Máy bay thám thính P-8A đang thả ngư lôi diệt tiềm thuỷ đĩnh |
Vụ
phi cơ thám thính P8-A Poseidon của Mỹ bay qua các hòn đảo Trường Sa mà
Trung Cộng đang chiếm của nước ta khiến nhiều người đặt câu hỏi: Khi
lập các “đảo nhân tạo” để xây dựng căn cứ quân sự, hải đăng, và phi
trường, Cộng Sản Trung Quốc khôn hay dại?
Từ
năm 2002 Trung Cộng đã thỏa thuận với các nước Ðông Nam Á là không thay
đổi “nguyên trạng” trên các hòn đảo tranh chấp. Ðắp các đảo nhân tạo
không những làm trái thỏa thuận này mà còn vi phạm luật pháp quốc tế.
Trung Cộng được lợi gì khi thay đổi nguyên trạng?
Về
mặt quân sự, mấy phi trường và căn cứ mới chỉ có chút giá trị nếu Trung
Cộng đánh nhau với Việt Nam. Nhưng tất cả đều là những căn cứ cố định,
phơi bày giữa biển chứ không giống những đoàn quân chui rúc trong rừng;
cho nên có thể bị hỏa tiễn Mỹ xóa tan ngay trong một cuộc đụng độ giữa
Trung Cộng với Philippines hay Nhật Bản, là những nước được hiệp ước an
ninh với Mỹ bảo vệ.
Về mặt kinh tế,
Trung Cộng không cần phải có các căn cứ quân sự mới làm gì. Ðường tiếp
tế dầu khí và nguyên liệu cho kinh tế Trung Quốc chưa bao giờ bị de dọa
bằng vũ lực; mà nếu bị đe dọa thì các căn cứ mới cũng không không ngăn
cản được ai. Từ mấy chục năm nay Trung Cộng vẫn muốn chiếm các mỏ dầu
khí trong vùng; các nước khác vẫn phản đối; tình trạng giằng co này sẽ
còn kéo dài trong mấy chục năm nữa. Thế cân bằng quân sự của Trung Cộng
không mạnh hơn nhờ mấy phi trường mới vội vàng xây lên và sức mạnh pháp
lý cũng vậy. Phát ngôn viên Bộ Quốc Phòng Trung Cộng, Dương Vũ Quân, mới
nói rằng họ lập các căn cứ mới trên đảo để giúp cộng đồng quốc tế trong
việc bảo vệ môi trường và cứu nạn trên biển. Không ai tin rằng họ chỉ
nghĩ đến việc phước thiện như vậy.
Phi hành đoàn máy bay Poseidon đang sử dụng radar kiểm thám |
Cho
nên, Trung Cộng không được lợi gì khi hấp tấp xây dựng các căn cứ mới
trên các hải đảo của nước ta, như đảo Gạc Ma, đảo Chữ Thập. Ngược lại,
họ tự gây ra nhiều điều bất lợi.
Tạo cơ
hội cho phi cơ thám thính Mỹ biểu diễn bay qua các phi trường mới xây là
một bất lợi. Khi Trung Cộng bắn các tàu đánh cá người Việt Nam, hay khi
đem giàn khoan tới cắm trong hải phận nước ta, chính quyền Mỹ không làm
gì để phản đối cả. Ðáng lẽ Bắc Kinh nên tiếp tục khuyến khích chính
quyền Mỹ cứ đứng xa mà nhìn như vậy. Một tay cường hào đang lén lút
chiếm đất của hàng xóm thì tốt nhất không nên để cho cả làng, cả nước
chú ý đến việc mình làm. Gây sự khiến có người lên tiếng cảnh cáo, là
dại. Trâng tráo nói các hòn đảo mới chiếm là của mình, rồi bị bác bỏ,
càng dại nữa. Người nào đã nói lời bác bỏ đó, họ sẽ không thể ngoảnh mặt
làm ngơ nếu tên cường hào ăn hiếp lối xóm hung bạo hơn. Tờ Hoàn Cầu
Thời Báo dẫn lời Bành Quang Khiêm, giáo sư Học Viện Quân Sự, đả kích Mỹ
“từ ngàn dặm bay tới trước cổng nhà, khiến Trung Quốc bắt buộc phải tự
vệ!” Nhưng cả thế giới không ai tin luận điệu vừa ăn cướp vừa la làng
đó.
Mối bất lợi thứ hai là Trung Cộng đã
khiến các nước trong vùng bị đặt trong tình trạng báo động. Họ phải
liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Philippines, Việt Nam, Nhật Bản và
Australia. Càng có nhu cầu được cái dù quân sự Mỹ che chở. Sau khi Trung
Cộng xây các căn cứ mới, những cuộc tập trận chung được tổ chức nhiều
hơn, nhiều mặt hoạt động rộng hơn, so với trước năm 2014. Mỹ chính thức
mời Nhật cùng bảo vệ vùng biển Ðông Nam Á. Phi cơ P-3C của không lực
Nhật Bản đã bay tới Ðà Nẵng lần thứ hai, sau khi Trung Cộng xây các căn
cứ mới.
Tóm lại, trong việc Trung Cộng
xây thêm căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo, lợi bất cập hại. Có phải
giới lãnh đạo Bắc Kinh đã hành động dại dột hay không?
Phải
giả thiết rằng họ không dại dột. Họ đầy đủ thông tin và đủ trí thông
minh, nếu không hơn thì cũng không kém gì chúng ta. Họ phải biết những
hành động gây sự mới này chẳng được lợi bao nhiêu trong khi gây nhiều
hậu quả bất lợi.
Cho nên chỉ có thể
giải thích những hành động “dại dột” của Trung Cộng nếu công nhận họ có
những mục tiêu đặc biệt mà người ngoài không thấy.
Việc
xây dựng các căn cứ quân vừa qua của Trung Cộng có thể nhắm một mục
tiêu nhỏ hơn các suy nghĩ của mọi người. Họ chỉ nhắm vào một nước Việt
Nam. Họ chấp nhận những phản ứng bất lợi từ nước Mỹ và Philippines, Nhật
Bản, trong một thời gian ngắn. Sau khi mục tiêu nhắm riêng vào Việt Nam
đã đạt được, Bắc Kinh vẫn có thể sẽ tỏ thái độ hòa hoãn, gây thiện cảm
với các nước này bằng cách khác, để xóa bỏ những phản ứng xấu họ mới gây
ra. Bắc Kinh chỉ cần ngưng các lời lẽ hiếu chiến đối với Tokyo và
Manilla trong nửa năm thì cả chính quyền Mỹ cũng được thoa dịu, coi như
Trung Cộng đã lùi bước.
Nhưng riêng với
Việt Nam thì khác. Trung Cộng đã củng cố những hòn đảo chiếm được của
nước ta ở Hoàng Sa và Trường Sa. Họ muốn tình trạng đó càng ngày càng
được phơi bày trước thế giới một cách rõ ràng, cụ thể, hiển nhiên hơn.
Họ muốn đặt dân tộc Việt Nam trước một “sự đã rồi” rõ ràng, chặt chẽ,
hơn, khó tháo gỡ hơn. Trung Cộng sẽ phân trần với cả thế giới rằng họ
không có ý khiêu khích Mỹ hay Nhật, không muốn “thay đổi nguyên trạng”
trong cả vùng Ðông Nam Á,” liên can đến các nước khác. Họ sẽ chứng tỏ
với mọi người rằng họ chỉ muốn “củng cố nguyên trạng” tại các hòn đảo đã
cướp được của Việt Nam, trong viễn tượng một tương lai lâu dài và không
thể đảo ngược lại.
Ðể biện minh cho
hành động này, Trung Cộng chỉ cần trưng ra một lần nữa những thứ như bức
công hàm của Phạm Văn Ðồng năm 1958, các sách giáo khoa và bản đồ do
Cộng Sản Việt Nam ấn hành từng công nhận các quần đảo trên thuộc chủ
quyền của Bắc Kinh. Khi Ðảng Cộng Sản Việt Nam không dám có một hành
động nào mạnh hơn những lời phản đối chiếu lệ như trước đây, thì tình
trạng “ván đã đóng thuyền” càng ngày càng khó đảo ngược. Nước Việt Nam
sẽ tiếp tục bị cô lập. Các nước khác sẽ không có lý do nào, và cũng
chẳng có quyền lợi nào, để phản đối mối quan hệ bang giao giữa Trung
Cộng với Việt Nam, trong khi hai Ðảng Cộng Sản vẫn song ca bài Bốn Tốt
và 16 Chữ Vàng. Cuối cùng, việc xây dựng các căn cứ và phi trường mới
chỉ xác nhận cụ thể hành động bán đứt Hoàng Sa và Trường Sa của Ðảng
Cộng Sản Việt Nam mà thôi.
Tiến trình
chứng tỏ “ván đã đóng thuyền” này đã được tiến hành từ năm 1974 đến nay.
Câu hỏi còn lại là tại sao giới lãnh đạo Bắc Kinh lại thực hiện các
công trình mới một cách gấp rút trong thời gian chưa đầy một năm qua?
Tại sao họ không tiếp tục đi từng bước nhỏ như trong bốn chục năm vẫn
làm, qua những việc thành lập quận Tam Sa; việc đánh, giết các ngư dân
người Việt; đưa giàn khoan lớn vào hải phận Việt Nam; hoặc lâu lâu ban
hành các lệnh cấm tàu đánh cá Việt Nam hoạt động?
Chỉ
có một lý do, là Bắc Kinh lo ngại Việt Nam sẽ thay đổi; và thay đổi
nhanh chóng trước khi họ hoàn tất các biện pháp củng cố cần thiết. Xây
dựng các căn cứ quân sự mới là một việc cụ thể, cần thiết để xác nhận
chủ quyền của Trung Cộng.
Nhưng Trung
Cộng có lo ngại chính Việt Cộng sẽ thay đổi hay không? Ðiều này khó xảy
ra. Ðạo quân tình báo Trung Cộng vẫn nắm chắc Ðảng Cộng Sản Việt Nam
trong tay. Giới lãnh đạo Việt Cộng vẫn tiếp tục để cho Trung Cộng thao
túng về kinh tế, chính trị, ngoại giao, không một cá nhân nào trong hàng
ngũ lãnh đạo Việt Cộng đủ sức thay đổi.
Cho
nên, mối lo thực của Trung Cộng là cả chế độ Cộng Sản Việt Nam sẽ tan
rã và sụp đổ trước khi Trung Cộng củng cố vững chắc việc mua đứt các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tình báo của Bắc Kinh cũng biết chế độ
Cộng Sản Việt Nam đang mong manh. Bất cứ một chính quyền mới nào ở Việt
Nam mà không thuộc Ðảng Cộng Sản cũng có thể thay đổi quan điểm đối
ngoại. Ðặc biệt là trong mối bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, một
chính quyền không Cộng Sản có thể xóa bỏ trên danh nghĩa tất cả các cam
kết đối với Trung Cộng, trong đó có lá thư của Phạm Văn Ðồng. Khi đó,
tất cả công trình của Ðảng Cộng Sản Trung Hoa thực hiện ở Biển Ðông sẽ
bị thế giới nhìn bằng con mắt khác.
Tóm
lại, Trung Cộng không dại dột. Họ chỉ lo xa, tính kỹ, “tiên hạ thủ vi
cường” khi lo dân Việt Nam có thể thay đổi cuộc cờ, không biết lúc nào!
No comments:
Post a Comment