Saturday, November 7, 2020

Đệ Nhất Song Ngư Họp Khóa Trong Tù – 2 - Phan hữu Niệm, Đệ 1 Song Ngư – K12-HQVNCH

Hồi đó gặp dịp Song Ngư kỷ niệm ngày ra trường, anh em gặp nhau, và muốn có một buổi gặp mặt về ban đêm, để cùng ăn chung một bữa. Anh em đồng ý và đề nghị tôi làm trưởng ban tổ chức cho lần họp khóa đặc biệt này.
Vì anh em ai cũng trắng tay, chẳng có gì đóng góp, tôi đề nghị, nhờ anh Ninh, đang làm trong nhà bếp, nấu hộ cho chúng tôi một nồi chè. Phần tôi, đi thu góp từ mỗi anh em, mỗi người hai tán đường đen hột xoài. Tuy thế, nhưng có vài anh em không có đường để đóng góp. Tôi phải thương lượng với những anh có đường, cho những anh không có, mượn tạm, khi nào có sẽ trả lại. Nói thì dễ, nhưng thời buổi đó, đi mượn được hai tán đường, không phải là việc dễ làm. Nhưng rồi chúng tôi cũng thực hiện được. Đường và nếp, có được bao nhiêu thì đem giao cho Ninh. Nếu thiếu cái gì thì nhờ Ninh xoay trở.

Tới đêm gặp mặt, Ninh ở lại trễ trong nhà bếp, để quét dọn và lau chùi bếp, đồng thời chờ chúng tôi đến để phân phối chè. Mỗi người chúng tôi đem một cái ca, đi đến nhà bếp, như những cải tạo viên khác là đi lấy nước đun sôi để uống. Đến nơi, gặp Ninh, mỗi người đưa ca nhựa cho Ninh, anh ta chỉ việc múc chè đổ vào đầy ca là chúng tôi rời bếp. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại một khu trống vắng ở đầu một lán, chờ anh Ninh đến. Chúng tôi bắt đầu cuộc họp khóa bằng những câu chuyện vui và những kỷ niệm hồi còn ở quân trường và trong thời gian phục vụ tại các đơn vị. Chúng tôi vừa trò chuyện vừa thưởng thức món chè do anh Ninh nấu. Đêm đó, tuy là một đêm trong tù, nhưng chúng tôi cảm thấy đầy đủ ý nghĩa về tình đồng môn hai năm trong quân trường, và những gì đã trải qua sau 11 năm lăn lộn trên sông rạch và biển cả. Đó là lần họp khóa duy nhất trong tù. Tuy đơn sơ, nhưng là một trời kỷ niệm khó quên, nhất là anh đầu bếp Nguyễn Khương Ninh, một kỷ niệm để đời tại trại Suối Máu, Tân Hiệp.


Sau đó anh Trần Thế Diệp, khóa 11, dẫn anh Bảo và anh Kiệt đến rũ tôi gia nhập vào nhóm vượt biên của anh ta khi được thả về. Anh ta cho biết, anh còn vài chiếc tàu có thể xử dụng vào việc này. Sở dĩ anh cần tôi là để tôi làm thuyền trưởng dẫn tàu đi. Tôi đồng ý ngay, và mong cho chóng đến ngày thả về để lên tàu ra khơi.
Kế hoạch chưa đến đâu thì một hôm Việt cộng tập họp chúng tôi và đọc tên những cải tạo viên sẽ được đưa ra Bắc để tiếp tục học tập cải tạo. Phần Hải quân trong trại tôi chỉ có tôi và anh Trần Hữu Khánh (khóa 11).
Hai ngày sau, chúng tôi được đưa xuống tàu, chở ra Hải Phòng, rồi chuyển sang xe lửa ra Hà Nội, và tiếp tục đưa chúng tôi lên vùng rừng núi phía bắc, giáp ranh với Trung quốc. Trại đầu tiên chúng tôi được đưa đến là một vùng rừng núi cách làng dân rất xa, mà nơi đây người ta gọi là trại Đá Cạnh. Tại đó có con suối chảy qua. Vì không có nhà sẵn, nên thời gian đầu chúng tôi phải ngủ ngoài trời. Sau đó họ đưa chúng tôi lên rừng lấy tre nứa về xây cất láng trại để ở. Ở đây chừng ba bốn tháng, họ lại dời chúng tôi sang một trại khác, tại đây có vài cái lán sẵn, có thể chứa khoảng ba trăm người tù.
Vì tôi không thích làm tổ trưởng hay lán trưởng, nên khi mới vào gian lán trại mới, tôi vác ba lô đặt ở khu giữa dãy giường, vì thông thường bọn chúng hay chỉ định người nằm đầu dãy giường và cuối dãy giường làm đội trưởng, đội phó, hay tổ trưởng, tổ phó. Hôm đó dãy giường từ đầu đến cuối có tất cả là 39 chỗ nằm ngủ. Sau khi vào vị trí chỗ ngủ xong, họ chia thành tổ như sau: từ số 1 đến người thứ 13 là tổ 1, từ số 14 đến số 26 là tổ 2, và từ số 27 đến số 39 là tổ 3. Tổ tôi, anh số 1 là anh Khánh, được chỉ định làm láng trưởng kiêm tổ trưởng tổ 1, tôi số 13, người cuối cùng trong tổ, nên được chỉ định làm tổ phó tổ 1. Vì thế khi dẫn anh em lên núi chặt cây làm láng trại, tổ 1 là phần hành của tôi, vì anh Khánh bận chức lán trưởng, có nhiều việc khác phải làm.
Một hôm tôi dẫn tổ tôi lên rừng phát quang và chặt cây. Vì trời nắng và anh em quá mệt, tôi nói với anh em rằng:
Nếu không có tụi cán bộ, các anh cứ lẫn vào rừng, xem chỗ nào mát ngồi nghỉ. Tôi ở bên ngoài, khi tụi nó đến, nghe tôi hú hay tằng hắng lớn, anh em trở lại nhiệm sở. Nhưng số tôi xui, tên cán bộ đi kiểm soát, nó không đi từ ngoài vào, mà chúng tôi không biết nó vào phía trong rừng lúc nào, nên nó kiểm sóat chúng tôi từ trong rừng đi ra. Nó không thấy anh em làm việc, nên khi ra ngoài, nó gọi tôi đến hỏi:
Những anh kia làm việc ở đâu ?
Tôi chỉ vào rừng, nhưng nó vừa từ trong đó đi ra, chẳng thấy ai cả. Nó nghĩ tôi đã dối nó. Nó kêu tôi xách con dao theo nó đến một cây thật lớn, thân cây ôm một vòng tay chưa hết, nó bảo tôi chặt hạ cái cây đó xuống.
Khi tôi chặt cái cây độ chừng mười phút thì hết giờ làm việc, chúng cho gọi thu quân. Tôi gọi anh em và cho điểm danh để về trại. Về đến trại, vừa rửa tay chân xong thì nhà bếp gọi lấy cơm. Trong lúc anh em đang chờ lãnh cơm thì tên cán bộ xuất hiện tìm tôi. Hắn hỏi tôi, đã hạ cái cây mà hắn chỉ định xong chưa? Tôi trả lời – chưa! Vì tôi đang chặt cây thì có lệnh thu quân về lán trại. Hắn bảo tôi:
– Anh vào lấy dao ra rừng chặt cái cây ấy cho ngã rồi mới về ăn cơm. Nghe thế, anh Chương, cùng tổ với tôi, biết nó phạt tôi, nên anh nói:
– Anh chờ tôi đi lấy dao chặt phụ với anh cho nhanh. Một mình anh, chặt đến chin giờ tối cũng chưa ngã cái cây đó đâu. Nói xong anh ta chạy vào lán, xách con dao đi theo tôi, trở vào rừng. Hai anh em thay phiên nhau chặt cái cây ấy, mất gần một tiếng đồng hồ cây mới ngã xuống.
Hai anh em xách dao xuống suối, rửa dao và tay chân xong, mới trở về lán trại ăn cơm sau. Anh Chương giúp tôi chặt cây, nên mọi cảm tình tôi đều dành cho anh ta từ đó.
Ở trại này được vài tháng, chúng chuyển chúng tôi đến trại Kiên Thành. Trại này có cái đặc biệt là người Thượng ở đây từ trước, nay họ đã bỏ đi. Vì khi chúng tôi mới đến, phải phát quang để xây dựng lán trại, chúng tôi đã gặp những hủ, ghè, mà bên trong đựng xương hay tro hài cốt người chết. Sở dĩ chúng tôi để ý việc này là vì, sau khi ở trại này vài tháng thì một số anh em đã vĩnh viễn ra đi, mà nguyên nhân là bịnh thiếu dinh dưỡng hay tai nạn khi vào rừng làm việc.
Anh Nguyễn Văn Chương, người đã giúp tôi chặt ngã cái cây mà tên cán bộ phạt tôi, cũng lâm vào trường hợp này. Một hôm, tôi ra cổng trại để đi làm, thấy anh đang đứng cùng một số bạn bè tại trạm xá, ngay cổng ra vào, chờ xin thuốc, lẽ dĩ nhiên là những rễ cây mà họ gọi là thuốc nam. Tôi kêu lớn và hỏi anh ta:
– Anh Chương hôm nay bịnh gì mà vào xin thuốc vậy ?
– Không biết bịnh gì mà lúc nào mình cũng thấy người lờ đờ,buồn bực, yếu đuối, nhiều khi đi đứng không vững.
Tôi nói với anh:
– Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe, nếu không, để cho cơ thể bị quỵ xuống, là không đứng dậy được đâu.
Ba ngày sau, tôi được ở nhà dọn dẹp lán trại, thì một anh bạn ở lán 6 (tôi ở lán 3) chạy tới kêu tôi, nhờ sang nhanh lán anh, xem hộ tình trạng anh Chương. Anh ta nói:
– Nhờ anh sang xem hộ, anh Chương hình như chết rồi, mà sao anh ấy còn hút thuốc.
Tôi vội vàng vứt cái chổi vào góc nhà và chạy sang lán 6. Vừa vào cửa, cái giường thứ tư từ cửa vào, anh Chương nằm ngửa, hai tay buông xuôi theo thân mình, điếu thuốc trên miệng anh vẫn còn cháy. Tôi gọi anh ba lần thật lớn, nhưng anh ta vẫn nằm im. Tôi dùng tay gở điếu thuốc từ miệng của anh, dùng khăn lau sạch miệng anh, rồi tôi kề tai ngay sát miệng anh, để nghe thử anh còn thở hay không ? Tôi kề tai sát miệng anh ba lần, nhưng tôi chẳng nghe thấy gì cả. Tôi nói với anh bạn:
– Anh lên báo cáo với họ là anh Chương đã chết rồi.
Nói xong, tôi kéo áo quần anh Chương ngay ngắn lại, sửa tư thế nằm của anh cho bình thường, và kê cái gối ngay giữa đầu cho anh. Tôi thầm khấn vái trong đầu:
– Anh Chương ! anh là bạn thân nhất của tôi ở trại này kể từ khi tôi và anh ở chung một tổ. Tôi rất muốn gần anh, để có dịp giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết. Nhưng khi vào đây, tôi và anh bị tách xa nhau. Như anh biết, tôi ở lán 3, còn anh thì ở lán 6. Gặp nhau đã khó rồi, thì làm sao giúp nhau được ? Thôi thì “sống khôn thác thiên !”, anh mau về với vợ con, cho bà và các con của anh biết để khỏi phải mong đợi anh.
Vài ngày sau, anh Nguyễn Quang Thái, một Thiếu Tá Hải quân cũng vội vả ra đi. Anh Thái, trước năm 1975, đã có thời gian ở chung cùng Đội 34 Hải Thuyền với tôi, tại rạch Bà Hiền, nơi mà Trung Úy Nguyễn Đức Bổng, khóa 10, bị Việt cộng phục kích bắn chết tại Bãi Ngao. Rạch Bà Hiền chảy ra sông Hàm Luông, cách cửa sông chừng vài hải lý. Từ ngày anh Thái vào tù cộng sản đến nay, anh đã bị phù thủng, phù lên xẹp xuống đã ba lần. Những người có kinh nghiệm về bịnh này cho biết, bịnh phù thủng mà phù lên xẹp xuống ba lần là không còn cách nào trị được nữa. Bịnh tình của anh được ban chỉ huy trại biết, vì anh ta không đi lao động được nữa, nên họ đã cho anh ta vào phụ giúp những việc nhẹ trong nhà bếp khoảng chừng hai tuần lễ trước khi anh chết. Tôi tưởng rằng anh vào nhà bếp là cái may cho anh ta, vì nếu có thêm một vắt cơm mỗi ngày, cơ thể cũng không đến nổi suy sụp như những anh em đi lao động trong rừng sâu. Một tối nọ, anh được chỉ định canh chừng cái chảo nấu cơm, phải giữ cho cái chảo luôn luôn có nước nóng, để sáng hôm sau nấu cơm cho kịp. Anh Thái lúc bấy giờ đang ở dưới nhà bếp, từ bảy đến tám giờ tối, cái chảo cơm cạn nước, anh Thái lấy cái thùng xách nước, lội xuống suối, múc một phần ba thùng nước, xách lên để châm thêm vào chảo nấu cơm. Anh vừa bước lên hòn đá tại bờ suối, vì hòn đá trơn hay anh bước trật chân sao đó, anh ngã ngay trên bờ suối, nằm nửa trên, nửa dưới. Một anh bạn khác cũng cần nước suối để đánh răng, xuống bờ suối, thấy anh Thái đang nằm dài trên bờ suối, anh ta truy hô lên. Anh em chạy ra, đỡ Thái lên, đưa vào lán, nhưng anh Thái đã bất tĩnh. Anh lán trưởng liền chạy lên báo cáo cho ban chỉ huy trại.
Trại cho cán bộ xuống, rồi chỉ định hai cải tạo viên khiên anh Thái ra trạm xá để điều trị.
Sáng hôm sau, một anh trong hai người khiên Thái, đến tìm tôi nói nhỏ:
– Tôi biết anh cùng là Hải quân với anh Thái, nên cho anh biết là, anh Thái đã chết tối hôm qua, khi chúng tôi khiên anh ta được nửa đường từ đây ra trạm xá. Anh đừng cho ai biết, tụi cán bộ biết tôi xì tin này ra là chúng nhốt tôi ngay. Tôi trả lời:
– Anh cho tôi biết tin là quý lắm rồi, và tôi phải cảm ơn anh, chứ tôi còn lòng nào đi nói bậy nói bạ để hại anh.
Rồi sau đó, thêm vài anh đi lao động trong rừng sâu, trượt chân ngã chết.
Thấy tình hình chết liên tục như vậy, anh Nguyễn Gianh Chấp, đội trưởng lán tôi, bàn với tôi:
– Anh có thấy tụi mình vào đây bị Hời yếm không ? Tôi trả lời:
– Tôi không nghĩ vậy ! Khi mới vào đây, anh cũng như tôi và mọi người, ai
cũng đập hủ, ghè. Chúng mình bị chết nhiều là do thiếu dinh dưỡng, đi lao động không cẩn thận, nguy hại đến tính mạng là chuyện thường. Kỳ này nếu có xin quà vợ, thì nói bà gởi cho đường sữa thêm một tí, để lấy lại sức khỏe. Hơn nữa, anh nhớ dặn anh em là lúc đi lao động, đừng cố dùng quá sức. Nếu để cho mình mất sức quá đà, té xuống là đứng lên không được, như trường hợp anh Thái. Làm từ từ và đi chầm chậm, miễn làm sao cây gỗ hay than củi về đến lán trại đúng giờ giấc và an toàn là tốt. Đâu cần phải vội vàng để về lán trại sớm.


Tôi được vào đội mộc.
Sau một đêm mưa dầm dề, sáng ra, lán nào cũng ẩm ướt lạnh lẻo, nhái ở ngoài chui vào nằm dưới gầm giường. Tôi xách gậy chui dưới gầm giường đuổi bắt nhái kiếm tí thịt. Xoay tới xoay lui, tôi đụng phải chân anh Chấp. Thấy tôi, Chấp hỏi:
– Anh Niệm có muốn vào đội mộc không ? Tôi ghi tên anh nhé !
– Dạ ! Anh cho tôi ghi tên vào đội mộc. Nhớ ghi danh anh Lộc Không quân nữa nhé ! Tôi với anh ấy là cặp lao động ưng ý nhất, cho anh ấy vào đội mộc để tôi hướng dẫn anh ta. Tôi trả lời anh Chấp.
Khi danh sách đội mộc được gởi lên ban chỉ huy trại. Họ trắc nghiệm bằng cách cho mỗi người dùng cưa, cắt hai đầu một cây gổ dài đúng thước tấc ấn định, và hai đầu bằng phẳng, là được xung vào đội mộc. Mỗi người cưa 15 cây trong ngày.
Phần tôi, tuy cưa thấy mệt, nhưng tôi đã đạt được chỉ tiêu ấn định. Nhìn sang Lộc, anh ta lắc đầu nói:
– Thôi, để tao lên rừng chặt cây cho chắc ăn. Tao làm như thế này thì ba ngày sau, tao cắt cũng chưa xong 15 cây này đâu.
Tôi an ủi Lộc:
– Thôi, để tao phụ kéo với mày cho nhanh.
Nói xong, tôi tới phụ với Lộc cưa cho hết 15 cây gỗ, phần của anh ta.
Tuy hôm đó Lộc làm đạt chỉ tiêu, nhưng Lộc quyết không vào đội mộc.
Hình như có nhiều khó khăn cho anh ta sao đó ? Mặc dù tôi cố khuyên anh ta nhiều lần. Trước đó, tôi với Lộc thường đi chặt cây chung.
Một hôm, khi hai đứa khiên cây về, vì Lộc to cao và mập hơn tôi, nên anh ta dành cho tôi phần ngọn, anh ta khiên phần gốc, và Lộc để tôi đi trước. Hôm đó trời mưa, chúng tôi khiên một cái cây lên dốc, tôi trượt chân, té xuống, nhưng Lộc vẫn giữ cây gỗ trên vai của anh chặt cứng. Còn đầu cây phía tôi thì cắm chặt trên triền dốc, mặc dù tôi té nằm dài trên triền dốc. Sở dĩ Lộc vẫn giữ cây gỗ, vì nếu Lộc quăng cây gỗ xuống, tôi sẽ bị thương dễ dàng. Sau đó Lộc lựa thế, để đầu cây gát trên lưng tôi, đặt phần gỗ của anh trên mặt đất. Sau đó Lộc đến nâng đầu cây gỗ đang đè tôi, để tôi bò ra. Rất may, lần này, sau khi bò ra khỏi tầm đè của cây gổ, tôi thử đứng dậy, làm vài động tác, xem chân tay và cơ thể có gì trục trặc không ? Tôi quá mừng khi thấy mọi việc đều bình thường. Tôi nói với Lộc:
– Nhờ mày giữ chặt đầu cây của mày nên không sao. Nếu mày thả đầu cây khi tao bị trượt chân ngã té, tao không biết việc gì sẽ xảy ra. Lộc nói:
– Tụi mình hên nên không có tai nạn cũng đỡ. Thôi, chúng ta ngồi nghỉ chừng năm mười phút,chờ tạnh mưa, khiên nó về.
Sau khi vào được đội mộc, tôi ít khi phải vào rừng chặt cây nữa. Công việc của đội mộc, lúc ban đầu là xây cất lán trại. Khi chúng tôi di chuyển đến một vùng mới lạ, đội mộc phải làm việc nhiều và nặng hơn các anh em đi rừng. Công việc đó là cất lên sáu dãy nhà cho cải tạo viên ở, và những dãy nhà khác cho tụi cán bộ ở nữa.
Cũng vì muốn tránh những hiểm nguy khi đi lao động trong rừng sâu, nên nhiều anh tình nguyện vào tổ cưa xẻ. Tổ cưa xẻ này dùng cưa lớn, xẻ những cây gổ thật lớn ra thành những tấm váng mỏng để đóng tủ, giường, bàn ghế, … Trong các đội, tổ, nhóm, thì chỉ có tổ cưa xẻ là được cấp phần ăn phụ trội là ngô, khoai, sắn. Tuy thấy có phần ăn phụ trội, ai cũng muốn, nhưng đây là một việc không những cần sức, sự kiên nhẩn, và sự khéo tay nữa, mới sản xuất được một tấm ván từ đầu đến đuôi, có độ dày như nhau. Khu vực trại Kiên Thành chúng tôi ở lúc bấy giờ có loại gổ vàng tâm, một loại gổ mà tụi cán bộ cho là gổ quý. Chúng cho những toán đi rừng tìm loại gổ này, càng lớn càng tốt. Chặt xong, khiên hay lăn đến khu cưa xẻ, cũng ở trong rừng, giao cho họ. Khi xẻ gổ thành những tấm ván có kích thước theo yêu cầu của tụi cán bộ, chúng cho mang về rạp mộc, giao cho chúng tôi. Anh cán bộ trông coi đội mộc, một hôm, đã họp bàn trước với ban tham mưu của chúng, chúng đồng ý bắt đội mộc phải đóng cho mỗi tên cán bộ một cái rương để đựng quần áo, có thể mang theo, khi thuyên chuyển sang những đơn vị khác. Cái rương đựng quần áo này, đặc biệt là phải có ổ khóa. Chúng tôi phải nhờ các anh làm trong tổ rèn nghiên cứu làm những bản khóa để gắn vào rương. Từ khi có chương trình làm rương bằng gổ vàng tâm, nhóm ba người chúng tôi làm việc có vẻ thoải mái hơn, vì những tên cán bộ ai cũng muốn cái tương của mình đẹp, nên khi đóng sắp xong, các anh đến rạp mộc để tự chọn cho mình một cái, và yêu cầu chúng tôi làm theo ý họ muốn.
Một hôm, chúng tôi quá đói, họp nhau lại, yêu cầu anh tổ trưởng phải tìm cách để anh em đi ra bên ngoài tìm thức ăn, đem về ăn chung, cho đở đói. Toán thì đi mót bắp trong rừng bắp mới thu hoạch, toán thi đi mót khoai lang, toán thì đi mót khoai mì, … Riêng toán chúng tôi, vì phụ trách vườn rau, nên tôi trách nhiệm nhổ su hào, đem vào trại mộc lùi tại đống lửa sưởi ấm. Bất ngờ tên cán bộ đội mộc ghé vào rạp mộc, gặp tôi, đang dồn một đống su hào khá cao trong đống tro lửa. Tuy anh ta thấy lò lửa của tôi có triệu chứng bất thường, nhưng anh ta vẫn làm thinh, vì cái rương của anh ta chưa được tôi báo cáo tình trạng thế nào? Anh ta hỏi tôi, tôi dẫn anh ta đến nơi để gổ làm rương hòm, chỉ cho anh ta những tấm gổ dự trù để đóng chiếc rương của anh ta. Nhưng tôi chỉ những tấm gổ có vết đen và có lằn nứt, rồi nói với anh ta rằng:
– Đáng lẽ tôi đã đóng cái rương của cán bộ rồi, nhưng thấy gổ xấu, nên phải chờ một vài hôm nữa, có gổ tốt vào, tôi sẽ thay thế những tấm gổ xấu đó. Anh ta có vẻ hài lòng. Anh ta cố tìm những tấm gổ khác trong kho, nhưng không còn nữa. Vì phải lựa gổ, và nghe tôi hứa sẽ đổi ván tốt, anh ta quên mất lò lửa đang lùi su hào của tôi. Anh ta quay mặt bước ra cửa và dặn thêm tôi:
– Nếu gổ nhập vào kho, anh nhớ làm ngay hộ cho tôi, kẻo nhở đi xa, không có hòm đựng quần áo.
Tôi trả lời:
– Cán bộ là cán bộ trách nhiệm đội mộc, lẽ dĩ nhiên tôi phải làm nhanh và làm kỷ cho cán bộ.
Hôm đó, khi anh em tập họp tại trại mộc đầy đủ, chúng tôi có một bửa ăn no đủ thứ. Tôi kể lại chuyện tên cán bộ mê cái rương gổ vàng tâm, không thèm hỏi tôi những gì trong lò lửa. Anh em thích thú quá nói:
– Anh hên lắm, nếu nó giả vờ lấy lửa làm mồi hút thuốc lào, thế nào nó cũng lấy cây moi đống tro ra. Như vậy hôm nay anh không có bửa ăn này, mà còn bị chúng nhốt trong nhà đặc biệt rồi.
Những tháng sau đó đội mộc chúng tôi được chuyển sang Bộ chỉ huy Liên trại. Tại đây chúng bắt chúng tôi phải cất một hội trường có khả năng chứa khoảng một ngàn người. Vì là hội trường lớn và đặc biệt, họ bắt chúng tôi phải đẻo những cây gổ lớn mới lấy từ rừng về, thành những trụ cột vuông. Tôi là một thành viên trong vụ đẻo cột bằng riều này. Tội nghiệp cho cha Nam, và Thầy Thuần. Hai vị này lớn tuổi, nhỏ con, ốm yếu, mà suốt ngày phải cầm cây riều quá nặng, người lúc nào trông cũng quá xác xơ. Nhiều khi đang đẻo cây, ông vất cái riều xuống đất, rồi ngồi xuống đất nói:
– Tôi thấy chóng mặt và khó thở quá !
Tôi bỏ riều, đến an ủi cha:
– Khi nào vừa thấy mệt là cha phải ngưng tay ngay, ngồi nghỉ cho đến khi khỏe mới trở lại làm việc. Ở đây, mỗi người chúng ta, nếu có chuyện gì xảy ra, không có ai cứu chúng ta được đâu ! Nhất là trong hoàn cảnh này, hơn sáu tháng nay, đâu có ai nhận được một gói quà từ thân nhân ở Miền Nam gởi ra. Hơn nữa Trung Cộng sắp đánh Việt Cộng, bọn này chúng càng canh giữ mình kỷ hơn.
Sau khi xây cất hội trường xong, trại Kiên Thành của chúng tôi có mười người được kêu tên để chuyển sang một trại khác,trong đó có tên tôi. Trại mới này, sĩ quan cải tạo là cấp Trung Úy. Nghe anh em đồn là mười người này sắp được thả về, nên chúng tôi cũng mừng thầm. Nhưng khi chuyển sang đó,chúng tôi lại học được thêm một nghề khác, đó là nhổ mạ, cấy lúa. Ở chung trại với cấp Trung Úy, Thiếu Úy được chừng hai tháng thì họ chuyển nguyên trại này sang một vùng có nông trường, gọi là nông trường Trần Phú. Vùng này là một vùng ở đồng bằng, không còn ở trong rừng núi nữa. Hằng đêm chúng tôi lắng tai nghe tin tức từ nông trường này phát thanh bằng hệ thống loa lớn cho dân chúng ở nông trường nghe. Sau vài tháng nghe tin, chúng tôi nghĩ rằng thế nào Trung Cộng cũng đánh Việt cộng để chiếm vùng biên giới Việt Trung. Chừng một tháng sau, một số dân từ Yên Bái được dời về khu Trần Phú mà chúng tôi đang ở, tôi tình cờ gặp được một bà từ Yên Bái xuống. Bà ta hỏi tôi, chú có biết vùng Yên Bái đó không ? Tôi trả lời, chúng tôi vừa từ trên đó chuyển về đây. Bà ta cho tôi biết: Một đêm, chúng tôi đang ngồi xem ti-vi thì quân Trung Cộng kéo đến. Bà con tranh nhau bỏ chạy về nhà. Sau đó bà con được chính quyền kêu gọi, tập họp lại và chở về đây tị nạn tạm thời.
Chúng tôi ở đây chừng nửa năm thì họ đưa chúng tôi lên xe lửa, chuyển về Thanh Hóa, một trại mà chúng gọi là Trại 5 Thanh Hóa. Trại này trước đó là một trại nhốt thành phần hình sự. Chung quanh là vòng thành xây bằng đá, phía trên có cọc sắt và rào kẻm gai. Trại viên rất khó trốn trại bằng cách vượt thành rào. Một hôm họ gọi anh Phan Nhật Nam lên ban chỉ huy trại để điều tra việc gì đó. Sau mấy hôm làm việc với họ, anh Nam bị đưa nhốt trong phòng tối. Lúc bấy giờ tôi được chuyển sang nhà bếp, nấu nước sôi, rồi gánh nước đem phân phối cho các nhà có cải tạo viên ở.
Khi tôi gánh nước ra các dãy nhà gần cổng, vì mệt, tôi hạ gánh nước xuống đất, để tìm bóng mát ngồi nghỉ. Trong lúc đó anh Nam cũng bị gọi lên ban chỉ huy làm việc gì đó. Thấy anh Nam một mình đứng dưới gốc cây mít, tôi đến hỏi thăm. Chưa hỏi được gì, nhưng anh Nam sợ sự việc có liên hệ đến tôi, nên anh ta nói:
– Anh gánh nước đi phát cho anh em đi. Nếu để chúng thấy anh nói chuyện với tôi, chúng sẽ gọi anh lên làm việc đó. Nghe anh Nam nói thế, tôi vội chào anh Nam và gánh nước đi phân phối cho các nhà gần đó.
Vài ngày sau, anh em đồn rằng ông cụ anh Nam có ghé Trại 5 Thanh Hóa thăm anh Nam. Tin đó cũng cho biết rằng, ông cụ anh Nam là người ở trong quân đội miền Bắc. (Sự thật thế nào, xin quý vị hiểu biết đính chính hộ, thành thật cảm ơn). Tôi không biết rõ sự việc thế nào, nhưng sau khi ông cụ anh Nam ghé thăm anh ta, thì sau đó anh Nam được thả về trại để đi làm việc như các trại viên khác.
Ở trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa thêm vài tháng nữa thì họ chuyển chúng tôi vào trại Xuân Lộc, ở Miền Nam. Về trại này chừng một tháng thì bà xã tôi vào thăm nuôi, lúc ấy trại cũng cho biết là tôi đã có lệnh được thả. Không có gì mừng hơn tin này. Tôi cho bà xã tôi biết, và nói với bà, tôi sẽ cố gắng tìm mọi cách ở Sài Gòn, để tìm đường vượt biên. Khi bà xã tôi về thì ba tuần lễ sau tôi được thả. Tôi về Sài Gòn, lúc đầu tôi tạm trú tại Hòa Hưng, nhà người quen tôi ở trọ học hồi còn là sinh viên. Tôi không biết vì lý do gì mà phường không quản lý tôi như mọi người khác, mà hồ sơ của tôi được quận 3 lưu giữ. Mỗi lần có chuyện gì, tôi phải trình diện trực tiếp quận 3 Sài Gòn. Sau mấy lần trình diện, họ bắt tôi phải trở về quê gốc là Khánh Hòa để sinh sống. Họ nói rằng họ sẽ trả tôi về lại quê quán. Tôi nói, mấy chục năm qua tôi sinh sống ở Sài Gòn, quê tôi, hồi tôi mới sinh, hiện nay không còn thân nhân nào ở đó nữa. Tuy nhiên họ cóc cần biết thân nhân của tôi như thế nào, họ bắt buộc tôi phải về Tu Bông, nơi sinh quán của tôi.
Một buổi sáng, tôi đến trình diện họ theo giấy gọi. Vào văn phòng, tôi ngồi
chờ một chốc thì một tên cán bộ ra gặp tôi. Anh ta thảy nguyên tập hồ sơ trên bàn cho tôi, và nói:
– Anh muốn ở Sài Gòn thì phải biết điều.
Tôi lật tập hồ sơ ra xem thì không thấy thiếu một giấy tờ nào mà từ trước tôi đã nộp cho họ. Tôi xem một chốc rồi cầm xấp hồ sơ đứng lên, chào anh ta ra về.
Khi gặp lại bà xã, tôi cho bà biết là bọn công an muốn làm tiền. Bà dúi cho tôi ba trăm đồng và nói:
– Nếu cần thì đưa cho chúng. Cố gắng ở trong này. Về Tu Bông, tụi chúng biết ông là cựu Hải quân, chúng cài cho ông vượt biên, dễ bị lộ lắm.
Một tuần lễ sau, tôi nhận được thư công an quận 3, gọi trình diện. Trước khi rời nhà, tôi gói theo ba trăm đồng, để xem họ muốn gì. Khi vào, tôi gặp tên cán bộ tuần trước. anh ta hỏi liền:
– Đã sẵn sàng chưa ?
Tôi trả lời:
– Sáng nay trước khi rời nhà, tôi hỏi mượn ông cụ một ít tiền, nhưng ông rên quá. Ông nói rằng, ông đã về hưu, không làm ra tiền. có mấy đồng bạc làm để dành, mấy năm nay tiêu gần hết. Tôi năn nỉ quá, ông mới mở tủ cho tôi mượn có ba trăm đồng thôi.
– Bỏ trong phong bì chưa ? Anh ta hỏi.
– Rồi .
– Đâu ? Đưa đây !
Tôi móc túi, lấy phong bì có tiền bên trong, đưa cho anh ta.
Đưa một tay nhận phong bì, tay kia anh ta kéo hộc tủ, rồi bỏ nhanh phong bì vào đó đóng lại.
Anh ta ngồi lại bàn đó với tôi chừng ba phút sau, nhìn qua lại, không thấy ai, anh ta kéo hộc tủ, lấy bao thơ mà tôi đưa, bỏ vội vào túi, quay vào trong, đi ngay. Khi anh quay trở ra, anh ta đưa cho tôi một tờ giấy và nói:
– Nếu anh muốn ở thêm thì phải biết điều.
Tôi cầm tờ giấy đọc trong khi anh ta quay lưng, đi vào trong.
Tờ giấy đó là tờ giấy cho phép tôi được ở Sài Gòn ba tháng.
Tôi nghĩ ngay, mỗi ba tháng phải đóng ba trăm, tôi không đủ sức lo việc ấy.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải cầm tờ giấy phép rời phòng công an.
Sau đó mấy tuần, tôi gặp được anh bạn tù cùng trại, anh ta hỏi tôi hiện đang ở đâu ? Tôi cho anh ta biết, hiện tôi đang ở Hòa Hưng, và mới xin được giấy phép ở lại Sào Gòn ba tháng. Anh ta hỏi:
– Hết ba tháng, rồi tính sao ?
– Chắc phải trốn ở Sài Gòn, tìm đường vượt biên.
– Anh ta bảo tôi:
– Nếu không có chỗ ở, anh sang tôi ở tạm, mà chỉ ở ban đêm thôi. Nếu ở ban ngày, bọn công an thấy, chúng mình sẽ có nhiều rắc rối.
Nghe anh ta nói thế, tôi như mới chết được hồi sinh. Tôi nói:
– Được anh cho ở tạm ban đêm là tốt quá rồi. Ban ngày, tôi với chiếc xe đạp này sẽ lang thang khắp đầu hè xó chợ vùng Sài Gòn – Chợ Lớn này cho đến khi chúng tôi rời khỏi đất nước này.
Vì không có nhà ở, nên sau đó một tuần, tôi đã dời đến nhà anh ta để ở.
Bà vợ của anh ta bán ở chợ Thị Nghè, nên mỗi đêm, trước khi công an đi lục soát khu vực của chị ta, chị đều được công an thông báo trước. Đêm đó anh chị bạn cho tôi biết, để tôi lánh mặt, đi nơi khác. Mỗi sáng , tôi phải rời nhà anh chị bạn lúc sáu giờ. Dọc theo hai bên đường Dương Công Trừng , hàng quán bán thức ăn sáng rất nhiều. Tuy nhiên, tôi chỉ mua một đồng khoai mì luộc, để làm ấm bao tử từ sáng cho đến trưa. Trưa đến, dọc theo đường, gặp quán cơm nào, thì tôi dừng xe đạp lại để mua một đỉa cơm ăn cho đỡ đói. Một hôm, tôi ghé lại một quán ăn bên lề đường Phan Đình Phùng, quận 3, tôi hỏi bà chủ quán, một đỉa cơm giá bao nhiêu ? Bà ta cho biết, một đỉa cơm, gồm một chén rưỡi cơm trắng với ba miếng thịt heo và ba muổng nước thịt giá năm đồng. Tôi hỏi thêm:
– Nếu tôi chỉ cần cơm trắng thôi, thì tôi phải trả bao nhiêu tiền ?
– Ba đồng rưởi. Bà ta trả lời.
– Nếu vậy, bà cho tôi một đỉa cơm trắng.
Sau khi đưa đỉa cơm cho tôi và bà ta ngồi nhìn tôi ăn cơm trắng, bà nói với tôi:
– Đưa đỉa cơm đây, tôi chang cho vài muổng nước thịt ăn tạm, chứ ăn như vậy, làm sao nuốt cho vô.
Tôi chìa đỉa cơm về phía bà ta. Bà ta chang cho tôi hai muổng nước thịt.
Tôi nói lời cảm ơn bà ta, rồi tiếp tục ăn. Lần này thì tôi ăn nhanh hơn, và tôi cảm thấy đỉa cơm hôm đó quá ngon, vì có thêm hai muổng nước thịt mà bà bán cơm đã cho. Ăn xong, tôi trả muổng đỉa, và nói lời cảm ơn với bà ta một lần nữa. Sau đó tôi tiếp tục đạp xe hướng về Chợ Lớn, để cố tìm mối vượt biên.
Môt hôm tôi gặp anh Nguyễn Khoa Lô, bạn cùng khóa Hải quân, ở trên một căn gác trên đường Dương Công Trừng, gần ngã ra vào nhà của anh bạn mà tôi đang ở nhờ. Lô hỏi tôi, có dự định vượt biên không ? Tôi trả lời, đang đi tìm mà chưa có. Lô nói, nếu tôi có chỗ, tôi sẽ giới thiệu cho anh.
Tôi trả lời:
– Nếu vậy, thì anh giới thiệu cho tôi càng sớm càng tốt, để tôi chuẩn bị, vì vợ con tôi hiện đang ở Khánh Hòa. Tuy dặn thế, nhưng ba tuần lễ sau, Lô đến gặp tôi, hỏi:
– Anh sẵn sàng đi chưa ?
Tôi trả lời:
– Lúc nào cũng sẵn sàng.
Lô nói:
– Ba ngày nữa họ sẽ rời bến.
Tôi nói:
– Sợ không kịp, vì bà xã tôi ở mãi tận Tu Bông, phía bắc tỉnh Khánh Hòa. Tôi nói thêm, nếu bà xã tôi vào kịp thì họ cho tôi mấy chỗ ?
Lô không trả lời, nên tôi yêu cầu cho tôi bảy chỗ. Sáu chỗ cho gia đình tôi, một chỗ cho anh Cần, người bạn mà cho tôi dung thân một thời gian qua trong nhà của anh ta.
May quá, hôm đó bà xã tôi từ Nha Trang vào Sài Gòn. Tôi báo cho bà biết, về đưa mấy đứa nhỏ vào Sài Gòn gấp. Sau đó tôi gặp lại anh Lô, và cho anh ta biết, tôi nhận đi chuyến đó. Anh ta cho tôi ngày giờ và địa điểm hẹn để những người dẫn đường gặp gia đình tôi và tôi, vì họ chia chúng tôi làm hai nhóm khác nhau: nhóm của bà xã tôi và mấy đứa bé. Nhóm thứ hai là tôi và anh bạn là Cần.
Bà xã tôi và mấy đứa bé phải xuống Rạch Giá trước tôi một ngày. Còn tôi và anh bạn thì sáng hôm sau mới rời Sài Gòn. Khi hai chúng tôi vào bến xe Chợ Lớn, đang ngồi trên xe đò, chiếc xe chạy tới chạy lui sao đó, bị một xe đò khác húc sau lái xe. Tuy nhiên, vì không thiệt hại nhiều, chiếc xe vẫn còn tiếp tục nhận khách đi Rạch giá. Khi xe tôi đến Rạch giá thì có người đón chúng tôi đến một nhà đợi, ngay tối hôm đó. Đến tám giờ tối, tôi gặp được chị tài công ghe chở khách, chạy tới lui để dồn khách lại những chỗ đã ấn định, để ghe đến bốc sáng hôm sau. Vì chưa gặp được bà xã tôi, và tôi cũng không biết bà đang ở đâu, nên tôi nói với chị tài công lái ghe đón khách:
– Tôi là tài công cho chuyến đi này, gia đình tôi xuống đây ngày hôm qua, mà tôi chưa gặp được mặt, chị có cách nào cho tôi gặp gia đình tôi trước khi ghe rời bến không ?
Chị ta trả lời:
– Tất cả mọi người đang tụ tập tại nhà ông chủ ở bên kia.
Tôi hỏi:
– Tôi có thể sang đó để gặp mặt gia đình tôi được không ?
Chị ta trả lời:
– Bây giờ đi lại nhiều lần bất tiện lắm. Đợi sáng mai gặp luôn.
Tôi nói với chị ta:
– Nếu tôi không gặp mặt được gia đình tôi tối nay, ngày mai tôi sẽ không đi. Nếu có trở ngại gì là do chị, vì chị không báo cho chủ biết để đón tôi. Chị ta suy nghĩ một hồi rồi nói:
– Vậy anh lên ghe, tôi sẽ chở anh đến đó.
Tôi nhảy lên ghe ngay. Chị ta chạy chừng mười phút, đưa tôi đến một căn nhà sát bờ sông, mà từ bờ sông vào căn nhà, hai bên thắp hai hàng đèn sáng trưng. Tôi hỏi chị ta:
– Họ làm gì vậy ? Không sợ công an đến bắt sao ?
Chị ta nói:
– Đã mướn thầy Pháp yếm bùa rồi, thì ai mà đến được !
Tôi vào nhà và rất mừng khi gặp lại được bà xã tôi và mấy đứa bé.
Sau đó tôi gặp người chủ tổ chức, cho họ ý kiến là nên tắt đèn, vì nếu đèn sáng quá, công an dễ nghi ngờ, dễ đến đây bắt chúng ta. Anh ta nghe lời, tắt hết đèn. Đêm đó tôi ở lại chỗ này cho đến gần sáng. Trời vẫn còn tối, lúc đó khoảng chừng bốn năm giờ sáng, chúng tôi được đưa ra ghe lớn, chờ ngoài cửa Rạch Giá. Khi anh chủ ghe cho tôi biết, mọi người đã có mặt đầy đủ trên ghe, tôi cho kéo neo, và hướng ghe ra biển, thẳng hòn Nam Du, vì tôi sợ, nếu đi gần Phú Quốc,dễ bị tàu công an chận bắt.
Đến khoảng bốn giờ chiều, một chiếc ghe lớn hơn ghe tôi, trên cột cờ có treo cờ đỏ sao vàng, chạy theo ghe tôi. Tôi nghi ngờ là ghe công an theo đuổi, nên tôi thử đổi hướng nhiều lần, chiếc ghe đó luôn đổi hướng để theo ghe tôi.
Đến tám giờ tối, tôi bắt đầu tăng máy để cố thoát khỏi ghe theo đuổi. Tôi càng chạy nhanh thì ghe kia cũng chạy nhanh hơn. Tuy nhiên ban đêm khó theo dõi, nên sau vài tiếng đồng hồ, tôi không còn thấy chiếc ghe đó ở phía sau ghe tôi nữa. Niềm vui chưa trọn thì anh thợ máy lên báo cáo cho tôi biết, máy ghe có trục trặc, và có thể ngưng chạy bất cứ lúc nào. Tôi hỏi anh ta, tại sao như vậy ? Anh ta nói:
– Trước khi ghe dùng để vượt biên, chiếc ghe đã được xử dụng đi lưới cá ngoài biển liên tiếp cả mười ngày, và có lúc, nhớt của máy ghe đã cạn. Vì thế, máy ghe trục trặc kể từ khi đó.
Tôi bảo anh ta cho giảm máy chậm lại. Mặc dù máy ghe đã được cho chạy chậm lại, nhưng sau chừng nửa giờ, máy ghe ngừng hẳn, không còn hoạt động gì được nữa. Tôi bắt buộc phải thả ghe trôi lềnh bềnh trên biển. Sau đó tôi gọi tất cả thanh niên họp lại, yêu cầu họ lấy bao cát, kết lại thành một cái buồm, để sáng hôm sau trương buồm lên mà chạy, vì dù sao chúng tôi cũng đã ở ngoài biển khơi rồi. Sau một đêm làm việc, sáng hôm sau chúng tôi có được một cánh buồm, trương lên chạy tạm,trông cũng được như ý muốn. Đến khoảng chín giờ sáng, chúng tôi thấy năm chiếc ghe ở xa, tụ họp lại một chỗ chừng mười lăm phút. Sau đó chúng tỏa ra chạy thẳng về hướng ghe của chúng tôi. Khi đến gần ghe chúng tôi, họ chia nhau vây bủa chung quanh ghe, quay đại liên về phía ghe chúng tôi, và lên cơ bẩm súng đại liên, yêu cầu ghe chúng tôi dừng lại. Tôi cho hạ buồm xuống. Họ nhảy qua ghe chúng tôi, dồn hết mọi người ra giữa sàn ghe, hỏi chúng tôi:
– Ghe vượt biên đi về đâu ?
Không ai dám trả lời, nên tôi nói nhỏ với anh chủ ghe, anh này tên Đằng:
– Anh tìm cách liên lạc với tên chóp bu, xin nó thả ghe mình đi.
Đằng nói:
– Trước hết mình phải có tiền cho chúng, mình mới nói được.
Tôi nói:
– Đó là việc anh thường làm, anh biết phải làm thế nào. Phần tôi chỉ biết lái ghe mà thôi.
Đằng nói:
– Thế thì anh cho phép tôi xin tiền bà con để nộp cho chúng, hy vọng chúng sẽ thả mình đi.
Tôi hỏi anh ta:
– Anh xin tiền bằng cách nào ?
Anh ta nói:
– Mình đem cái nón để trên sàn ghe, rồi nói với bà con, ai có gì thì bỏ vào nón, để đưa cho họ, để họ thả mình đi.
Tôi nói:
– Năm chiếc ghe to tổ bố của họ, tiền đâu mà lo cho xuể !
Đằng nói:
– Để tôi thử xem sao ?
Nói xong, anh ta đi lấy cái nón ra để trên sàn ghe, rồi anh ta đi rỉ tai mọi người, để họ cho tiền. Anh ta bắt đầu bỏ tiền vào nón trước tiên. Kế theo anh ta, bà con, ai có gì cho nấy. Người thì bỏ tiền vào nón, người thì bỏ vàng. Sau chừng một tiếng đồng hồ, anh chủ ghe ra chỗ cái nón, thu những vàng bạc mà bà con vừa bỏ vào, rồi anh bước qua tàu Côn Đảo, vì đây là đoàn tàu Côn Đảo, loại tàu tuần tiễu của nhà nước, để lo lót tiền cho chúng. Sau đó anh ta trở về ghe, và nói với tôi rằng:
– Họ chê quá ít ! Tuy nhiên, tôi có đưa riêng cho anh chính trị viên một sợi dây chuyền khá đẹp, tôi không biết của ai cho. Anh chính trị viên đã bỏ riêng vào túi, còn những thứ khác và tiền bạc thì anh ta để trên bàn, và nói, bao nhiêu đây thì tôi làm sao chia cho năm tàu chúng tôi được. Vì anh ta lấy sợi dây chuyền dấu riêng trong túi áo của anh ta, nên tôi thấy có nhiều hy vọng họ sẽ thả mình đi.
Tôi nói:
– Nếu vậy, anh đem cái nón khi nảy để lại chỗ cũ, và nói với bà con, ai còn gì cho thêm để nộp cho chúng. Lần này thì, vì đã cho rồi, nên chỉ còn đôi ba người cho vài ba ngàn đồng, và một vài chiếc nhẩn vàng.
Khi có thêm tí ti tiền và vàng, thì Đằng ra lấy và mang sang tàu Côn Đảo, đưa thêm cho anh chính trị viên. Anh chính trị viên nói với Đằng:
– Để tôi đề nghị với anh em, cho ghe anh được tự do. Khi Đằng trở về cho tôi biết quyết định của anh chính trị viên như thế, tôi bảo anh ta rằng:
– Anh nhờ họ kéo ghe mình từ bây giờ cho tới tối, về hướng Singapore thử được không ?
Đằng nghe tôi nói thế, vội vàng nhảy trở lại tàu Côn Đảo, để xin kéo ghe chúng tôi về hướng Singapore. Thật chúng tôi không ngờ, họ đồng ý kéo ghe chúng tôi cho đến sáu giờ chiều theo hướng chúng tôi muốn. Lúc ấy tôi ra mặt, và xin họ kéo cho đế tám giờ tối. Vì tàu họ lớn nên khi kéo, ghe chúng tôi chạy tương đối cũng khá nhanh. Đến tám giờ tối, tôi phỏng chừng ghe chúng tôi đến ngang bờ biển Mã Lai. Họ cho tàu của họ chạy chậm lại, mở dây, và bảo chúng tôi tháo dây ra, rồi họ quay tàu chạy trở lại vùng biển Việt Nam, bỏ ghe chúng tôi trôi lình bình trên biển. Tôi cho trương buồm lên và dùng mái chèo, chèo ghe chúng tôi về hướng Singapore, nhưng ghe chẳng đi được như mình mong muốn. Lúc bấy giờ tôi biết được là ghe chúng tôi đang ở trên thủy trình Việt Nam – Singapore, vì suốt ba đêm, ghe chúng tôi lình bình trong vùng biển đó, có rất nhiều tàu bè qua lại. Chúng tôi đốt lửa để kêu cứu. Có vài ba chiếc tàu ngừng lại quan sát, nhưng sau đó họ bỏ đi, không tàu nào cứu chúng tôi cả.
Sáng ngày thứ tư, anh cơ khí phụ trách máy ghe, lên báo cáo với tôi rằng nước ngọt đã hết. Tôi hỏi anh ta là còn bao nhiêu ? Anh ta trả lời là không rõ, nhưng khi bơm nước ngọt lên, nước lên rất ít và yếu. Tôi bảo anh ta và anh Đằng chủ ghe, nên hạn chế nước uống ngay từ bây giờ. Mỗi người chỉ được ba nắp bình 20 lít cho ba buổi thôi. Sau đó tôi quyết định lái ghe trở về. Tôi giải thích cho tất cả thanh niên là nên dồn sức lại để chèo ghe về đến bến bờ Việt Nam trước khi chúng ta bị chết khát trên biển. Buồm cũng được kéo lên. Lần về này nhờ gió xuôi nên ghe đi tương đối nhanh.




Ba hôm sau ghe chúng tôi đang tiến vào cửa Rạch Giá lúc tám giờ tối, thì phát hiện một tàu tuần tiễu đang chạy qua lại, cắt ngang tuyến đường vào cửa biển Rạch Giá. Tôi sợ ghe bị chận bắt, nên tôi cho ghe đi dọc sát bờ rừng U Minh Thượng, và khi ghe đến khoảng kinh 5, tức là con kinh gần quận Kiên An, tôi dừng ghe lại, thả neo nơi cạn, nước khoảng ngang bụng, rồi thông báo cho mọi người biết là có ghe công an chận tại cửa Rạch Giá, nếu chúng ta tiếp tục đi vào, sẽ bị bắt, nên ghe phải neo tạm tại đây. Sau đó tôi thông báo cho anh Đằng, chủ tàu, các anh trong ban tổ chức, và quân nhân, ai muốn rời ghe bây giờ thì sẵn sang nhảy xuống biển, để lội vào bờ. Lúc bấy giờ có 12 người muốn lội vào bờ. Trước khi rời ghe, tôi dặn bà xã tôi, nên giữ mấy đứa bé trên ghe, sẵn sàng chấp nhận bị bắt. Phần tôi, tôi phải đi theo nhóm người lội vào bờ. Lúc bấy giờ, bà xã tôi chỉ còn một chiếc nhẩn, bà gở chiếc nhẩn trao cho tôi, và dặn, anh nên bảo trọng, và đừng để chúng bắt. Tôi kiểm soát neo thật chắc chắn, và thả thêm dây neo dài hơn. Sau đó tôi nhảy xuống biển, dẫn đường cho mọi người cùng lội vào bờ. Khi vào đến bờ, tôi nói với anh Đằng:
– Các anh là những người tổ chức, quen đường đi nước bước ở đây, nên các anh cần phải đi trước, dẫn đường cho những anh em khác theo sau. Từ đó về sau, các anh ấy dẫn đi đâu, tôi chỉ việc đi theo, không chú ý đến các anh ấy đi đúng đường hay sai. Vì thế khi vào bờ, thay vì đi quẹo trái, để đi về sông Cái Lớn, Cái Bé, các anh này lại quẹo phải, để đi sâu vào rừng U Minh Thượng. Tôi cũng không biết tại sao lúc đó tôi không để ý đến việc này. Vì suốt một đêm từ mười giờ tối đến sáu giờ sáng, môt khoảng thời gian dài như vậy, chúng tôi đi khá xa, mặc dù là rừng sình lầy và đi trong đêm tối. Sáng hôm sau, tôi ước chừng, chắc cũng đã đến kinh Thứ 11, thuộc U Minh Thượng, và nếu tiếp tục đi, chúng tôi có thể bắt đầu vào rừng U Minh Hạ. Nhưng vì Trời đã sáng, chúng tôi dè dặt hơn, có nghĩa là, dù đi trong rừng sình lầy, chúng tôi vẫn phải giữ im lặng. Vì quá mệt, chúng tôi phải dừng lại để nghỉ lấy sức tại một khu đất khô, ai có đem theo thực phẩm khô thì mang ra ăn tạm. Khi đó anh chủ tàu lên tiếng:
– Thưa các anh em, hiện tại tôi còn một ít tiền mang theo, bây giờ, các anh ngồi ở đây chờ, nhóm anh em chúng tôi đi ra ngoài làng, tìm mua một chiếc ghe. Sau khi có ghe, chúng tôi sẽ quay lại đây, chở các anh em, để chúng ta cùng rời khỏi nơi này. Mọi người nghe có lý, nên đồng ý để cho các anh ấy đi trước. Tôi hỏi:
– Nhóm anh có mấy người ?
– Có bốn người. Anh ta trả lời.
Sau khi bốn người rời khỏi nhóm, tôi hỏi thêm:
– Có anh nào muốn tách rời thành nhóm nhỏ nữa không ?
Tôi giải thích:
– Anh Đằng lúc nảy nói sẽ trở lại đón chúng ta, nếu anh tìm mua được ghe, tôi thấy anh ta nói có lý, nhưng bây giờ nghĩ lại, trong hoàn cảnh khó khăn này, anh ta nếu tìm được ghe, nhóm anh ấy sẽ đi luôn, và sẽ không bao giờ trở lại đây nữa.
Một nhóm khác, ba người, lên tiếng:
– Nhóm tôi cũng xin đi ra làng, tìm phương tiện.
Tôi hỏi:
– Anh đi hướng nào ?
Anh ta trả lời:
– Theo hướng anh Đằng vừa mới đi ra.
Tôi nói:
– Nếu vậy thì các anh cứ đi !
Bảy người đã ra đi, còn lại năm anh em, không thuộc nhóm nào cả, vì mới biết nhau trong chuyến ghe vượt biên này. Chỉ có tôi và anh Cần, anh bạn mà đã cho tôi trú ngụ mấy tháng qua ở Sài Gòn, khi tôi bị công an Sài Gòn đuổi về quê sinh sống, mà lúc nào tôi cũng phải giữ anh ấy đi chung với tôi. Tôi nói:
– Bây giờ, nếu không ai đi riêng, chúng ta năm người, cùng đi chung với nhau, do tôi hướng dẫn. Nói xong, tôi bước đi trước, đi về hướng rừng sình. Đi chừng mười lăm phút, tôi bảo anh em chờ, để tôi leo lên cây cao quan sát địa thế. Khi lên ngọn cây cao tôi thấy rõ ràng quang cảnh chung quanh. Nào đảo Hòn Tre ở ngoài biển, rồi rừng U Minh Thượng, một cánh đồng, một dãy làng. Ba yếu tố này: rừng, cánh đồng, và làng, chạy song song từ hướng đông sang hướng tây. Tôi nghĩ lại, nếu tối hôm qua chúng tôi đi về hướng tây, chắc bây giờ chúng tôi cũng đã đến sông Cái Lớn rồi. tôi leo xuống cây và tiếp tục đi vào rừng sình lầy. Chừng nửa giờ sau, tôi nhìn lại phía sau, chỉ thấy có hai người. Tôi hỏi một anh bạn, còn hai anh kia đâu rồi ? Anh này tên là Khôi, Đại Úy Không quân, anh ta nói:
– Hai anh kia nói là, suốt một đêm lội sình, đã quá mệt, mà bây giờ tiếp tục lội sình nữa, đi không nổi, nên hai anh quay trở lại, nói là theo hai nhóm kia, để ra làng tìm đường đi.




Sau đó tôi bắt đầu hướng ra bờ rừng, để đi theo con đường dọc theo bờ rừng và cánh đồng. Vừa ra khỏi rừng thì chúng tôi nghe tiếng súng bắn,chúng tôi nhìn về hướng tiếng súng, thì thấy có một số người tụ tập ở đó. Tôi cố đi nhanh về hướng tây để lánh xa nhóm người và nơi vừa có tiếng súng nổ. Chúng tôi, ba anh em đi trên con đường đê dọc bờ rừng đến khoảng 12 giờ trưa, tôi đổi ý, và băng qua cánh đồng ruộng, để vào làng. Khi vào làng, tôi cũng theo con đường làng đi sâu về phía tây. Chúng tôi đi qua một căn nhà, cách đường chúng tôi đi chừng mười thước. Trong nhà đó đang có hai thanh niên và một thiếu nữ. Thấy chúng tôi, từ bên trong họ hỏi vọng ra:
– Các anh đi đâu đó ?
Tôi trả lời:
– Hôm qua chúng tôi đi ăn đám giổ trong miệt thứ, say quá không về được, hôm nay mới về.








TVQ chuyen







Attachments area

No comments: