12-1980, trung úy Không quân Mỹ phụ trách an ninh căn cứ quân sự Suffolk nhận được báo cáo về một hiện tượng lạ tại khu rừng lịch sử Rendlesham, ông cùng hai phi công bay đến hiện trường và tức thì thấy một nguồn sáng với cường độ cao phát ra từ một vật thể trên nền rừng.
Một phi công ở lại dùng Radio báo cáo về Trung Tâm Kiểm Soát An Ninh, trong khi đó ông và phi công còn lại cố đến gần phi thuyền hình tam giác, thì thấy nó phát ra ánh sáng màu xanh dương và vàng. Sau khoảng 45 phút, “phi thuyền” bổng nhiên phát ra một loạt ánh sáng mạnh, cất mình lên cao mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào, và biến mất với một tốc độ phi thường.
Những cuốn phim, những bức ảnh chụp về hiện tượng đó được gởi về Trung Tâm Kiểm Soát An Ninh (CSC) để kiểm chứng. Một số ảnh bị dư ánh sáng (toàn màu trắng), một số xử dụng được thì phù hợp với lời khai của các nhân chứng.
6.4. UFO xuất hiện ở Bỉ
Trong hai năm, 1998, 1999, chính phủ Bỉ đã công bố rộng rãi các tài liệu nghiên cứu về UFO. Theo các báo cáo, có gần 2,000 trường hợp nhìn thấy UFO bằng mắt và bằng Radar. Căn cứ theo tài liệu được đưa lên trang Web UFO Evidence, một vụ UFO khá điển hình gây chú ý trong dư luận. Đó là báo cáo của hai trung sĩ Hiến binh Bỉ trên đường tuần tra từ Eupen đến Kittenis của khu vực Hautes Fagnes.
Vào ngày 29-11-1998, họ nhìn thấy một phi thuyền hình tam giác với ba chiếc đèn pha rọi xuống, bay chầm chậm cách mặt đất khoảng 200m hướng về thành phố Eupen. Kế đó, nó di chuyển đến hồ Gileppe, bất động trong trạng thái lơ lửng và phát ra hai tia sáng màu đỏ kéo dài khoảng 45 phút.
Khoảng 4 giờ sau khi hai cảnh sát báo cáo về trung tâm chỉ huy, họ lại thấy phi thuyền thứ hai xuất hiện tại vùng rộng lớn của Treas và di chuyển về hướng Bắc.
Cơ quan điều tra vật thể lạ của Bỉ thống kê, đã có 13 cảnh sát tại 8 vị trí khác nhau của vùng Eupen đã nhìn thấy hai vật thể lạ nầy. Đồng thời, có khoảng 1,500 thường dân tại hơn 70 vị trí khác nhau trong khu vực cũng đã chứng kiến hiện tượng đó.
6.5. Xác chết người ngoài hành tinh ở Siberia
Năm 2011, hai người đi vào vùng tuyết phủ Siberia (Nga), phát hiện một xác chết đã bị hư hại, một nửa vùi trong tuyết. Xác ướp màu đỏ lợt với hốc mắt lồi ra và to tròn, một thân thể khẳng khiu. Khu vực nầy là nơi mà người ta thấy UFO xuất hiện nhiều lần. Hiện nay, đoạn Video clip về xác ướp Siberia nầy đã thu hút hơn 1.4 triệu người xem trên Youtube.
Năm 2003, mẫu hóa thạch của một sinh vật tí hon dài 15cm có hình giống như con người, được đặt tên là Atacama Humanoid, gọi tắt là Ata mà nhiều nhà khoa học cho rằng nó có thể là một người ngoài hành tinh (Aliens) hay một chú khỉ.
Theo các khoa học gia hàng đầu tại Đai học Stanford thì nguồn gốc xác ướp nầy có thể là người ngoài hành tinh, đã được tìm thấy cách đây 10 năm tại sa mạc Atacama của nước Chile. Đó là con người thuộc giới tính nam.
Hiện nay, mẫu vật nầy được lưu giữ tại Học viện điều tra và nghiên cứu hiện tượng ngoài trái đất của Tây Ban Nha.
6.7. Nghiên cứu của Đại học Stanford California về xác ướp Ata
Sau khi giải phẩu cắt phần ngoài của hai xương sườn để lấy mẫu DNA và xét nghiệm DNA, kết hợp với công nghệ điện toán, cuối cùng giáo sư Nolan cho biết, Ata không phải là một chú khỉ, nó là con người, thậm chí gần giống con người hơn cả loài vượn.
Ông Nolan giải thích: “Đột biến thú vị nầy” là con người có giới tính nam, sống sót sau khi sanh từ 6 đến 8 năm. Thậm chí khi sống nó đã thở, ăn uống và chuyển hoá như con người”.
Tuy nhiên, nhiều khoa học gia khác trên thế giới cho rằng bộ xương kỳ lạ nầy không giống con người vì nó chỉ có 9 cái xương sườn. (Con người có 12 cặp xương sườn, tổng số 24 cái, hai cặp số 11 và 12 thì ngắn hơn xương khác. Xương sườn là cái khung che đậy các cơ quan trong phần trên của thân thể, gồm phổi, tim…)
Vào thời điểm đó, nhiều người vẫn còn tin tưởng rằng xác ướp tý hon đó là người ngoài hành tinh.
7* Vùng 51chứa xác ướp người ngoài hành tinh và mảnh vở của UFO
Đồn đải bắt đầu từ báo cáo của một trung úy phi công.
Ngày 24-6-1947, trung úy phi công Kenneth Arnold bay thử nghiệm một phi cơ mới, khi đến vùng trời Groom Lake (Vùng 51) thì thấy một UFO bị nạn rớt xuống khu vực Roswell thuộc bang New Mexico. Ông ta báo cáo về bộ chỉ huy mô tả sự việc. Kế đó, tướng William Blanchard tuyên bố báo cáo nhận được, nhưng ngay sau đó Không quân Mỹ rút lại lời tuyên bố và cho biết rằng vật lạ đó là một khinh khí cầu quan sát thời tiết bị trục trặc nên rớt xuống đất.
Sau nầy, sự thật được công bố thì đó là một khinh khí cầu có trang bị thiết bị dò âm thanh và chấn động thuộc dự án Mogul, dùng để khám phá những cuộc thí nghiệm bom nguyên tử của Liên Xô, vì bị trục trặc nên rơi xuống đất.
8* Dự án Blue Book kết luận về UFO
Tháng 1 năm 1952, Không Lực Hoa Kỳ thành lập Dự Án Blue Book để nghiên cứu về vật thể bay không xác định UFO. Dự án chấm dứt vào tháng 12 năm 1969.
Dự án có hai mục đích:
1. Xem xét coi UFO có xâm hại đến an ninh quốc gia hay không
2. Dùng các phương pháp khoa học kỹ thuật tân tiến để phân tích và khảo sát các hiện tượng đã được báo cáo (Report) về UFO.
Nhà thiên văn học Allen Hyneck làm cố vấn cho Dự án, thoạt tiên ông đã hoài nghi về các báo cáo và cuối cùng ông kết luận, những báo cáo không giải thích thoả đáng, và ông phê bình nó không phù hợp với các nguyên tắc nghiên cứu khoa học.
Một nhà khoa học nghiên cứu về UFO nổi tiếng là ông Jacques Valée cũng đồng ý với những nhận xét của ông Hyneck, ông cho biết thêm, những nhóm nghiên cứu, kể cả của chính phủ, tất cả đều thiếu nguyên tắc khoa học, và ông than phiền rằng họ thường gán ghép chuyện thần thoại vào nghiên cứu khoa học.
Sau khu xem xét 12,618 báo cáo về UFO, Không Quân Mỹ đưa ra kết luận như sau:
- Không có mối đe dọa nào của UFO đối với nền an ninh quốc gia
- Không có bằng chứng nào trong các báo cáo phù hợp với nguyên tắc khoa học kỹ thuật hiện đại cả.
- Không có chứng cớ nào cho biết đã có người ngoài hành tinh (Aliens).
Dự Án Blue Book giải thích những báo cáo như sau:
- Do hình thức hoang tưởng nhẹ của các nhân chứng
- Một số người chế tạo báo cáo có tính lừa bịp.
- Những người hoang tưởng.
- Nhận diện đối tượng sai. Đó có thể là máy bay như những cuộc thử nghiệm phi cơ do thám U-2 và A-12. Ngoài ra còn có bong bóng, các hiện tượng thiên văn như đám mây, ngôi sao…
Tài liệu giải mật của CIA xác nhận Vùng 51 là có thật và nó là khu vực để nghiên cứu, chế tạo và thử nghiệm các loại phi cơ, bắt đầu là phi cơ do thám U-2, sau đó A-12 và những kỹ thuật tàng hình của F-22 Raptor, F-35 tàng hình Lightning, B-2 tàng hình ném bom chiến lược…
Hồ sơ giải mật dẹp tan những đồn đoán về người ngoài hành tinh và UFO có liên quan đến Vùng 51.
Mặc dù đã giải mật hồ sơ Vùng 51, nhưng chưa chắc gì đã hết bí mật. những gì đang diễn tiến tại đó hoặc tại những nơi khác đều có thể bị nghi ngờ là còn chìm đắm trong thế giới tuyệt mật có liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia.
Trúc Giang
Minnesota ngày 23-10-2013
Nam Yết chuyển
Hình
ảnh khám nghiệm tử thi người ngoài hành tinh giả tại Triển lãm Vùng 51 ở
Khu vực Người ngoài hành tinh ở Roswell, New Mexico hồi tháng 12/2006.
1* Mở bài
Trong tháng 7 năm nay, 2013, tuân hành Đạo luật Tự do Thông tin FOIA (Freedom of Information Act ban hành năm 2005), Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã giải mã hồ sơ tối mật Area 51 (Vùng 51), là một khu quân sự bí mật nhất hành tinh trong suốt 60 năm qua.
Tờ Atlantic Report đưa tin, một tập tài liệu 407 trang được Đại học George Washington vừa công bố, cho biết Vùng 51, một khu vực mà từ lâu đã có rất nhiều đồn đoán, cho rằng đó là nơi cất giấu thi thể của người ngoài hành tinh (Aliens) và những mảnh vở của con tàu vũ trụ của họ. Nhưng tài liệu giải mật cho biết Vùng 51 chỉ là một khu vực để chế tạo và thử nghiệm các loại phi cơ do thám tối tân nhất trong thời gian đó là chiếc Lockheed U-2. Sau U-2 là phi cơ do thám siêu âm OXCART A-12.
Tài liệu giải mật của CIA đã phá tan những đồn đoán về người ngoài hành tinh và những vật thể bay không xác định UFO (Unidentified Flying Object) có liên quan đến vùng đó.
Trước tháng 7 năm 2013, chính phủ Mỹ không công nhận về sự hiện hữu của Vùng 51 nên những đồn đoán về người ngoài hành tinh và dĩa bay càng gia tăng, không những chỉ ở Mỹ còn còn lan tràn nhiều nơi trên thế giới, có rất nhiều nhân chứng xác nhận đã thấy hiện tượng dĩa bay.
2* Cái tên “Area 51” được đưa ra ánh sáng
Chỉ có cái tên “Area 51” được đưa ra ánh sáng, nhưng nội dung hoạt động của nó vẫn chìm trong bóng tối của mức độ tối mật (Top Secret).
2.1. Cái chết của hai nhân viên Vùng 51
Chính phủ Mỹ dùng mọi biện pháp để bảo vệ bí mật của Vùng 51, tuy nhiên, một sự kiện làm cho cả thế giới biết đến cái tên Area 51, đó là cái chết của hai nhân viên làm việc tại đó.
Trong quá trình thiêu hủy vật liệu, hai nhân viên nầy không được trang bị quần áo và thiết bị bảo hộ lao động nên bị chết do nhiễm khí độc. Sau đó, gia đình nạn nhân và những nhân viên khác đưa đơn kiện chính phủ.
Lúc đó không ai biết Vùng 51 là gì, kể cả quan toà và luật sư. Để chứng minh thật sự có Vùng 51, các nhân viên đưa ra những tài liệu không thuộc loại mật, nói về điều kiện bảo vệ an toàn của Vùng 51 để làm bằng chứng. Những tài liệu chính thức chỉ nói đến tên của Vùng 51 mà thôi, nhưng ngay sau đó chính phủ thu hồi các tài liệu và đưa vào danh sách tối mật nên toà không được xử dụng tài liệu đó làm bằng chứng.
2.2. Chính phủ Mỹ chính thức công nhận có Vùng 51 vào năm 1995
Năm 1995, Tổng thống Bill Clinton ký một sắc luật về việc bảo vệ môi trường tại “Vùng 51” vì những tác hại trầm trọng do phóng xạ gây ra.
Như vậy, chính phủ đã chính thức công nhận hiện có một vị trí tên là Area 51.
Hiện nay, Vùng 51 cho phép Cơ quan Bảo Vệ Môi Trường EPA (Environment Protection Agency) được kiểm tra các thiết bị và khu vực chung quanh Vùng, theo nội dung của luật năm 1995. Tuy nhiên, những báo cáo của EPA cũng được xếp vào loại tối mật.
Đến đây, cái tên Area 51 được đưa ra ánh sáng nhưng hoạt động của nó vẫn chìm trong bóng tối.
(Mức độ bí mật được xếp theo thứ tự như sau: Top secret, Secret, Confidential, Restricted, Unclassified, Clearance và Compartmented Information)
3* Sự thật của Vùng 51
3.1. Vùng thử nghiệm Nevada
Vùng 51 (Area 51) là một khu vực rộng lớn nằm giữa sa mạc Nevada, cách thành phố Las Vegas 133km. Vùng 51 tiếp giáp với khu vực thử nghiệm Nevada NTS (Nevada Test Site) do Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử AEC (Atomic Energy Commission) quản lý. NTS là khu vực thử nghiệm công khai, dùng để thử nghiệm các loại vũ khí hạt nhân. Nó được chia ra 30 lô, đánh số từ 1 đến 30, để thử nghiệm nhiều loại vũ khí khác nhau
Nevada Test Site (30 lô) Nevada Test Site #15.
3.2. Vùng 51 (Area 51)
Bức ảnh hiếm hoi khu Vùng 51
Vùng 51 không có tên trên bất cứ bản đồ nào, sở dĩ nó được giữ bí mật
lâu dài như thế là do nó nằm sát bên cạnh của khu thử nghiệm công khai
NTS.Vùng 51 nầy có nhiều tên khác nhau như: Paradise Ranch, The Ranch, Watertownn Strip, The Box, Red Square, The Farm, Groom Lake, Dreamland, Air Force Flight Center, và Detachment 3… Cố ý cho nhiều cái tên của một vị trí là để đánh lạc hướng hơn là chỉ dùng một tên duy nhất. Diện tích toàn bộ Area 51 rộng 360Km2.
3.3. Những biện pháp bảo mật cho Vùng 51
Phi cơ các loại bị cấm bay qua không phận Groom Lake (Vùng 51). Chung quanh là sa mạc trống trải khiến cho mọi tiếp cận bị phát hiện bởi hệ thống Radar giám sát toàn khu vực. Các biện pháp an ninh khác, bao gồm việc tuần tiểu bằng xe hơi, trực thăng, và bằng hệ thống cảm biến (sensor) có thể phân biệt được con người và loài vật.
Ranh giới Vùng 51 không có hàng rào phân định, nhưng được đánh dấu bằng những cột mốc màu cam và bảng Cảnh báo (Warning Sign)
3.4. Bên trong Vùng 51
Đây thực chất chỉ là một bãi thử nghiệm các loại máy bay do thám như U-2 và OXCART A-12.
Đây thực chất chỉ là một bãi thử nghiệm các loại máy bay do thám như U-2 và OXCART A-12Vùng 51 bao gồm những dãy nhà chứa máy bay, một đường băng và các phòng. Các toà nhà trong khu vực rất ít cửa sổ, để nhân viên không nhìn thấy những gì bên ngoài, khác với công việc họ đang làm. Đặc điểm để nhận diện là hồ Groom Lake.
Các nhóm nghiên cứu cũng không biết được công việc của những nhóm khác. Những viên chức cao cấp khi được phép vào liên hệ công tác thì cũng bị giới hạn trong phạm vi phần hành của mình mà thôi.
Hồ Groom Lake Camera quan sát trên không ở Vùng 51.
3.5. Những lý do đặt tên Vùng số 51Có hai giả thuyết về con số 51. Một giả thuyết cho rằng khu vực bí mật nầy nằm sát bên cạnh lô thử nghiệm số 15 của Khu Thử Nghiệm Nevada (NTS), nên họ đảo ngược số 15 thành số 51, đặt tên cho vùng nầy.
Thuyết thứ hai về con số 51 là, giới chức thẩm quyền lấy con số khá lớn để tránh lẫn lộn với những số của các lô thử nghiệm thuộc NTS, khi họ muốn phát triển thêm con số lớn hơn 30 đã có.
3.5. Việc di chuyển của nhân viên làm việc tại Vùng 51
Tài liệu giải mật cho biết, nhân viên làm việc tại Vùng 51, thường xuyên khởi hành từ lúc tờ mờ sáng thứ hai và trở về lúc trời sẩm tối ngày thứ sáu trong tuần.
Những chuyến bay đặc biệt mang tên Janet Airlines của nhà thầu quốc phòng EG&G chuyên chở nhân viên đi và về tại phi trường Quốc tế McCarran ở Las Vegas, Nevada.
(EG&G=Edgerton, Germeshausen and Grier, Inc.).
4* Những dự án được thực hiện tại Vùng 51
Từ năm 1950, CIA hợp tác với công ty Lockheed nghiên cứu, chế tạo và thử nghiệm phi cơ do thám mới. Người đứng đầu công ty Lockheed là Johnson cùng với CIA chọn Vùng 51 để thực hiện dự án.
Từ khi thử nghiệm những chuyến bay U-2, Tổng thống Eisenhower ký sắc lịnh cấm bay trên vùng trời Groom Lake (Vùng 51).
Sau U-2, chính phủ Mỹ tiến hành những dự án chế tạo phi cơ hiện đại nhất bao gồm các loại tàng hình cũng tại Vùng 51 nầy.
4.1. Phi cơ do thám U-2
Lockheed U-2, biệt danh"Dragon Lady Phi cơ U-2 được giấu tại Vùng 51 trong nhiều năm.
Lockheed U-2 là phi cơ do thám có biệt hiệu là Dragon Lady (Rồng
cái), loại một động cơ phản lực, có độ bay cao ở 2,500m (25km) được CIA
và Không quân Mỹ xử dụng. Ưu điểm nổi bật nhất của U-2 là bay cao, vượt
ra khỏi tầm bay các loại MiG của Liên Xô, thậm chí hoả tiễn SAM cũng
không còn hiệu lực đối với U-2.U-2 là một tiến bộ vượt bậc của Mỹ trong thời gian chưa có vệ tinh do thám.
Thông số kỹ thuật của U-2:
Bay cao: 25km* Cánh rộng: 31.4m* Phi đội: 1 người* Cao: 4.88m* Tốc độ tối đa: 805km/giờ* Hoạt động hiệu quả cả ngày lẫn đêm trong mọi điều kiện thời tiết.
Tháng 7 năm 1957, lần đầu tiên U-2 thành công mỹ mãn trong nhiệm vụ do thám, bay vào không phận Liên Xô, chụp hình các vị trí quan trọng và bay về an toàn. Những chuyến bay sau đó cũng thành công, nhưng đến năm 1960, sự kiện U-2 năm 1960, gây thêm căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô trong Chiến tranh lạnh.
4.2. Thử nghiệm vũ khí nước ngoài tại Vùng 51
1). Thử nghiệm phi cơ MiG của Liên Xô
Việc Không Quân Mỹ nghiên cứu, thử nghiệm vũ khí nước ngoài đã được biết đến sau Thế Chiến 2, nhưng không biết nó diễn ra ở đâu.
Tài liệu giải mật của CIA cho biết nó được thực hiện ở Vùng 51. CIA đã thu được một số phi cơ MiG của Liên Xô, mang về Vùng 51 để phi công Hoa Kỳ bay thử, xem xét đánh giá ưu khuyết điểm của nó, từ MiG-17 đến MiG-21. (MiG=Mikoyan-Gurevich, tên công ty sản xuất)
2). Phi cơ F-14 thực tập không chiến với MiG-21
Phi công Allan Palmer MiG-21 sơn cờ Mỹ bay trong “Vùng 51.
Mới đây, một cựu phi công Hải quân Mỹ, ông Allan Palmer, lần đầu tiên
kể lại trên tờ Huffington Post như sau: “Hồi năm 1975, tôi đã từng bay
trên không phận của Vùng 51. Lúc đó tôi lái chiếc F-14, xuất phát từ căn
cứ Hải Quân Mirama ở San Diego, California, bay đến căn cứ Hải Quân ở
phía Tây Nevada.Đến Vùng 51, tôi được yêu cầu bay chậm lại và chờ lịnh mới. Sau đó tôi nhận được chỉ thị, “nhìn về phía trước 5 dặm, ở cao độ 10,000 bộ và mô tả lại những gì mà tôi trông thấy”.
Ông Palmer nhanh chóng nhận ra chiếc MiG-21 sơn cờ Mỹ, và bắt đầu không chiến trên vùng trời Area 51. Palmer nhớ chính xác như vậy vì nhìn thấy lòng hồ Groom Lake cạn nước đến trơ đáy. Cuộc không chiến bắt đầu và chấm dứt trên Vùng 51.
Ông Palmer cho rằng ông dễ dàng nhận ra chiếc MiG-21 vì trước đây đã nhiều lần chạm trán với nó trong các phi vụ ở miền Bắc Việt Nam. Ông nói tiếp: “bây giờ nó rất lạ vì mang cờ Mỹ, so với trước kia nó mang cờ đỏ sao vàng. Tuy nhiên nó cũng tạo ra một cảm giác ớn lạnh như trước kia”.
Thật ra ông Palmer đã nhận ra căn cứ bí mật nầy của Mỹ: “Tôi đã nhận ra lòng hồ Groom Lake, các nhà chứa máy bay, và đường băng từ xa. Tôi biết đó là máy bay do thám U-2, các bạn đồng đội của tôi cũng biết thế. Tuy nhiên, chúng tôi đã phải viết cam kết “cấm khẩu”, không được tiết lộ những gì đã thấy và những trận không chiến với phi cơ MiG mang cờ Mỹ.
Ông Palmer nay đã ngoài 70 tuổi, làm giám đốc điều hành Bảo Tàng Quốc Gia Thử Nghiệm Nguyên Tử NATM (National Atomic Testing Museum).
Tháng 3 năm 2012, ông đã mạnh dạn mở phòng triển lãm “Huyền Thoại và Thực Tế ở Vùng 51”, ở đó ông trình bày các hoạt động và công trình nghiên cứu của khu vực bí ẩn nầy, bao gồm những tài liệu chưa được giải mật.
Huyển thoại và thực tế của Vùng 51 được ông trình bày xen kẽ nhau, người xem không biết đâu là thật, đâu là giả. Không có cái thật để xác nhận cái giả.
Theo ông Palmer, mặc dù chính phủ thừa nhận có Vùng 51 là căn cứ bí mật với những dự án cũ, nhưng những nghiên cứu mới cũng có thể được giữ bí mật, ngoài sự hiểu biết của công chúng.
5* Sự kiện U-2 năm 1960
5.1. Bối cảnh
Chiến tranh lạnh là thời gian chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Khoa học kỹ thuật về không gian của Liên Xô đã đi trước Mỹ một bước, và Mỹ mong muốn được biết những bí mật đang diễn ra ở nước đầu đàn Cộng Sản nầy, thế là chiếc phi cơ do thám Lockheed U-2 ra đời.
Lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1957, chiếc U-2, biệt hiệu là Dragon Lady (Rồng Cái), được đánh giá là một thành tựu vượt bậc, có khả năng do thám hữu hiệu nhất trong lúc vệ tinh do thám chưa được sáng chế.
Đặc điểm của U-2 là hoạt động cả ngày lẫn đêm dưới mọi thời tiết. Tính ưu việt nhất của U-2 là độ cao 25km, mà các loại chiến đấu cơ MiG của Liên Xô không bay tới được, thậm chí hỏa tiễn đất đối không SAM (Surface-to-Air Missile) cũng không có hiệu lực.
Tháng 7 năm 1957, Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower điều đình với Thủ tướng Pakistan là Hussein Suhrawardi, để cho Mỹ lập một khu vực thám thính trong căn cứ không quân Peshawar thuộc thành phố Badaber (Pakistan), một vị trí thuận lợi để do thám Liên Xô.
Chuyến bay U-2 đầu tiên do phi công người Anh thực hiện, vì Mỹ muốn tránh chiến tranh có thể xảy ra giữa Mỹ và Liên Xô trong không khí căng thẳng của chiến tranh lạnh.
Chuyến bay thành công. U-2 đã chụp hình được các vị trí thử nghiệm hoả tiễn liên lục địa, các trung tâm phóng hoả tiễn và nhà máy chế tạo Plutonium cho việc sản xuất bom nguyên tử.
Sau đó, ngày 9-4-1960, một chiếc U-2 thuộc đơn vị 10-10 của CIA,do phi công Bob Erison đã bay vào không phận phía Nam Liên Xô, chụp hình 4 vị trí quân sự bí mật: là khu thử nghiệm hoả tiễn liên lục địa Semipalatinsk, căn cứ không quân Dolon, nơi chứa phi cơ ném bom chiến lược Tu-95, khu thử nghiệm hỏa tiễn SAM và trung tâm phóng phi thuyền không gian Baikonur.
Chiếc U-2 nầy bị lực lượng phòng không Liên Xô phát hiện khi bay trên độ cao 25km, nhưng họ không có vũ khí nào có khả năng bắn hạ được nó, nên chiếc U-2 đáp xuống an toàn tại phi trường Zaheran của nước Iran, mang theo hình ảnh đã chụp được.
5.2. Sự kiện U-2 năm 1960
Ngày 28-4-1960, phi công Glen Dunaway lái chiếc U-2 từ căn cứ không quân Mỹ ở Thổ Nhỉ Kỳ bay đến phi trường Peshawar của Pakistan. Nhiên liệu và phi công Francis Gary Powers đã được vận tải cơ C-130 chở đến phi trường nầy vào ngày hôm trước.
Nhiệm vụ bị đình hoãn vì thời tiết xấu.
Ngày 1-5-1960, đại úy phi công Francis Gary Powers cất cánh, thi hành hiệm vụ mang tên Grand Slam.
Chiếc U-2 bay vào không phận Liên Xô, chụp được 6 giàn phóng thử nghiệm hỏa tiễn liên lục địa (ICM), 2 giàn ở trung tâm không gian Baikonur, 4 ở Plesetsk, và một nhà máy Plutonium có tên là Chelyabinsk-6. Nhưng chiếc U-2 bị phát hiện. Tất cả lực lượng phòng không Liên Xô báo động đỏ, Trung tướng Yevgeniv Savitskiy ra lệnh cho các phi đội MiG bay lên tấn công phi cơ lạ.
Chiếc U-2 bay quá cao nên phi cơ MiG không tiếp cận được. Chiếc U-2 đã vượt qua những hàng rào hoả tiễn một các an toàn, trong đó có một đơn vị hỏa tiễn không làm việc, vì nghỉ Lễ Lao động ngày 1 tháng 5.
Sau cùng, đại úy Powers nghe một tiếng nổ của hoả tiễn ở phía sau, phi cơ không bị đạn, nhưng sức nổ làm chao đảo và phi cơ bổ nhào xuống.
Powers bấm út Eject cho ghế bay bật tung ra khỏi phi cơ, nhưng ông ta bị kẹt dính vào phi cơ, vì ống dẫn dưỡng khí không được tháo ra. Cuối cùng, Powers nhảy dù an toàn xuống một vùng nông thôn của Liên Xô. Ông hy vọng dân địa phương giúp đở để trốn thoát, nhưng bị bắt giữ.
Các đơn vị phòng không và phi đội MiG của Liên Xô không biết chiếc U-2 bị rơi xuống đất, nên hỏa tiễn SAM bắn rơi, làm nổ tan một chiếc MiG-21 trên đường tìm kiếm chiếc U-2.
5.3. Mỹ che đậy sự kiện U-2 năm 1960
Bốn ngày sau khi đại úy Powers mất tích, cơ quan NASA họp báo cho biết, một chiếc phi cơ thăm dò thời tiết của họ bị mất tích ở phía Bắc Thổ Nhỉ Kỳ, phi công gọi về cho biết có trục trặc về hệ thống dẫn dưỡng khí. Đồng thời NASA cũng trình diện báo chí một chiếc U-2 đã được cấp tốc sơn lại màu của cơ quan nầy, và cho biết phi công có thể chết và phi cơ vở nát.
5.4. Nikita Chrushchev của Liên Xô giăng bẫy
Sau cuộc họp báo của NASA, Nikita Khrushchev giăng ra một cái bẫy, đó là tuyên bố một phi cơ do thám của Mỹ đã bị bắn hạ nhưng không nói là phi công còn sống.
Nghe vậy tưởng thật, Mỹ lại tiếp tục che giấu vụ do thám của U-2 bằng cách nói rằng phi công báo cáo là đang gặp khó khăn vì trục trặc về hệ thống dưỡng khí và Mỹ tuyên bố một công tác mang tất cả những chiếc U-2 ra kiểm tra về hệ thống dưỡng khí để tránh trục trặc tương tự có thể xảy ra sau nầy.
5.5. Nikita Khrushchev tố Tổng thống Eisenhower
Dwight David "Ike" Eisenhower ** Khrushchev lột giày đập lên bàn phản đối tại LHQ
Vào ngày 7-5-1960, Khrushchev lại tuyên bố: “Tôi phải nói với quý vị
một bí mật. Trước đây tôi cố tình không nói phi công Mỹ còn sống, cho
nên quý vị đã nghe được những điều “ngớ ngẩn” (silly) của người Mỹ. Bây
giờ, phi công Powers còn sống, đã khai thật và nhận tội làm gián điệp,
ngoài ra, những hình ảnh đã chụp và những mảnh vụng của chiếc phi cơ là
bằng chứng không thể chối cãi được”.Ngày 19-8-1960, Gary Powers bị kết án về tội gián điệp, bị 3 năm tù giam và 7 năm tù lao động khổ sai.
Sau 1 năm 9 tháng, Gary Powers được trao đổi tù binh với điệp viên Liên Xô Rudolf Abel vào ngày 10-2-1062 tại cây cầu Gliennicke Bridge, nối giữa biên giới Đông Đức và Tây Berlin. Rudolf Abel hoạt động tại tổ gián điệp ở New York City, đã bị FBI bắt, và toà kết án 45 năm tù.
Vụ U-2 xảy ra 15 ngày trước cuộc họp thượng đỉnh bốn bên giữa Đông và Tây, tham dự gồm có Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower, Nikita Khrushchev, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle và thủ tướng Anh Harold MacMillan.
Tưởng đâu vụ U-2 phá vở hội nghị, nhưng Liên Xô hòa hoãn. Khrushchev chấp nhận chính sách “Sống chung hoà bình” của Mỹ, và sau đó, những vụ diễn binh ở Liên Xô không còn phô trương xe tăng, hoả tiễn, mà thay vào đó là hình ảnh các thiếu nhi với chim bồ câu trắng, chim hoà bình, và những đoàn lực sĩ điền kinh.
Rõ ràng là Liên Xô đã ngán Hoa Kỳ.
6* Người ngoài hành tinh và vật thể bay không xác định
Ảnh minh họa * Sự cận kề của con người với UFO.
Trước đây, có một thời nhiều người tin rằng còn có một nền văn minh
khác đang tồn tại bên ngoài địa cầu. Những vật thể lạ được nhìn thấy xảy
ra ở nhiều nơi trên thế giới, những câu chuyện về người ngoài hành tinh
(Aliens) đi lạc vào trái đất được kể lại từ những nhân chứng sống, đã
tạo ra nhiều bí ẩn.6.1. Chụp hình UFO rượt đuổi máy bay ở Chile
UFO rượt đuổi máy bay ở Chile.
UFO là vật thể bay không xác định (UFO=Unidentified Flying Object).
Cộng Hòa Chile (Chí Lợi) là một dải đất hẹp và dài 4,300km thuộc Nam Mỹ,
nằm dọc theo ven Thái Bình Dương đi qua các nước Peru, Bolivia,
Argentina, Ecuador. Dân số 17 triệu. Thủ đô là Santiago.Liên tiếp nhiều năm qua, người dân Chile đã ghi hình những lần xuất hiện của UFO trong vùng trời của quốc gia họ.
Theo hãng tin LiveScience, một đoạn Video đã ghi lại buổi trình diễn phi cơ chiến đấu của Không quân tại El Bosque, Santiago, Chile, vào ngày 5-11-2012. Trong đoạn Video, người ta quan sát và thấy một vật thể tròn, màu đen đuổi theo các phi cơ chiến đấu với tốc độ thật nhanh.
Một đoạn Video trước đó, năm 2010 cũng ở vị trí cũ đã gây chú ý trong dư luận.
Hãng tin LiveScience tường thuật, từ những địa điểm khác nhau, một số nhân chứng đã dùng các thiết bị thu hình hay điện thoại di động, ghi lại cảnh rượt đuổi một nhóm máy bay nhào lộn trên không, tuy nhiên, khi xem lại với tốc độ chậm người ta thấy một vật thể lạ xuất hiện trên màn hình. Đó là một vật hình tròn, màu đen kỳ lạ bay trên bầu trời. Các chuyên viên về hình ảnh gởi đoạn Video trên cho Ủy Ban Chính phủ Nghiên Cứu về những hiện tượng bất thường. Các chuyên gia của Ủy Ban đưa ra kết luận rằng: “Cuối cùng, những phi cơ phản lực của Chile đã bị UFO quấy nhiễu. Đây là bằng chứng tốt nhất phản ảnh việc UFO đã ghé thăm trái đất của chúng ta”.
Một số người hoài nghi cho rằng đó là hình ảnh của côn trùng, nhưng giả thuyết đó không thuyết phục cho lắm, bởi vì tốc độ của vật nầy vượt quá 65,000Km/giờ.
6.2. Trực thăng cảnh sát Anh đã từng đụng độ với UFO năm 2008
Theo BBC News và báo The Sun, thì Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Anh đã phổ biến một tài liệu nghiên cứu về UFO của Bộ Quốc Phòng, trong đó có một số báo cáo về việc trực thăng cảnh sát đã từng đụng độ với vật thể lạ trên vùng trời thành phố Cardiff vào tháng 6 năm 2008.
Vật bay bí ẩn bất ngờ hướng về trực thăng cảnh sát khi họ chuẩn bị đáp xuống sân bay quân sự St. Athan của thành phố Cardiff. Cả ba phi công quyết định rượt đuổi vật thể lạ, họ bay đến tận bờ biển North Devon thì dừng lại, vì kim đồng báo sắp hết xăng.
Các phi công nhấn mạnh: “Đích thị đây là dĩa bay cho dù đó là một điều khó tin”.
6.3. UFO xuất hiện ở Mỹ năm 1980
Theo tờ The Telegraph (Anh), sáng sớm ngày 26-12-1980, trung úy Không quân Mỹ phụ trách an ninh căn cứ quân sự Suffolk nhận được báo cáo về một hiện tượng lạ tại khu rừng lịch sử Rendlesham, ông cùng hai phi công bay đến hiện trường và tức thì thấy một nguồn sáng với cường độ cao phát ra từ một vật thể trên nền rừng.
Một phi công ở lại dùng Radio báo cáo về Trung Tâm Kiểm Soát An Ninh, trong khi đó ông và phi công còn lại cố đến gần phi thuyền hình tam giác, thì thấy nó phát ra ánh sáng màu xanh dương và vàng. Sau khoảng 45 phút, “phi thuyền” bổng nhiên phát ra một loạt ánh sáng mạnh, cất mình lên cao mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào, và biến mất với một tốc độ phi thường.
Những cuốn phim, những bức ảnh chụp về hiện tượng đó được gởi về Trung Tâm Kiểm Soát An Ninh (CSC) để kiểm chứng. Một số ảnh bị dư ánh sáng (toàn màu trắng), một số xử dụng được thì phù hợp với lời khai của các nhân chứng.
6.4. UFO xuất hiện ở Bỉ
Trong hai năm, 1998, 1999, chính phủ Bỉ đã công bố rộng rãi các tài liệu nghiên cứu về UFO. Theo các báo cáo, có gần 2,000 trường hợp nhìn thấy UFO bằng mắt và bằng Radar. Căn cứ theo tài liệu được đưa lên trang Web UFO Evidence, một vụ UFO khá điển hình gây chú ý trong dư luận. Đó là báo cáo của hai trung sĩ Hiến binh Bỉ trên đường tuần tra từ Eupen đến Kittenis của khu vực Hautes Fagnes.
Vào ngày 29-11-1998, họ nhìn thấy một phi thuyền hình tam giác với ba chiếc đèn pha rọi xuống, bay chầm chậm cách mặt đất khoảng 200m hướng về thành phố Eupen. Kế đó, nó di chuyển đến hồ Gileppe, bất động trong trạng thái lơ lửng và phát ra hai tia sáng màu đỏ kéo dài khoảng 45 phút.
Khoảng 4 giờ sau khi hai cảnh sát báo cáo về trung tâm chỉ huy, họ lại thấy phi thuyền thứ hai xuất hiện tại vùng rộng lớn của Treas và di chuyển về hướng Bắc.
Cơ quan điều tra vật thể lạ của Bỉ thống kê, đã có 13 cảnh sát tại 8 vị trí khác nhau của vùng Eupen đã nhìn thấy hai vật thể lạ nầy. Đồng thời, có khoảng 1,500 thường dân tại hơn 70 vị trí khác nhau trong khu vực cũng đã chứng kiến hiện tượng đó.
6.5. Xác chết người ngoài hành tinh ở Siberia
Năm 2011, hai người đi vào vùng tuyết phủ Siberia (Nga), phát hiện một xác chết đã bị hư hại, một nửa vùi trong tuyết. Xác ướp màu đỏ lợt với hốc mắt lồi ra và to tròn, một thân thể khẳng khiu. Khu vực nầy là nơi mà người ta thấy UFO xuất hiện nhiều lần. Hiện nay, đoạn Video clip về xác ướp Siberia nầy đã thu hút hơn 1.4 triệu người xem trên Youtube.
Xác chết người ngoài hành tinh được tìm thấy ở Siberia, Nga.
6.6. Sinh vật tí hon tên Atacama HumanoidNăm 2003, mẫu hóa thạch của một sinh vật tí hon dài 15cm có hình giống như con người, được đặt tên là Atacama Humanoid, gọi tắt là Ata mà nhiều nhà khoa học cho rằng nó có thể là một người ngoài hành tinh (Aliens) hay một chú khỉ.
Theo các khoa học gia hàng đầu tại Đai học Stanford thì nguồn gốc xác ướp nầy có thể là người ngoài hành tinh, đã được tìm thấy cách đây 10 năm tại sa mạc Atacama của nước Chile. Đó là con người thuộc giới tính nam.
Hiện nay, mẫu vật nầy được lưu giữ tại Học viện điều tra và nghiên cứu hiện tượng ngoài trái đất của Tây Ban Nha.
6.7. Nghiên cứu của Đại học Stanford California về xác ướp Ata
Ata - xác ướp được cho là của người ngoài hành tinh.
Giáo sư Garry Nolan, trưởng khoa sinh vật học tế bào gốc, thuộc Đại
học Y khoa Stanford, California, cùng nhóm nghiên cứu của ông đã đến Tây
Ban Nha vào tháng 12 năm 2012 để thực hiện một số nghiên cứu.Sau khi giải phẩu cắt phần ngoài của hai xương sườn để lấy mẫu DNA và xét nghiệm DNA, kết hợp với công nghệ điện toán, cuối cùng giáo sư Nolan cho biết, Ata không phải là một chú khỉ, nó là con người, thậm chí gần giống con người hơn cả loài vượn.
Ông Nolan giải thích: “Đột biến thú vị nầy” là con người có giới tính nam, sống sót sau khi sanh từ 6 đến 8 năm. Thậm chí khi sống nó đã thở, ăn uống và chuyển hoá như con người”.
Tuy nhiên, nhiều khoa học gia khác trên thế giới cho rằng bộ xương kỳ lạ nầy không giống con người vì nó chỉ có 9 cái xương sườn. (Con người có 12 cặp xương sườn, tổng số 24 cái, hai cặp số 11 và 12 thì ngắn hơn xương khác. Xương sườn là cái khung che đậy các cơ quan trong phần trên của thân thể, gồm phổi, tim…)
Vào thời điểm đó, nhiều người vẫn còn tin tưởng rằng xác ướp tý hon đó là người ngoài hành tinh.
7* Vùng 51chứa xác ướp người ngoài hành tinh và mảnh vở của UFO
Hình
ảnh khám nghiệm tử thi người ngoài hành tinh giả tại Triển lãm Vùng 51 ở
Khu vực Người ngoài hành tinh ở Roswell, New Mexico hồi tháng 12/2006.
Vùng 51 được đồn đoán là ở đó có một căn phòng màu xanh, cất giữ xác
ướp của người ngoài hành tinh (Aliens) và những mảnh vở của UFO.Đồn đải bắt đầu từ báo cáo của một trung úy phi công.
Ngày 24-6-1947, trung úy phi công Kenneth Arnold bay thử nghiệm một phi cơ mới, khi đến vùng trời Groom Lake (Vùng 51) thì thấy một UFO bị nạn rớt xuống khu vực Roswell thuộc bang New Mexico. Ông ta báo cáo về bộ chỉ huy mô tả sự việc. Kế đó, tướng William Blanchard tuyên bố báo cáo nhận được, nhưng ngay sau đó Không quân Mỹ rút lại lời tuyên bố và cho biết rằng vật lạ đó là một khinh khí cầu quan sát thời tiết bị trục trặc nên rớt xuống đất.
Sau nầy, sự thật được công bố thì đó là một khinh khí cầu có trang bị thiết bị dò âm thanh và chấn động thuộc dự án Mogul, dùng để khám phá những cuộc thí nghiệm bom nguyên tử của Liên Xô, vì bị trục trặc nên rơi xuống đất.
8* Dự án Blue Book kết luận về UFO
Tháng 1 năm 1952, Không Lực Hoa Kỳ thành lập Dự Án Blue Book để nghiên cứu về vật thể bay không xác định UFO. Dự án chấm dứt vào tháng 12 năm 1969.
Dự án có hai mục đích:
1. Xem xét coi UFO có xâm hại đến an ninh quốc gia hay không
2. Dùng các phương pháp khoa học kỹ thuật tân tiến để phân tích và khảo sát các hiện tượng đã được báo cáo (Report) về UFO.
Nhà thiên văn học Allen Hyneck làm cố vấn cho Dự án, thoạt tiên ông đã hoài nghi về các báo cáo và cuối cùng ông kết luận, những báo cáo không giải thích thoả đáng, và ông phê bình nó không phù hợp với các nguyên tắc nghiên cứu khoa học.
Một nhà khoa học nghiên cứu về UFO nổi tiếng là ông Jacques Valée cũng đồng ý với những nhận xét của ông Hyneck, ông cho biết thêm, những nhóm nghiên cứu, kể cả của chính phủ, tất cả đều thiếu nguyên tắc khoa học, và ông than phiền rằng họ thường gán ghép chuyện thần thoại vào nghiên cứu khoa học.
Sau khu xem xét 12,618 báo cáo về UFO, Không Quân Mỹ đưa ra kết luận như sau:
- Không có mối đe dọa nào của UFO đối với nền an ninh quốc gia
- Không có bằng chứng nào trong các báo cáo phù hợp với nguyên tắc khoa học kỹ thuật hiện đại cả.
- Không có chứng cớ nào cho biết đã có người ngoài hành tinh (Aliens).
Dự Án Blue Book giải thích những báo cáo như sau:
- Do hình thức hoang tưởng nhẹ của các nhân chứng
- Một số người chế tạo báo cáo có tính lừa bịp.
- Những người hoang tưởng.
- Nhận diện đối tượng sai. Đó có thể là máy bay như những cuộc thử nghiệm phi cơ do thám U-2 và A-12. Ngoài ra còn có bong bóng, các hiện tượng thiên văn như đám mây, ngôi sao…
Những mây hình thù kỳ lạ giống dĩa bay.
9* Kết luậnTài liệu giải mật của CIA xác nhận Vùng 51 là có thật và nó là khu vực để nghiên cứu, chế tạo và thử nghiệm các loại phi cơ, bắt đầu là phi cơ do thám U-2, sau đó A-12 và những kỹ thuật tàng hình của F-22 Raptor, F-35 tàng hình Lightning, B-2 tàng hình ném bom chiến lược…
Hồ sơ giải mật dẹp tan những đồn đoán về người ngoài hành tinh và UFO có liên quan đến Vùng 51.
Mặc dù đã giải mật hồ sơ Vùng 51, nhưng chưa chắc gì đã hết bí mật. những gì đang diễn tiến tại đó hoặc tại những nơi khác đều có thể bị nghi ngờ là còn chìm đắm trong thế giới tuyệt mật có liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia.
Trúc Giang
Minnesota ngày 23-10-2013
Nam Yết chuyển
No comments:
Post a Comment