Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300) là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Làm tướng, ông biết dẹp bỏ "thù nhà" dốc lòng báo đền "nợ nước" góp công lớn ba lần đánh bại quân Nguyên. Ông còn là tác giả của hai bộ binh thư và đặc biệt bài "Hịch tướng sĩ" nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay.
Sau khi ông mất, vua phong ông tước Hưng Đạo đại vương, lập đền thờ ông ở Vạn Kiếp, Chí Linh (Hải Dương).
Trần Quốc Tuấn ra đời khi họ Trần vừa thay thế nhà Lý trong một đất nước đói kém, loạn ly. Trần Thủ Độ, một tôn thất tài giỏi đã xếp đặt bày mưu giữ cho thế nước chông chênh thành bền vững. Bấy giờ Trần Cảnh còn nhỏ mới 11 tuổi, vợ là Lý Chiêu Hoàng. Bà là vị vua cuối cùng của dòng họ Lý, vì nhường ngôi cho chồng nên tôn thất nhà Lý dị nghị nhà Trần cướp ngôi. Trần Thủ Độ rất lo lắng. Bấy giờ Trần Liễu, anh ruột vua Trần Cảnh lấy công chúa Thuận Thiên, chị gái Chiêu Hoàng đang có mang. Trần Thủ Độ ép Liễu nhường vợ cho Cảnh để chắc có một đứa con cho Cảnh. Liễu nổi loạn. Thủ Độ dẹp tan nhưng tha chết cho Liễu. Song điều này không dẹp nổi lòng thù hận của Liễu. Vì thế Liễu kén thầy giỏi dạy cho con trai mình thành bậc văn võ toàn tài, ký thác vào con mối thù sâu nặng. Người con trai ấy chính là Trần Quốc Tuấn.
Thuở nhỏ, có người đã phải khen Quốc Tuấn là bậc kỳ tài. Khi lớn lên, Trần Quốc Tuấn càng tỏ ra thông minh xuất chúng, thông kim bác cổ, văn võ song toàn. Trần Liễu thấy con như vậy mừng lắm, những mong Quốc Tuấn có thể rửa nhục cho mình. Song, cuộc đời Trần Quốc Tuấn trải qua một lần gia biến, ba lần quốc nạn nên thù nhà không đặt lên trên quyền lợi dân nước, xã tắc. Ông đã biết dẹp thù riêng, vun trồng cho mối đoàn kết giữa tông tộc họ Trần khiến cho nó trở thành cội rễ của đại thắng. Bấy giờ quân Nguyên sang xâm chiếm Việt Nam. Trần Quốc Tuấn đã giao hảo hòa hiếu với Trần Quang Khải. Hai người là hai đầu mối của hai chi trong họ Trần, đồng thời một người là con Trần Liễu, một người là con Trần Cảnh, hai anh em đối đầu của thế hệ trước. Sự hòa hợp của hai người chính là sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần, đảm bảo đánh thắng quân Nguyên hung hãn.
Chuyện kể rằng: thời ấy tại bến Đông, ông chủ động mời Thái sư Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ và sai nấu nước thơm tự mình tắm rửa cho Quang Khải... Rồi một lần khác, ông đem việc xích mích trong dòng họ dò ý các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông cướp ngôi vua của chi thứ, ông nổi giận định rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. Do các con và những người tâm phúc xúm vào van xin, ông bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng: Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thầy này nữa! Trong chiến tranh, ông luôn hộ giá bên vua, tay chỉ cầm cây gậy bịt sắt. Thế mà vẫn có lời dị nghị, sợ ông sát vua. Ông bèn bỏ luôn gậy bịt sắt, chỉ chống gậy không khi gần cận nhà vua nên sự nghi kỵ cũng chấm dứt. Giỏi tâm lý, chú ý từng việc nhỏ để tránh hiềm nghi, yên lòng quan để yên lòng dân, đoàn kết mọi người vì nghĩa lớn dân tộc. TRần Quốc Tuấn trọn đời trung trinh son sắt vì vua, vì nước.
Vua giao quyền tiết chế cho Trần Quốc Tuấn. Ông biết dùng người tài, các anh hùng Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng... đều từ cửa tướng của ông mà ra. Ông rất thương binh lính, và họ cũng rất tin yêu ông. Đội quân cha con ấy trở thành đội quân bách thắng.
Trần Quốc Tuấn đã soạn hai bộ binh thư: Binh thư yếu lược, và Vạn Kiếp tông bí truyền thư để dạy bảo các tướng cách cầm quân đánh giặc. Trần Khánh Dư, một tướng giỏi cùng thời đã hết lời ca ngợi ông :... "Lấy ngũ hành cảm ứng với nhau, cân nhắc cửu cung, không lẫn âm dương...". Biết dĩ đoản binh chế trường trận, có nghĩa là lấy ngắn chống dài. Khi giặc lộ rõ ý định gây hấn, Trần Quốc Tuấn truyền lệnh cho các tướng, răn dạy chỉ bảo lẽ thắng bại tiến lui. Bản Hịch tướng sĩ viết bằng giọng văn thống thiết hùng hồn, mang tầm tư tưởng của một bậc "đại bút".
Là tướng nhân, Trần Quốc Tuấn thương dân, thương quân, chỉ cho quân dân con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi việc phải hơn điều lợi. Là tướng chí, ông biết lẽ đời sẽ dẫn đến đâu. Là tướng dũng, ông sẵn sàng xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh giặc, lập công, trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời là đại công của ông. Là tướng tín, ông bày tỏ trước cho quân lính biết theo ông thì sẽ được gì, trái lời ông thì sẽ bị gì. Cho nên cả ba lần đánh giặc Nguyên - Mông, Trần Quốc Tuấn đều lập công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh Tông đến thăm lúc ông đang ốm, có hỏi:
- Nếu chẳng may ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăn trối những lời cuối cùng, thật thấm thía và sâu sắc cho mọi thời đại “Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”.
Mùa thu tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (1300) "Bình Bắc đại nguyên soái" Hưng Đạo đại vương qua đời. Theo lời dặn lại, thi hài ông được hỏa táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ, đất san phẳng, trồng cây như cũ...
Trần Hưng Đạo là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa Việt Nam.
Hà Ân - Trần Quốc Vượng
Hịch tướng sĩ
From Wikisource
Dụ chư tỳ tướng hịch văn, thường được gọi là Hịch Tướng Sĩ, là bài hịch của Trần Hưng Đạo Xin xem vi:Hịch tướng sĩ. Dưới đây là nguyên bản và phiên-âm của Ngô Tất Tố trong “Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần” Nxb Đại Nam, Sàigòn, 1960
Nguyên bản tiếng Hán và phiên âm Hán Việt
諭諸裨將檄文 | Dụ chư tỳ tướng hịch văn |
余常聞之 | Dư thường văn chi: |
紀信以身代死而脫高帝 | Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế; |
由于以背受戈而蔽招王 | Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương. |
蓣讓吞炭而復主讎 | Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù; |
申蒯断臂而赴國難 | Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn. |
敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍 | Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi; |
杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計 | Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế. |
自古忠臣義士以身死國何代無之 | Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi? |
設使數子區區為兒女子之態 | Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái, |
徒死牖下烏能名垂竹白 | Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch, |
與天地相為不朽哉 | Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai! |
汝等 | Nhữ đẳng |
世為將種不曉文義 | Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa, |
其聞其說疑信相半 | Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán. |
古先之事姑置勿論 | Cổ tiên chi sự cô trí vật luận. |
今余以宋韃之事言之 | Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi: |
王公堅何人也 | Vương Công Kiên hà nhân dã? |
其裨將阮文立又何人也 | Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã? |
以釣魚鎖鎖斗大之城 | Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành, |
當蒙哥堂堂百萬之鋒 | Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong, |
使宋之生靈至今受賜 | Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ! |
骨待兀郎何人也 | Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã? |
其裨將赤脩思又何人也 | Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã? |
冒瘴厲於萬里之途 | Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ, |
獗南詔於數旬之頃 | Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh, |
使韃之君長至今留名 | Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh! |
況余與汝等生於擾攘之秋 | Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu; |
長於艱難之勢 | Trưởng ư gian nan chi tế. |
竊見偽使往來道途旁午 | Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ. |
掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷 | Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình; |
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔 | Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ. |
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求 | Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; |
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫 | Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố. |
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉 | Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai? |
余常 | Dư thường |
臨餐忘食中夜撫枕 | Lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm, |
涕泗交痍心腹如搗 | Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo. |
常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也 | Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. |
雖 | Tuy |
余之百身高於草野 | Dư chi bách thân, cao ư thảo dã; |
余之千屍裹於馬革 | Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, |
亦願為之 | Diệc nguyện vi chi. |
汝等 | Nhữ đẳng |
久居門下掌握兵權 | Cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền. |
無衣者則衣之以衣 | Vô y giả tắc ý chi dĩ y; |
無食者則食之以食 | Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực. |
官卑者則遷其爵 | Quan ti giả tắc thiên kỳ tước; |
祿薄者則給其俸 | Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng. |
水行給舟陸行給馬 | Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã. |
委之以兵則生死同其所為 | Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi; |
進之在寢則笑語同其所樂 | Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc. |
其是 | Kỳ thị |
公堅之為偏裨兀郎之為副貳亦未下爾 | Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ. |
汝等 | Nhữ đẳng |
坐視主辱曾不為憂 | Tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu; |
身當國恥曾不為愧 | Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý. |
為邦國之將侍立夷宿而無忿心 | Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm; |
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色 | Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc. |
或鬥雞以為樂或賭博以為娛 | Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu. |
或事田園以養其家 | Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia; |
或戀妻子以私於己 | Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ. |
修生產之業而忘軍國之務 | Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ; |
恣田獵之遊而怠攻守之習 | Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập. |
或甘美酒或嗜淫聲 | Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh. |
脱有蒙韃之寇來 | Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai, |
雄雞之距不足以穿虜甲 | Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp; |
賭博之術不足以施軍謀 | Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu. |
田園之富不足以贖千金之軀 | Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu; |
妻拏之累不足以充軍國之用 | Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng. |
生產之多不足以購虜首 | Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ; |
獵犬之力不足以驅賊眾 | Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng. |
美酒不足以沈虜軍 | Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân; |
淫聲不足以聾虜耳 | Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ. |
當此之時我家臣主就縛甚可痛哉 | Ðương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai! |
不唯余之采邑被削 | Bất duy dư chi thái ấp bị tước, |
而汝等之俸祿亦為他人之所有 | Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu; |
不唯余之家小被驅 | Bất duy dư chi gia tiểu bị khu, |
而汝等之妻拏亦為他人之所虜 | Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ; |
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵 | Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm, |
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘 | Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật; |
不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存 | Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn, |
而汝等之家清亦不免名為敗將矣 | Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ! |
當此之時汝等雖欲肆其娛樂 | Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc, |
得乎 | Đắc hồ? |
今余明告汝等 | Kim dư minh cáo nhữ đẳng, |
當以措火積薪為危 | Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy; |
當以懲羹吹虀為戒 | Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới. |
訓練士卒習爾弓矢 | Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ. |
使 | Sử |
人人逄蒙家家后羿 | Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ. |
購必烈之頭於闕下 | Cưu Tất Liệt chi đầu ư khuyết hạ; |
朽雲南之肉於杲街 | Hủ Vân Nam chi nhục ư cảo nhai. |
不唯余之采邑永為青氈 | Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên, |
而汝等之俸祿亦終身之受賜 | Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ; |
不唯余之家小安床褥 | Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục, |
而汝等之妻拏亦百年之佳老 | Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão; |
不唯余之宗廟萬世享祀 | Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự, |
而汝等之祖父亦春秋之血食 | Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực; |
不唯余之今生得志 | Bất duy dư chi kim sinh đắc chí, |
而汝等百世之下芳名不朽 | Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ; |
不唯余之美謚永垂 | Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy, |
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣 | Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ. |
當此之時汝等雖欲不為娛樂 | Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc, |
得乎 | Đắc hồ! |
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略 | Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược. |
汝等 | Nhữ đẳng |
或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也 | Hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã; |
或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也 | Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã. |
何則 | Hà tắc? |
蒙韃乃不共戴天之讎 | Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù, |
汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心 | Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm, |
而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵 | Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch; |
使平虜之後萬世遺羞 | Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu, |
上有何面目立於天地覆載之間耶 | Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da? |
故欲汝等明知余心因筆以檄云 | Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân. |
Hịch Tướng Sĩ
Ta thường nghe: Kỷ Tín (1) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu (2) chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương. Dự Nhượng (3) nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay cứu nạn cho nước. Kinh Ðức (5) một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh (6) một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên (7) là người thế nào? Nguyễn Văn Lập tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư (8) lớn tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha (9)đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu! Cốt - đãi - ngột - lang (10) là người thế nào? Xích - tu - tư (11) tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm, đánh quỵ quân Nam Chiếu (12) trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. ỷ mệnh Hốt Tất Liệt (13) mà đòi ngọc lụa, để phụng sự lòng tham không cùng; khoác hiệu Vân Nam vương (14) mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa (15), cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường (16)đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp (17) của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" (18) làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" (19) làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông (20), mọi người đều tài như Hậu Nghệ (21), có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai (22). Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền (23) mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc (24), để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
Huệ Chi
(Dịch lại trên cơ sở các bản dịch cũ) (25)
---------------------
Chú thích:
(1) Kỷ Tín: một tướng của Hán Cao Tổ. Khi Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương. Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ đó trốn thoát.
(2) Do Vu: Tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân thu. Theo Tả truyện Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra che chở cho vua mình.
(3) Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết chết. Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
(4) Thân Khoái: viên quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.
(5) Kinh Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho vua chạy thoát.
(6) Cảo Khanh: họ Nhan, bề tôi của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông ông đã chửi mắng Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
(7) Vương Công Kiên: tức Vương Kiên tướng nhà Tống, giữ Hợp Châu (Tứ Xuyên), đã huy động quân dân chiến đấu ở núi Ðiếu Ngư cầm cự với đạo quân Mông - Cổ do Môngke (Mongka, phiên âm Hán Việt là Mông Kha) chỉ huy, trong 4 tháng trời. Ðến khi Môngke chết, quân Mông Cổ đành phải rút.
(8) Ðiếu Ngư: tên một trái núi rất hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống, Dư Giới có đắp thành ở đó.
(9) Mông Kha: tức Môngke (Mongka) là anh của Hốt Tất Liệt (Qubilai), làm Ðại hãn (Chúa tể) Mông Cổ từ năm 1251, từng trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước ở phía Ðông. Chính y bị tử trận ở thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân nhà Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
(10) (12) Cốt - đãi - ngột - lang: tức Uryangkhađai (Uriyangqadai), là một tướng giỏi của Môngke con viên tướng nổi tiếng Nubutai (Subutai).
Uryangkhađai từng nhận lệnh Môngke, cùng với Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam - chiếu, một nước ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ xuyên và Vân Nam thủ đô Ðại - lý (Vân Nam). Uryangkhaiđai cũng chính là viên tướng chỉ huy đạo quân xâm lược Việt Nam lần thứ nhất (1258).
(11) Xích-tu-tư: Xem Khảo đính 3.
(13) Hốt Tất Liệt: tức Khubilai (Qubilai), em ruột và là tướng của Môngke. Sau khi Môngke chết (1259), Hốt Tất Liệt đã tự xưng làm Ðại hãn ở Khai Bình, tổ chức cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Aric Bukê (AriqBuka). Năm 1264, Aric Bukê đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh, tức Bắc Kinh ngày nay và đến năm 1271 thì đặt quốc hiệu là Nguyên. Hốt Tất Liệt chính là Nguyên Thế Tổ.
(14) Vân Nam vương: tức Hughêtư (Hugaci) con Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam vương năm 1267, đóng quân ở Vân Nam với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như làm áp lực quân sự đối với nước ta lúc bấy giờ.
(15) Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: lấy ý ở câu nói của Mã Viện đời Hán (trong Hậu Hán thư) Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. Nghĩa là: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.
(16) Nhạc thái thường: nhạc của triều đình dùng trong những tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao giữa ta và quân Nguyên, trong những tiệc yến tiếp sứ giặc, triều đình phải dùng đến nhạc thái thường để giúp vui. Trần Quốc Tuấn coi đó là một điều nhục nhã.
(17) Thái ấp: phần đất vua phong cho các vương hầu.
(18) Ðặt mồi lửa dưới đống củi nỏ (thố hỏa tích tàn), lấy từ một câu văn của Hán thư. Phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng; hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an, nghĩa là: "ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên".
(19) Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội (trừng canh xuy tê): xuất xứ từ một câu văn của Sở từ Trừng ư canh nhi xuy tè hề: ý nói: người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng e sợ, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng lấy miệng thổi.
(20) (21) Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
(22) Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua "chư hầu" khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
(23) Mãi mãi vững bền: dịch thoát câu vĩnh vi thanh chiên: Sách Thế thuyết chép rằng: Vương Tử Kính đêm nằm ngủ ở trai phòng thấy một bọn trộm lẻn vào nhà, trộm hết mọi vật. Ông từ tốn nói với chúng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi đừng lấy. Tác giả mượn điển này để nói bóng về những của cải lưu truyền từ đời nọ đến đời kia.
(24) Nguyên văn là Bình lỗ chi hậu. Bản dịch của Trần Trọng Kim cũng như bản chú thích của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển, 1942, đều cho Bình Lỗ là tên đất. Bùi Văn Nguyên cũng ức đoán Bình Lỗ tức là vùng Phù Lỗ thuộc thị trấn Kim Anh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay. Nhưng chúng tôi tán thành cách dịch của Ngô Tất Tố, Phan Kế Bính... coi đây là một từ chỉ việc bình định giặc nói chung.
(25) Bản dịch này có tham khảo và chọn lọc câu chữ ở các bài dịch trong quá khứ của Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược), Ngô Tất Tố (Văn học đời Trần, 1940), Nguyễn Ðổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử, 1941), Chu Thiên (Chống quân Nguyên, 1957), Bùi Văn Nguyên (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, 1962), Cao Huy Giu (Bd, ÐVSKTT, 1967), Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tàm (Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông, 1967).
Ta thường nghe: Kỷ Tín (1) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Ðế; Do Vu (2) chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương. Dự Nhượng (3) nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay cứu nạn cho nước. Kinh Ðức (5) một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh (6) một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên (7) là người thế nào? Nguyễn Văn Lập tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Ðiếu Ngư (8) lớn tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha (9)đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu! Cốt - đãi - ngột - lang (10) là người thế nào? Xích - tu - tư (11) tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm, đánh quỵ quân Nam Chiếu (12) trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. ỷ mệnh Hốt Tất Liệt (13) mà đòi ngọc lụa, để phụng sự lòng tham không cùng; khoác hiệu Vân Nam vương (14) mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa (15), cũng nguyện xin làm.
Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Ði thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá nào có kém gì?
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường (16)đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp (17) của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" (18) làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" (19) làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông (20), mọi người đều tài như Hậu Nghệ (21), có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai (22). Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền (23) mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một quyển, gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc (24), để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
Huệ Chi
(Dịch lại trên cơ sở các bản dịch cũ) (25)
---------------------
Chú thích:
(1) Kỷ Tín: một tướng của Hán Cao Tổ. Khi Hán Cao Tổ bị Hạng Vũ vây ở Huỳnh Dương. Kỷ Tín giả làm Hán Cao Tổ ra hàng, bị Hạng Vũ thiêu chết. Hán Cao Tổ nhờ đó trốn thoát.
(2) Do Vu: Tướng của Sở Chiêu Vương thời Xuân thu. Theo Tả truyện Sở Chiêu Vương bị nước Ngô đánh phải lánh sang phương Ðông, một đêm bị cướp vây đánh. Do Vu đã chìa lưng ra che chở cho vua mình.
(3) Dự Nhượng: gia thần của Trí Bá thời Chiến quốc. Trí Bá bị Triệu Tương Tử giết chết. Dự Nhượng bèn nuốt than cho khác giọng đi, giả làm hành khất, mưu giết Tương Tử để báo thù cho chủ.
(4) Thân Khoái: viên quan giữ ao cá của Tề Trang Công thời Xuân thu. Trang Công bị Thôi Trữ giết, Thân Khoái bèn chết theo chủ.
(5) Kinh Ðức: tức Uất Trì Cung đời Ðường. Khi Ðường Thái Tông (bấy giờ còn là Tần Vương) bị Vương Thế Sung vây, ông đã lấy mình che chở, hộ vệ cho vua chạy thoát.
(6) Cảo Khanh: họ Nhan, bề tôi của nhà Ðường. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, đánh đuổi Ðường Huyền Tông ông đã chửi mắng Lộc Sơn và bị cắt lưỡi.
(7) Vương Công Kiên: tức Vương Kiên tướng nhà Tống, giữ Hợp Châu (Tứ Xuyên), đã huy động quân dân chiến đấu ở núi Ðiếu Ngư cầm cự với đạo quân Mông - Cổ do Môngke (Mongka, phiên âm Hán Việt là Mông Kha) chỉ huy, trong 4 tháng trời. Ðến khi Môngke chết, quân Mông Cổ đành phải rút.
(8) Ðiếu Ngư: tên một trái núi rất hiểm trở ở Tứ Xuyên, ba mặt nhìn xuống sông. Ðời Tống, Dư Giới có đắp thành ở đó.
(9) Mông Kha: tức Môngke (Mongka) là anh của Hốt Tất Liệt (Qubilai), làm Ðại hãn (Chúa tể) Mông Cổ từ năm 1251, từng trực tiếp chỉ huy cuộc viễn chinh sang Trung Quốc và các nước ở phía Ðông. Chính y bị tử trận ở thành Ðiếu Ngư trong cuộc vây hãm đội quân nhà Tống do Vương Công Kiên chỉ huy.
(10) (12) Cốt - đãi - ngột - lang: tức Uryangkhađai (Uriyangqadai), là một tướng giỏi của Môngke con viên tướng nổi tiếng Nubutai (Subutai).
Uryangkhađai từng nhận lệnh Môngke, cùng với Hốt Tất Liệt đánh chiếm nước Nam - chiếu, một nước ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ xuyên và Vân Nam thủ đô Ðại - lý (Vân Nam). Uryangkhaiđai cũng chính là viên tướng chỉ huy đạo quân xâm lược Việt Nam lần thứ nhất (1258).
(11) Xích-tu-tư: Xem Khảo đính 3.
(13) Hốt Tất Liệt: tức Khubilai (Qubilai), em ruột và là tướng của Môngke. Sau khi Môngke chết (1259), Hốt Tất Liệt đã tự xưng làm Ðại hãn ở Khai Bình, tổ chức cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu với em ruột là Aric Bukê (AriqBuka). Năm 1264, Aric Bukê đầu hàng, Hốt Tất Liệt bèn dời đô về Yên Kinh, tức Bắc Kinh ngày nay và đến năm 1271 thì đặt quốc hiệu là Nguyên. Hốt Tất Liệt chính là Nguyên Thế Tổ.
(14) Vân Nam vương: tức Hughêtư (Hugaci) con Hốt Tất Liệt, được phong làm Vân Nam vương năm 1267, đóng quân ở Vân Nam với nhiệm vụ khống chế các dân tộc thiểu số vùng này cũng như làm áp lực quân sự đối với nước ta lúc bấy giờ.
(15) Nghìn thây ta bọc trong da ngựa: lấy ý ở câu nói của Mã Viện đời Hán (trong Hậu Hán thư) Ðại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ. Nghĩa là: Bậc đại trượng phu nên chết ở giữa chiến trường, lấy da ngựa mà bọc thây.
(16) Nhạc thái thường: nhạc của triều đình dùng trong những tế lễ quan trọng ở tông miếu. Bấy giờ là thời kỳ ngoại giao giữa ta và quân Nguyên, trong những tiệc yến tiếp sứ giặc, triều đình phải dùng đến nhạc thái thường để giúp vui. Trần Quốc Tuấn coi đó là một điều nhục nhã.
(17) Thái ấp: phần đất vua phong cho các vương hầu.
(18) Ðặt mồi lửa dưới đống củi nỏ (thố hỏa tích tàn), lấy từ một câu văn của Hán thư. Phù bão hỏa, thố chi tích tân chi hạ nhi tẩm kỳ thượng; hỏa vị cập nhiên nhân vị chi an, nghĩa là: "ôm mồi lửa đặt dưới đống củi rồi nằm lên trên, lửa chưa kịp cháy vẫn cho là yên".
(19) Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội (trừng canh xuy tê): xuất xứ từ một câu văn của Sở từ Trừng ư canh nhi xuy tè hề: ý nói: người bị bỏng vì canh nóng, trong lòng e sợ, dù gặp rau nguội đi nữa, cũng lấy miệng thổi.
(20) (21) Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
(22) Cảo Nhai: nơi trú ngụ của các vua "chư hầu" khi vào chầu vua Hán ở Trường An.
(23) Mãi mãi vững bền: dịch thoát câu vĩnh vi thanh chiên: Sách Thế thuyết chép rằng: Vương Tử Kính đêm nằm ngủ ở trai phòng thấy một bọn trộm lẻn vào nhà, trộm hết mọi vật. Ông từ tốn nói với chúng: cái nệm xanh (thanh chiên) này là đồ cũ của nhà ta, các ngươi đừng lấy. Tác giả mượn điển này để nói bóng về những của cải lưu truyền từ đời nọ đến đời kia.
(24) Nguyên văn là Bình lỗ chi hậu. Bản dịch của Trần Trọng Kim cũng như bản chú thích của Dương Quảng Hàm trong Việt Nam thi văn hợp tuyển, 1942, đều cho Bình Lỗ là tên đất. Bùi Văn Nguyên cũng ức đoán Bình Lỗ tức là vùng Phù Lỗ thuộc thị trấn Kim Anh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay. Nhưng chúng tôi tán thành cách dịch của Ngô Tất Tố, Phan Kế Bính... coi đây là một từ chỉ việc bình định giặc nói chung.
(25) Bản dịch này có tham khảo và chọn lọc câu chữ ở các bài dịch trong quá khứ của Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược), Ngô Tất Tố (Văn học đời Trần, 1940), Nguyễn Ðổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử, 1941), Chu Thiên (Chống quân Nguyên, 1957), Bùi Văn Nguyên (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, 1962), Cao Huy Giu (Bd, ÐVSKTT, 1967), Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tàm (Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông, 1967).
No comments:
Post a Comment