Người trong hình chính là ông Hà Mai Anh, dịch giả của Tâm hồn cao thượng, cuốn sách gối đầu giường của tôi từ bé thơ. Hà Mai Anh quê ở Thái Bình, ông đậu bằng Cao Ðẳng Tiểu học và trường Sư phạm, từng làm giáo học và hiệu trưởng ở các tỉnh ở Bắc Kỳ.
Ông trở thành tác giả giáo khoa. Ngay từ năm 1938 cuốn Công dân giáo dục do ông viết đã được xuất bản tại Nam Định và được sử dụng làm SGK thời đó. Vào những năm đầu 1940, ông dịch cuốn Tâm hồn cao thượng (tiếng Ý: Cuore) đoạt Giải thưởng Văn chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, dịch từ tiếng Pháp.
Ông cũng dịch cả Vô gia đình (Sans Familles), Trong gia đình (En Famille) và Về với gia đình của Hector Malot; Guy-Li-Ve du ký (Gulliver's Travels) của Jonathan Swift; 80 ngày vòng quanh thế giới (Le Tour du monde en quatre-vingts jours) của Jules Verne cũng được nhiều người biết đến.
Nhà Giáo Hà Mai Anh
Năm 1954 ông di cư vào Nam làm hiệu trưởng trường Trần Quý Cáp ở Sài Gòn rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu thư và Học liệu thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục của VNCH. Ông tỵ nạn qua Mỹ và mất vào 20 tháng 8 năm 1975 tại San Bernadino, Ca, thọ 70 tuổi.
Cuốn Tâm hồn cao thượng do ông dịch đã giáo dục lòng biết ơn, khơi gợi sự trắc ẩn, lòng yêu nước, thương người cho biết bao thế hệ học sinh từ thơ ấu. Cuốn sách này như khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam giúp người ta biết giá trị đích thực của mỗi một người hiện hữu trên thế gian này. Như một đoạn trích trong sách sau đây"
"An di ơi! Mai sau, con nên người, con sẽ du lịch trong thế giới, con sẽ trông thấy những thị thành hoa lệ, những đài các nguy nga, nhưng con phải nhớ luôn luôn đến nếp nhà trắng tầm thường kia với cửa chớp khép, với vườn cây xanh, vì đấy là nơi bông hoa trí tuệ đầu tiên của con đã nẩy nở. Mẹ tin rằng hình ảnh trường cũ của con sẽ in vào ký ức cho đến lúc tàn sinh cũng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng cái nhà cũ kỹ mà ở đấy mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con."
Theo Fb:Nguyễn Thị Bích Hậu.
Nhà Giáo Hà Mai Anh & Tác Phẩm Tâm Hồn Cao Thượng
06/06/2019
Lời Ngỏ:
Trong Đêm Hội Ngộ Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Ra Trường của Khóa Nguyễn Trãi I Trường Đại Học CTCT vào cuối tháng 5, 2019. Tôi gặp anh Hà Mai Khuê (Thiếu Tá Thiết Giáp, bạn học với Nguyễn Lương Tâm thời trung học ở Đà Lạt và cũng là bạn cùng khóa NT I của chúng tôi). Anh Khuê nhắc lại bài viết của tôi cách nay 15 năm khi được tin nhà giáo Hà Mai Anh (bác của anh Hà Mai Khuê) qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1975 tại San Bernadino, Hoa Kỳ.
Nhà giáo Hà Mai Anh, thân phụ của Đại Tá Kỵ Binh Hà Mai Việt (1933), tác giả Thép & Máu, Việt Nam Cội Nguồn Cuộc Chiến, Việt Nam & Hoa Kỳ Trong Chiến Tranh Lạnh... GS Hà Mai Phương (1939-2009) với nhiều tác phẩm biên khảo rất giá trị.
Trong thời gian qua, nhiều bài viết nói về nền giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa với chăm ngôn: Đức Dục, Trí Dục, Thể Dục. Nền giáo dục đó từ bậc tiểu học đã dạy dỗ, hướng dẫn trẻ thơ về Đức Dục để khi lớn lên làm con người lương thiện, tân hồn nhân bản để phục vụ cho đất nước.
Năm 1938 cuốn Công Dân Giáo Dục của nhà giáo Hà Mai Anh đã được xuất bản tại Nam Định được chấp thuận dùng làm sách giáo khoa. Quyển Tâm Hồn Cao Thượng, bản dịch của nhà giáo Hà Mai Anh đoạt Giải Thưởng Văn Chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, cuốn sách nầy được xem như cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư của thế kỷ 20 và trở thành “kim chỉ nam” cho thế hệ thiếu niên trong nhiều thập niên.
Nay đăng lại bài viết nầy
VTrD
Vào đầu thế kỷ XVIII, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch thi phẩm Chinh Phụ Ngâm của danh sĩ Đặng Trần Côn đã lưu lại trong văn đàn Việt Nam áng thơ tuyệt tác. Thi phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn viết bằng Hán văn, vào niên hiệu Cảnh Hưng đời Lê Trung Hưng, năm 1741, gồm 483 câu, theo thể thơ cổ nhạc phủ trường đoản cú, câu dài đến 13 chữ, câu ngắn có 3 chữ. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã chuyển dịch sang quốc âm, thể thơ song thất lục bát, dài 412 câu (theo bản của Văn Bình Tôn Thất Lương, năm 1950, sách Giáo Khoa Tân Việt) được giảng dạy ở học đường. Qua bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, Đặng Tân Côn đưa cho danh sĩ Ngô Thời Sĩ xem và ông ta ngỏ lời thán phục: “Văn chương tới mức nầy thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi”.
Nhờ bản dịch bằng quốc âm của Đoàn Thị Điểm, tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn mới được lưu truyền và áng thơ Chinh Phụ Ngâm gắn liền với tên tuổi nhà thơ Đoàn Thị Điểm.
Vì vậy có những tác phẩm mà bản dịch lột tả, thể hiện tinh hoa của nguyên tác cũng được nổi danh và lưu truyền qua nhiều thạp niên; điển hình như tác phẩm của Edmondo De Amicis qua bản dịch của Hà Mai Anh.
Nhà giáo Hà Mai Anh (1905 - 1975), bút hiệu Mai Tuyết và Như Sơn, tác giả của nhiều sách giáo khoa và dịch giả nhiều cuốn sách phổ biến trong thập niên 50, 60 ở Sài Gòn.
Năm 1954 cụ di cư vào Nam làm hiệu trưởng trường tiểu học Trần Quý Cáp ở góc đường Trần Quý Cáp và Pasteur, Sài Gòn (nay là trường Trần Quốc Thảo) rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu Thư và Học Liệu thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Việt Nam Cộng Hòa.
Nhà giáo Hà Mai Anh được trao tặng Giáo Dục Bội Tinh VNCH, Giải Nhất Giải Dịch Thuật Pháp Văn của Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa năm 1970. Cụ đã dịch những danh phẩm hầu như chúng ta đều biết: Vô Gia Đình (Sans Famille của Hector Malot), Trong Gia Đình (En Famille của Hecotr Malot), Về Với Gia Đình (Romain Kalbris của Hector Malot), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (La Tour du Monde en Quartre-vingt Jours của Jules Verne), Guy-Li-Ve Du Ký (Gulliver's Travels của J. Swiff), Em Bé Bơ Vơ (Charles Dickens), Chuyện Trẻ Em (Contes de Perrault của Charles Perraul), Thuyền Trưởng 15 Tuổi (Un Capitaine de 15 Ans của Jules Verne)... Hầu hết các tác phẩm chọn dịch đều có nội dung trong sáng, hướng thượng để học hỏi.
Tác phẩm Cuore của nhà văn Ý Edmondo De Amicis (1846-1908) được nhà văn Pháp O. Pazzi chuyển sang Pháp ngữ Les Grand Coeurs và nhà giáo Hà Mai Anh dựa vào bản Pháp ngữ nầy dịch Tâm Hồn Cao Thượng.
Tác giả Edmondo De Amicis viết về tác phẩm cho trẻ thơ, câu chuyện dẫn dắt từ Ngày Khai Trường tại thành Torino, thành phố ở Tây Bắc nước Ý, vào thứ Hai ngày 17 tháng Mười đến Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi vào thứ Bảy, ngày 1 tháng Bảy. Tác phẩm tuy mỏng, gồm 60 “tiểu mục” ngắn từ (1 Ngày Khai Trường) “Hôm nay tôi đi học…” đến (60 Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi) với dòng kết “Mẹ tôi tin rằng hình ảnh trường cũ sẽ in vào ký ức của con cho đến lúc tàn hơi thở cuối cùng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng của nhà cũ kỹ mà ở đó mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con - Mẹ con”. (Thuở còn cắp sách đi học, chị Sáu tôi cho quyển sách nầy, tôi chưa cảm nhận được nhưng khi về già sống ở hải ngoại cảm thấy tuyệt vời ở trong lòng con người mất nơi chôn rau cắt rốn!).
Nhà giáo Hà Mai Anh, vị thầy khả kính trong ba thập niên 50, 60 và 70 dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng được nhà giáo Hà Mai Anh chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, khi đọc cảm tưởng như những lời tâm tình của cậu bé học lớp Ba với bậc sinh thành, với thầy cô...
Hình ảnh vị thầy qua bài ký của Lưu An viết từ Thụy Sĩ, thể hiện sự trong sáng, cao quý của nhà giáo đã tận tâm đem cả tấm lòng của mình dạy dỗ học trò:
“... Nếu kể cả vị thầy giáo già cả nghèo khổ đầu tiên của đời tôi tại một ngôi nhà tồi tàn trong một xó xỉnh nào đó của thành phố Hà Nội. Người thầy đã dậy tôi đọc và viết vần ABC trong hai tháng ngắn ngủi trước ngày tôi di cư vào Nam năm 1954, khi đó tôi đã 8 tuổi! Thì thầy Hà Mai Anh là vị thầy giáo thứ tư của đời tôi, thầy đã dậy tôi năm lớp Nhì tiểu học, khi tôi 12 tuổi.
Sau khi vào Nam, việc học của tôi lại bị gián đoạn khoảng hơn một năm. Vì bố mẹ và anh em chúng tôi cùng với ông nội tôi phải theo gia đình chủ nhân ông đi lên Đà Lạt làm rẫy, lập trang trại. Những sự giúp đỡ, cứu trợ của các cơ quan từ thiện và chính phủ cho người di cư, đã được chủ nhân khéo léo nuốt trọn. Mãi đến năm 1955, khi sự tham nhũng, lường đảo tiền cứu trợ của người di cư bị khám phá, chủ nhân ông thất thế. Gia đình tôi mới trở về Sài Gòn, hòa nhập với đời sống bình thường của những người nghèo khổ trong xã hội.
Lúc di chuyển về Sài Gòn, vì thấy tuổi tôi đã lớn, ba tôi đã xin ngang cho tôi vào lớp Tư trường Tiểu Học Chí Hòa. Nhờ đó tôi đã có một may mắn đầu tiên trong đời, năm 1967 khi lên lớp Nhì, lớp của thầy Hà Mai Anh. Vị thầy kính yêu và cũng là vị thầy đã ảnh hưởng rất nhiều đến bản chất, hướng đi suốt cuộc đời tôi. Có lẽ đến nay, ở cái tuổi xế chiều, khi mà những ước muốn đã được coi là ảo vọng, dang dở, muộn màng. Khi mà sự nồng nàn, hăng say của tuổi thanh niên đã chớm màu buồn bã. Tôi tự cảm thấy lương tâm mình không bị ray rứt, xấu hổ với những tháng năm học hành và làm việc của mình. Phần lớn nhờ vào những bài học Đạo Đức, cũng như lời khuyên nhủ mà tôi đã thấm nhuần từ vị thầy kính yêu này.
Với thầy, tôi biết được ý nghĩa của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Lá cờ biểu tượng cho những ước mơ được phục vụ suốt đời và được chết cho nó như một người ái quốc. Tôi cũng đã lịm người đứng nghiêm trang kính cẩn, hát vang những câu hào hùng của bản Quốc Ca mỗi buổi sáng chào cờ ở sân trường trước khi vào lớp học...
... Rồi với những bài học Lịch Sử, thầy dẫn tôi vào những cảm giác ngất ngây, đầy hào khí bằng với những chiến công vĩ đại của các vị anh hùng của quê hương. Lý Thường Kiệt phạt Tống, bình Chiêm. Trần Hưng Đạo sau Hội Nghị Diên Hồng là bản Hịch Tướng Sĩ oai hùng sát đuổi quân Nguyên. Rồi Nguyễn Trãi, khóc tiễn cha bên ải Nam Quan, gạt nước mắt trở về với Lê Lợi. Sau 10 năm nếm mật nằm gai, ông lưu truyền lại muôn thu bản Bình Ngô Đại Cáo. Cuối thế kỷ 18, đúng mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, cùng với năm Cách Mạng dân quyền tại Pháp vua Quang Trung với chiếc áo ngự bào thấm đen thuốc súng đánh đuổi quân Thanh như lũ chuột đồng. Tất cả những âm thanh oai hùng của Tổ quốc ngàn năm đó đã được thầy êm ả đưa vào tâm tư non nớt của hơn 50 đứa học trò lớp Nhì hơn 40 năm về trước, chẳng bao giờ tôi quên!
... Rồi những bài Đức Dục, Cách Trí, Vệ Sinh, và cả trong giờ Toán với giọng nói ấm cúng hiền hòa. Thầy gọi trò bằng con và xưng thầy (lúc đó ở miền Nam, thầy giáo gọi trò bằng em!) đã làm cho tình thầy trò gần gũi, thân tình hơn. Hình dáng thầy cao và hơi ốm, mái tóc muối tiêu, rẽ ngôi ở giữa trán (có lẽ lúc đó thầy khoảng trên 50 tuổi ?), da rất trắng, nét mặt hiền hòa thân ái. Trang phục của thầy đơn sơ, luôn luôn dưới chiếc áo sơ mi dài tay mầu trắng bỏ trong gọn ghẽ, có chiếc cà vạt lủng lẳng trước ngực. Hình ảnh người thầy nghiêm trang đã làm cho hơn 50 đứa học trò chúng tôi kính nể, nghe lời chỉ dạy.
Với vị thầy yêu kính này, ký ức tôi vẫn còn ghi đậm khá nhiều kỷ niệm, mà có lẽ trọn đời tôi chẳng bao giờ quên. Đến nay đã hơn 40 năm rời xa sự dạy dỗ của thầy, tôi có cảm tưởng thầy vẫn còn là một biểu tượng trong ký ức, làm khuôn mẫu cho tôi suy nghĩ và học hỏi. Để dành riêng cho vị thầy muôn thuở, một nhà giáo dục gương mẫu đó. Tôi xin đề cập đến vài chi tiết như là sự tôn vinh một người đã trọn đời tận tụy đóng góp cho nền giáo dục của đất nước.
Thỉnh thoảng trong những giờ dậy học liên quan đến lịch sử địa lý, thầy thường nhắc nhở học trò về đất nước Việt Nam lấy sự phát triển nông nghiệp làm căn bản. Thầy khuyên chúng tôi nên hướng sự học mình vào kỹ thuật và nhất là về nông nghiệp. Với hướng đó, sự đóng góp vào quốc gia tích cực và thực tiễn nhất. Tôi không biết lời khuyên đó của thầy có ảnh hưởng nhiều đến các bạn bè khác của lớp không. Nhưng với tôi nó đã đi vào trí nhớ của tôi, chi phối sự ước mơ và nghề nghiệp sau này của tôi một cách quá sâu đậm...
... Khi tôi học với thầy, hình như tác phong trong sáng của thầy đã là chiếc chìa khóa đầu tiên mở cửa tâm hồn tôi. Cho vào đó những lời chỉ dạy như là dòng chữ đầu tiên trong sáng! Tôi ôm ấp những ước mơ từ đó, tôi đã hướng tất cả đam mê của đời mình vào ngành nông nghiệp. Trong mấy chục năm làm việc ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc. Tôi cố dành tất cả sự thông cảm và giúp đỡ cho những thành phần lao động, đói khổ dưới quyền mình.
Tôi biết rất kỹ giá trị của sự nhọc nhằn, của những giọt mồ hôi. Tôi chưa một lần nào có những câu nói tỏ vẻ khinh rẻ đối với những người ít học, thua kém tôi. Rất có thể sự thông hiểu đó cũng được đến với con người tôi, vì tôi tìm thấy trong sự cực nhọc, nghèo túng của người khác là hình ảnh của bố mẹ và cũng chính cá nhân tôi.
Tôi còn nhớ rất rõ, trong một giờ Đức Dục và buổi sáng. Thầy dạy chúng tôi về bài học thương người tàn tật, nghèo khổ, và già lão. Thầy đọc cho chúng tôi nghe một truyện về lòng nhân đạo (không biết lúc ấy thầy đã dịch cuốn Tâm Hồn Cao Thượng và cuốn Vô Gia Đình chưa?) Rồi thầy kể chuyện vua Lý Thánh Tông (1054-1072) lấy áo ngự bào đắp cho một người ăn mày trên đường đi tuần vào một ngày mùa đông lạnh giá. Cả lớp hơn 50 đứa học trò im lặng nghe thầy kể chuyện trong sự say mê và cảm động bởi lòng từ ái của vị minh quân trong thời thịnh trị!...
...
... Tôi được biết sau năm 1975, thầy Hà Mai Anh và đại gia đình con cháu của thầy đã may mắn được đi định cư ở Mỹ. Nhưng một tin đã làm tôi buồn đau khi người bạn cho biết, thầy đã mất hơn 20 năm về trước vì tuổi già. Tôi hy vọng bài ký sự này được các anh chị, các cháu chắt, thân nhân của thầy đọc được. Coi nó như một nén hương lòng của đứa học trò kính gửi đến hương hồn của thầy.
Với những làn khói tỏa mùi thơm của tình thầy trò, với tâm tư cảm động của những bài học xưa đã hun đúc tôi nên người có chút khả năng và lý tưởng (dù nó chưa làm gì tạm gọi là hợp với ước mơ của mình.) Tôi xin gửi đến thầy Hà Mai Anh, người thầy mà tôi muôn đời kính nhớ và biết ơn.”
(Lưu An, Thụy Sĩ)
Qua những dòng của Lưu An viết về nhà giáo Hà Mai Anh nói lên cái đạo thầy trò dù thời gian và không gian có đổi thay nhưng đạo nghĩa Đông Phương như ánh mặt trời soi sáng trong tâm tư, tình cảm con người.
Ngày trước, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mang tâm trạng của người chinh phụ khi chồng là Nguyễn Kiều đi sứ sang Trung Hoa, vì giặc giã, giao thông cách trơ, ngày đêm mong chờ nên đem tâm tư, tình cảm của bà để dệt thành áng văn bất hủ. Sau hai thế kỷ, nhà giáo Hà Mai Anh cảm nhận được sự cao quý trong tâm hồn nên chọn tác phẩm Les Grandes Coeurs của nhà văn Ý Edmondo De Amicis để gởi gắm niềm ước mong của mình cho tâm hồn trẻ thơ làm hành trang vào đời.
Vương Trùng Dương
No comments:
Post a Comment