Việt Nam Tiếp Cận Tây Phương
Sau
thời gian dài chịu ảnh hưởng Khổng giáo và Phật giáo của phương Đông,
cuộc Nam tiến và phân tranh Trịnh-Nguyễn có thể coi như khởi đầu cho
giai đoạn Việt Nam chịu ảnh hưởng của nửa phía Tây còn lại của thế giới.
Ngày
nay các công trình sử học Việt và quốc tế nghiên cứu các tài liệu của
Pháp, Bồ Đào Nha, Vatican, các thư tín của các giáo sĩ Ki tô giáo gửi về
nước từ Đàng Ngoài (miền bắc sông Gianh) và Đàng Trong (miền Nam sông
Gianh), và sử của triều đình Nguyễn, đã làm sáng tỏ nhiều chi tiết
vềgiai đoạn Việt Nam tiếp cận Tây phương trước Pháp thuộc.
Theo
YoshinaruTsuboï, nhà sử học Nhật bản có nhiều nghiên cứu về Việt Nam,
ngay từ thế kỷ 16 Tây phương đã tìm cách tiếp cận Việt Nam. Sử liệu Pháp
cho thấy năm 1516 đã có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez
de Andrade đến bờ biển Việt Nam xin buôn bán. Sử triều nhà Nguyễn ghi
nhận năm 1533 có người Tây phương đầu tiên đến Nam Định truyền đạo Ki tô
giáo. Những tiếp xúc đầu tiên này mới chỉ tập trung vào thương mại và
truyền giáo. Phải đến khi tranh chấp Nguyễn Ánh-Tây Sơn, và nhất là sau
khi vua Gia Long thống nhất đất nước, Tây phương mới thật sự ảnh hưởng
vào chính trị của Việt Nam. Vua Gia Long khi lên ngôi đã trọng dụng một
số sĩ quan Pháp, cho họ làm quan trong triều, đặt tên Việt cho họ, như
Chaigneau (Nguyễn văn Thắng), Vannnier (Nguyễn văn Chấn)… để trả công họ
đã giúp nhà vua trong cuộc chiến với Tây Sơn. Tuy nhiên, quan hệ
Việt-Pháp, mở đầu cho quan hệ chính trị Việt-Âu Mỹ sau này, chưa chính
thức hình thành thì đã rạn nứt.
Năm
1787, Bá Đa Lộc đại diện Nguyễn Ánh ký hiệp ước Versailles với đại diện
vua Pháp, theo đó Pháp đồng ý giúp Nguyễn Ánh về quân sự, ngược lại
Nguyễn Ánh hứa khi thành công sẽ cho Pháp hưởng nhiều quyền lợi về lãnh
thổ và buôn bán. Sau đó triều đình Pháp đã không giúp Nguyễn Ánhnhư đã
hứa, và Bá Đa Lộc phải tìm những người tình nguyện sang giúp Nguyễn Ánh.
Vì thế, năm 1817, khi vua Pháp yêu cầu vua Gia Long thực hiện hiệp ước
này ông đã từ chối, nói rằng trước đâyvua Pháp đã không cứu viện quân sự
nên hiệp ước này coi như đã bị hủy bỏ.
vua Gia Long
Từ đó vua Gia Long bắt đầu cảnh giác người Pháp. Theo Việt Nam Sử Lược thì
nhà vua thường tỏ ý vui mừng vì đã không được triều đình Pháp cứu viện.
Nhà vua cũng thường cảnh tỉnh triều thần về sư an nguy của đất nước có
thể đến từ giao thương và truyền đạo. Đến đời vua Minh Mạng thì sự nghi
kỵ Tây phương và người Ki tô giáo ngày càng tăng, nhất là từ sau cuộc
nổi loạn của Lê Văn Khôi năm 1833 có sự hợp tác của người Ki tô giáo
chống lại triều đình. Việc cấm đạo của vua Tự Đức đã thực sự phản ảnh sự
thắng thế của đường lối nghi kỵ Pháp nói riêng và Tây phương nói chung.
Nguyên
nhân của đường lối nghi kỵ, đối đầu này có nhiều, nhưng theo tôi,
nguyên nhân chính nằm ngay trong nội tình Việt Nam, trong nếp tư duy văn
hóa chính trị thủ cựu thiên về “tự vệ”, ít có sáng kiến, không dám mạo
hiểm, của giới sĩ phu quan lại, đã hình thành suốt triều đại nhà Hậu Lê
và thời kỳ phân tranh Trịnh Nguyễn. Đường lối canh tân của Mạc Đăng
Dung, Hồ Quý Ly, Nguyễn Huệ không tồn tại lâu dài. Sự phân chia thành
hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài cũng dẫn đến sự phân chia thành hai
quan điểm văn hóa chính trị. Đàng Ngoài vẫn còn là miền đất cũ nặng ảnh
hưởng Nho giáo. Đàng trong tuy có tiếp cận Pháp ngay từ thời Nguyễn Ánh,
nhưng khi lên ngôi, vua Gia Long vẫn rập khuôn theo nền chính trị và
giáo dục Khổng giáo. Mâu thuẫn trong đường lối chính trị và văn hóa đã
bắt đầu trước khi Pháp thuộc, trong bối cảnh ảnh hưởng Âu châu đang tràn
tới toàn Á châu và vùng Đông Nam Á. Mâu thuẫn này cũng được phản ảnh
ngay trong sự thành công của Nguyễn Ánh.
Triều Đình Nguyễn Suy Yếu
Như YoshinaruTsuboï
đã phân tích,Nguyễn Ánh thành công là nhờ sự đóng góp của 3 thành phần:
tình nguyện quân Pháp về mặt quân sự, thương gia Hoa Kiều về mặt tài
chánh, và văn thân về mặt chính trị. Khi lên ngôi vua Gia Long phải dành
cho 3 thành phần này những quyền lợi tương xứng. Hoa kiều nắm kinh tế,
những sĩ quan Pháp giúp canh tân quân sự, nhưng chính trị thì do các
quan lại Hán học quyết định. Tình trạng thiếu thống nhất này làm cho cả
triều đình và nhân dân đều không có được sức mạnh toàn diện. Kinh tế do
Hoa Kiều chi phối, nhất là ở nam bộ, nên người dân chỉ làm lao động cực
nhọc còn thành phần giàu có trong xã hội phần lớn là người Hoa dù họ đã
dần dần trở thành người Việt gốc Hoa. Về mặt quân sự những giáo sĩ Tây
phương thời đó, và các nhà sử học sau này, đều ca ngợi những cố gắng
hiện đại hóa quân đội của Nguyễn Ánh ngay từ khi còn đánh nhau với Tây
Sơn. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long tiếp tục đẩy mạnh việc canh tân quân
đội. Đến đời vua Minh Mạng thì quân đội Đại Nam có lẽ là quân đội hùng
mạnh nhất trong vùng đã đánh chiếm gần như toàn vẹn Lào và Miên, tới
giáp biên giới với Thái Lan.
Tình
trạng giáo dục và chính trị thì hoàn toàn khác hẳn. Mọi sắp đặt của vua
quan nhà Nguyễn trong hai lãnh vực này chỉ là chấn chỉnh lại tình trạng
suy thoái vì chiến tranh, và thống nhất lại cơ chế trên toàn quốc từ
bắc đến nam theo mô hình Trung Hoa. Thực ra triều đình có canh cải đôi
chút về mặt chính trị, như bỏ chức Tể tướng, lập Nội Các và Cơ Mật Viện,
cho soạn bộ luật mới. Nhưng Trung Hoa vẫn là kiểu mẫu, như khi lập ban
soạn bộ luật mới, tuy có tham khảo cả luật Hồng Đức và luật của nhà
Thanh, nhưng cuối cùng phần lớn vẫn theo luật nhà Thanh. Hơn nữa những
cố gắng chấn chinh này lại diễn ra trong bối cảnh suy tàn của Khổng
giáo trước văn minh Âu châu đang tràn tới. Năm 1840, Trung Hoa bị các
nước Âu châu phát động chiến tranh nha phiến để uy hiếp và chiếm đóng
đất đai. Tại Việt Nam năm 1858 hải quân Pháp-Tây ba Nha bắn phá cảng Đà
Nẵng và sau đó vào chiếm Sài Gòn. Trong khi đó Nhật bản, nhờ hủy bỏ mô
hình Trung Hoa, canh tân đất nước toàn diện theomô hình Tây phương nên
chỉ sau vài thập niên đã trở nên cường thịnh.
Hiện
nay chưa có nguồn sử liệu nào cho thấy trong các thập niên 1860, 1870,
triều đình nhà Nguyễn biết rõ về những thay đổi quan trọng tạiNhật bản.
Còn về sự yếu kém của hệ thống chinh trị và giáo dục Khổng giáo, dù có
nhận ra được, chắc họ cũng không biết phải thay đổi và canh cải như thế
nào.Những sáng kiến thời Hồ Quí Ly và Tây sơn như dậy toán, dủng chữ
Nôm chỉ mới được áp dụng trong một thời gian quá ngắn ngủi, trong bối
cảnh chinh trị không ổn định nên không thể gây được sự tin tưởng nơi các
vua quan triều Nguyễn đang cần củng cố việc triều chính.Trong triều tất
cả các quan đại thần đều xuất thân từ Nho học nên thận trọng và bảo
thủ. Chỉ có một số vị có dịp đi sứ bên Pháp hay các nước lân cận, như
Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ…thấy được những tiến bộ
tại các nước này, nên đãdâng sớ đề nghị canh tân đất nước. Trong số này
đáng chú ý nhất là những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ.
Chương Trinh Canh Tân của Nguyễn Trường Tộ
Nguyễn
Trường Tộ sinh năm 1828 ở Nghệ An, trong một gia đình theo đạo Gia tô,
nhưng tinh thông tứ thư ngũ kinh của Nho giáo. Năm 27 tuổi, ông được
giám mục Gauthier đưa vào chủng viện để dạy chữ Hán cho giám mục, và
được giám mục dạy lại chữ Pháp cũng như kiến thức khoa học châu Âu. Năm
1858, giám mục Gauthier đưa Nguyễn Trường Tộ sang Pháp để học tập, nâng
cao kiến thức.Trong hơn 2 năm du học ở Paris, ông hiểu biết nhiều về
khoa học – kỹ thuật, có trình độ như một kiến trúc sư, đọc nhiều về đủ
mọi lãnh vực như chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Khi
về Việt Nam, trong suốt thập niên 1860, ông liên tục gửi lên nhà vua và
triều đình hàng chục bản phúc trình và điều trần, đưa ra các phân tích
về tình hình đất nước, thế giới, và các đề nghị canh tân đất nước về mọi
mặt.
Về
đối ngoại, ông đưa ra kế ly gián Anh và Pháp, đồng thời mở rộng quan hệ
ngoại giao với Pháp và các nước phương Tây. Về nội chính, ông đề nghị
tinh giản bộ máy hành chánh, xác định rõ trách nhiệm của từng chức vụ,
cho phép quan chức được làm giầu chính đáng để tránh tham nhũng. Ông
cũng quan tâm tới việc canh cải hệ thống tài chánh và thuế khóa, tăng
thuế người giầu, hàng xa xỉ, đánh thuế nặng cờ bạc, rượu chè. Về kinh
tế, ông đề nghị khai hoang, tăng cường xuất cảng, khai thác hầm mỏ, lập
các cơ xưởng công nghiệp, đào tạo thợ kỹ thuật, mở mang giao thông vận
tải, đường thủy, đường bộ. Về giáo dục ông đề nghị bỏ lối học từ chương,
dậy các môn khoa học, dậy ngoại ngữ, dùng chữ Nôm cả trong giảng dậy,
soạn sách và công văn hành chánh.
Phái đoàn Sứ Thần Phan Thanh Giản Đến Paris 1863 |
Triều Đình Cải Cách Muộn Màng
Nhà
vua cũngquan tâm tới các đề nghị của Nguyễn Trường Tộ và yêu cầu Cơ Mật
Viện bàn bạc về những đề nghị này. Các quan đa số có quan điểm thủ cựu
hẹp hòi nên cuối cùng triều đinh chỉ thực hiện vài canh cải nhỏ. Năm
1864 nhà vua ra lệnh khuyến khích học tiếng Pháp và khen thưởng những
người học giỏi. Năm 1866 Nguyễn Trường Tộ được lệnh đi Pháp để mua sách
giáo khoa và tuyển dụng giáo sư về mở các trường tân học. Nhưng rồi sau
đó triều đình bận rộn với việc chiến tranh với Pháp nên chương trình cải
cách giáo dục cũng không thực hiện được. Mãi đến năm 1873 vua Tự Đức
mới ra lệnh các quan tuyển chọn những học sinh giỏi ngoai ngữ, cấp học
bổng cho đi du học trong 5 năm tại Hồng Kông. Năm 1879 một toán học sinh
khác được tuyển chọn đưa đi Pháp học tại trường kỹ thuật Toulon. Hai
mươi học sinh khác được gửi đi theo một đoàn ngoại giao Ý nhưng bị người
Pháp chặn lại tại Sài Gòn. Năm 1881 triều đình lại gửi thêm 12 học sinh
nữa đi học tại Hồng Kông.
Nhưng
những chương trinh cải cách giáo dục này được thực hiện quá trễ và quá
chậm. Trong khi đó vẫn không hề có bất cứ thay đổi nào trong chương
trình, phương pháp giáo dục, và hệ thống thi cử.Triều đình Huế ngày
căng mất uy tín và không còn làm chủ được tình hình đất nước. Nam kỳ đã
mất vào tay người Pháp không thể lấy lại được. Ngoài Bắc giặc giã nổi
lên khắp nơi chống cả triều đình và Pháp. Nhiều khuynh hướng văn hóa
chính trị khác nhau đã xuất hiện ngoài vòng kiểm soát của triều đình
Huế.
Những Chương Trình Canh Tân Đầu Tiên Theo Tây Học
Trước
khi toàn thể đất nước mất vào tay người Pháp, tại Nam kỳ và Bắc kỳ đã
xuất hiện những hoạt động văn hóa giáo dục nhằm Âu hóa Việt Nam. Tại Nam
kỳ, sau khi triều đình nhượng hoàn toàn 6 tỉnh cho Pháp, chinh quyền
Pháp đã bãi bò hoàn toàn hệ thống văn hóa, giáo dục và chinh trị Khổng
học. Họ áp dụng mô hình Pháp với nhiều điều chỉnh cho thích hợp tình
hình thực tế và trình độ phát triển của Nam kỳ. Chữ Pháp và chữ quốc ngữ
được sử dụng thay thế chữ Hán. Năm 1864 người Pháp bãi bỏ kỳ thi Hán
học. Các trường tân học được mở ra giảng dậy các môn học mới. Đến đầu
thế kỷ 20 một tầng lớp trí thức tây học đã xuất hiện tại Nam Kỳ. Họ tham
gia hoạt động chính trị, thương mại, giáo dục, và cả làm báo. Một xã
hội mới bắt đầu ra đời với một nền văn hóa, giáo dục và chính trị theo
mô hình Pháp. Chúng ta sẽ trở lại phân tích những đặc điểm cũng như đóng
góp của Nam kỳ vào cuộc canh tân Việt Nam trong những bài sau.
Tại
miền Bắc, trong khi triều đình vẫn duy trì chế độ giáo dục Nho học, các
giáo sĩ Cơ đốc giáo đãchủ động mở các trường học mới vừa để dậy giáo lý
vừa để đào tạo thế hệ trẻ theo tân học. Tại các trường này trẻ em được
học chữ La tinh, chữ Pháp, quốc ngữ, địa lý, toán và vài môn hiểu biết
thường thức. Chương trình giảng dậy nàytheonhư giáo sĩ Wibaux “là phương
tiện tốt nhất cho công cuộc thực dân và cho việc truyền bá tôn giáo”.
Giám mục Paul-François Puginier kêu gọi chính phủ Pháp ủng hộ chương
trinh này vì tin rằng “có hai điều đặc biệt làm công cụ tối hảo để thay
đổi cả một dân tộc: đó là đức tin tôn giáo và ngôn ngữ.Nếu chính phủ
Pháp hiểu biết lợi ích thực sự của mình, thì hãy ủng hộ việc rao
giảng. Tin mừng và dạy bảo ngôn ngữ của chúng ta,tôi xin khẳng định là
trước thời gian 20 năm, chẳng cần phải cưỡng bức ai , xứ sở này sẽ được
Kito hóa và Pháp hóa.” (theo Yoshinaru Tsuboï)
Tất
nhiên lúc đó các nước Âu châu đều gắn liền 3 việc trong kế hoạch phát
triển ảnh hưởng của họ sang châu Phi và châu Á: phát triển thương mại,
truyền đạo Ki tô giáo, và chiếm đóng thuộc địa nhằm khai thác tài
nguyên. Các hoạt động giáo dục và truyền đạo của các giáo sĩ Âu Châu tại
Việt Nam cũng không thể nằm ngoài kế hoạch chung đó. Nó cũng đem lại
những kết quả vừa tiêu cực vừa tích cực như chính phong trao thực dân
thuộc địa.
Về
mặt tiêu cực, việc truyền đạo trong các giai đoạn đầu đã gây ra những
va chạm đáng tiếc đối với tín ngưỡng và phong tục truyền thống của Việt
Nam như đạo Phật và tục thờ cúng tổ tiên. Qua thời gian, cùng với sự
tiến bộ chung của thời đại và thế giới, với những canh cải trong đường
lối của Tòa thánh La Mã, và nhất là vì nhu cầu ổn định xã hội và chung
sống hòa bình của người dân, những hậu quả tiêu cực này ngày càng giảm
bớt. Đồng thời những đóng góp tích cực và lâu dài của các giáo sĩ Thiên
chúa giáo vào công cuộc canh tân Việt Namcũng được công nhận, trong đó
phải kể đến việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Nếu không có chữ quốc ngữ thì
không biết ngày nay người Việt phải dùng ngôn ngữ nào, chữ Pháp, chữ
Anh hay chữ Nga, vì chữ Nôm khó học và khó sử dụng.
Sau
hơn 300 năm tồn tại và phát triển tại Việt Nam, Thiên chúa giáo đã trở
thành một bộ phận đương nhiên trong nền văn hóa đa nguyên, phong phú của
dân tộc Việt trong thời đại toàn cầu. Nếu vào thế kỷ thứ 10 người Việt
đã tiếp nhận và hòa hợp được tam giáo Đông phương Phật Lão Khổng, để xây
dựng một nước Việt hùng mạnh, vững bền, thì từ thế kỷ 20 trở đi người
dân Việt cũng phải dung hòa được Thiên chúa giáo của Tây phương vào nền
văn hóa Việt mới, để tạo được sức mạnh tổng hợp Đông-Tây nhằm xây dưng
một nước Việt phú cường trong thời đại toàn cầu Âu-Á. Đây là một nhu cầu
thực tế mà cũng là một thách đố văn hóa chính trị cho mọi người Việt
quan tâm đến tiền đồ dân tộc. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần
cuối của loạt bài về tư tưởng chính trị Việt Nam thời kỳ cận hiện đại.
Đoàn Viết HoạtTài Liệu Tham Khảo:
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược
- Yoshinaru Tsuboï, Nước Đại Nam Đối Diện với Pháp và Trung Hoa, bản dịch tiếng Việt:http://lichsuvn.net/
forum/showthread.php?t=21061 - Phan Khoáng. Việt Nam Pháp Thuộc Sử (1884-1945). Sài Gòn, Khai Trí, 1961.
- Sự Nghiệp Truyền Giáo Tại Việt Nam (1533-1960):http://www.catholi
c.org.tw/vntaiwan/ghvienam/ lichsu1.htm - Nam Yết chuyển
No comments:
Post a Comment