Năm 2015 đánh dấu 40 năm biến cố 30/4/1975. Từ ngày đó, hai miền đất nước sống dưới gông cùm Cộng sản, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đất nước đang dần dần bị Hán hóa. Vì thế, chuyển đổi chế độ từ độc tài cộng sản sang dân chủ tự do là khát vọng nóng bỏng của toàn dân. Ước mơ này sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra, vì đó là xu thế phát triển tất yếu của xã hội…
Cái nhìn lạc quan về Đất nước trong năm 2015 (Phần I)
Lê Quế Lâm
Năm
2015 đánh dấu 40 năm biến cố 30/4/1975. Từ ngày đó, hai miền đất nước
sống dưới gông cùm Cộng sản, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đất nước đang
dần dần bị Hán hóa. Vì thế, chuyển đổi chế độ từ độc tài cộng sản sang
dân chủ tự do là khát vọng nóng bỏng của toàn dân. Ước mơ này sớm muộn
gì cũng sẽ xảy ra, vì đó là xu thế phát triển tất yếu của xã hội…Nhưng
đồng bào đã mòn mõi trông chờ quá lâu rồi, nên có vẻ bi quan. Tôi tin
tưởng năm 2015, thời điểm đã chín muồi để ước mơ trở thành sự thật. Tôi
xin được chia sẻ cái nhìn lạc quan về Đất nước với bằng hữu và bạn đọc,
coi như lời Chúc Mừng Năm Mới Lạc quan và Hy vọng. Đất nước chuyển mình,
Hoa Tự Do nổ rộ trên quê hương thân yêu.
Chế
độ Cộng sản ở Liên Sô có thời rất hùng mạnh, đã góp phần với Đồng Minh
đánh bại Đức Ý trong Thế chiến II, sau đó đối đầu với Hoa Kỳ trong suốt
cuộc chiến tranh lạnh (1947-1990)…Nhưng chỉ kéo dài 74 năm từ Cách mạng
tháng Mười 1917 đến cuối năm 1991 thì tự động cáo chung, cùng sự tan rã
của khối Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Vào thời điểm này, cựu bí thư Cộng
sản Thành ủy Moscow và là Tổng thống nước Cộng hòa Nga -Boris Yelsin đã
tuyên bố với thế giới: “Chủ nghĩa CS là một thảm kịch cho dân tộc
chúng tôi. Kinh nghiệm lịch sử cho phép chúng tôi kết luận một cách quả
quyết rằng mô thức xã hội chủ nghĩa đã thất bại. Tôi tin rằng đây không
chỉ là một bài học đối với riêng chúng tôi mà còn cho các dân tộc khác
nữa”.
Trước khi sụp đổ, năm 1987 báo Pravda -cơ quan ngôn luận của Đảng CSLS đã nói thẳng “70 năm Cộng sản cầm quyền ở Liên Sô là thời kỳ chuyên chính phá hoại”.
Đó là tiền đề để Tổng bí thư Mikhail Gorbachev kêu gọi 5 ngàn đại biểu
tham dự Đại hội Đặc biệt toàn Đảng Cộng sản Liên Sô từ 28 đến 30/6/1988,
hãy ủng hộ chính sách cải cách của ông. Sau khi nắm quyền lãnh đạo tối
cao từ năm 1985, Gorbachev đề ra chủ trương perestroika (tái cơ cấu)
nhằm thay đổi thể chế chính trị và kinh tế một cách triệt để; đồng thời
kết hợp với chính sách glassnot (cởi mở) nhằm dân chủ hóa chế độ. Ông
cho rằng hệ thống Sô Viết sẽ sụp đổ nếu họ không kịp thời nhận thức bài
học của lịch sử và nhìn nhận những sai lầm trầm trọng của các lãnh tụ
đảng đã theo đuổi trong mấy chục năm qua.
Gorbachev nhấn mạnh trong phiên họp cuối cùng của Đại hội Đảng Đặc biệt, lần đầu tiên được triệu tập kể từ năm 1941: “sự sống còn của chủ nghĩa xã hội đang nằm trong tay của đảng. Nó sẽ chết nếu chúng ta không trao quyền cho nhân dân”.
Một năm rưởi sau, ngày 7/2/1990 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng CSLS chấp
nhận đề nghị của Gorbachev biểu quyết từ bỏ quyền độc tôn chính trị,
chấp nhận chế độ đa đảng. Hai tháng sau, Quốc hội LS xóa bỏ điều 6 trong
Hiến pháp: Đảng CS không còn độc quyền lãnh đạo đất nước. Chế độ tổng
thống được thành lập. Ngày 15/3/1990 Gorbachev được bầu làm tổng thống
LS. Năm sau Yelsin đắc cử tổng thống Cộng hòa Nga (12/6/1991)
Kế
hoạch cải cách của Gorbachev bị một số Ủy viên Bộ chính trị cực đoan
bảo thủ chống đối. Ngày 19/8/1991, họ tổ chức đảo chính, quản thúc
Gorbachev và ra lịnh quân đội, công an, mật vụ KGB bao vây trụ sở Quốc
hội Nga nhằm triệt hạ Boris Yelsin và các phần tử cấp tiến…Nhưng quân
đội và lực lượng công an mật vụ bảo vệ nền chuyên chính vô sản không
tuân lịnh thượng cấp, không nổ súng để trấn áp người dân đang kéo nhau
đến bảo vệ Tòa nhà Quốc hội. Cuộc đảo chính bất thành, ngay sau đó
Gorbachev đặt Đảng CSLS ra ngoài vòng pháp luật, giải tán Ban chấp hành
Trung ương và từ chức Tổng bí thư Đảng.
Để biện minh cho hành động mà ông cho là “khó khăn nhưng trung thực này”, Gorbachev nêu lý do là “có
nhiều cán bộ lãnh đạo Đảng lại là những kẻ chủ chốt trong âm mưu đảo
chánh. Ban bí thư, Bộ chính trị và Ban chấp hành TƯ Đảng thì hèn nhát,
không lên tiếng chống lại cuộc đảo chánh, cũng không bày tỏ lập trường
cứng rắn chống lại tập đoàn chủ mưu và không huy động đảng viên tham gia
phản kháng hành động vi phạm hiến pháp. Còn các ủy ban và cơ quan
truyền thông của Đảng lại ủng hộ các hành động phản quốc”.
*
Đảng
CSVN nếu tính từ năm 1945 khi Nhật đầu hàng Đồng minh, ông Hồ Chí Minh
cùng 5 ngàn đảng viên CSVN thực hiện cuộc Cách mạng tháng Tám, cướp được
chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim. Từ ngày đó, lá cờ đỏ sao
vàng đã hiện diện ở VN đến nay vừa tròn 70 năm. Đảng CSVN tổ chức bộ máy
nhà nước và xây dựng xã hội chủ nghĩa theo đúng mô hình của Liên Sô.
Vào
những năm cuối của thập niên 1980, chủ nghĩa CS đã thoái trào,
Gorbachev lo cải tổ để cứu Đảng CSLS, ông tuyên bố tại Helsinki ngày
25/10/1989: “Chủ thuyết Brezhnev đã cáo chung” (LS không còn giữ các nước Đông Âu trong quỹ đạo của LS như chủ trưong của Brezhnev) và “bất cứ quốc gia nào cũng có quyền quyết định vận mạng riêng của họ”.
Các nước Đông Âu lần lượt từ bỏ chủ nghĩa xã hội, tổ chức các cuộc bầu
cử dân chủ tự do, xây dựng chế độ đa đảng. VN cũng nằm trong hệ thống
XHCN, đáng lẽ VN cũng phải theo gương các nước Đông Âu từ bỏ xã hội chủ
nghĩa, chuyển đổi thể chế từ độc tài cộng sản sang dân chủ tự do khi chủ
nghĩa CS đã tàn rụi…Nhưng giới lãnh đạo CSVN đã trở cờ, quay về thần
phục TQ ở Thành Đô.
Đặng
Tiểu Bình từng lên án CSVN là phường vong bội nghĩa khi Hà Nội theo LS
chống TQ, nay lại quay về với TQ nên ngay bước đầu Bắc Kinh đã tỏ rõ
thái độ khinh miệt. Họ mời giới lãnh đạo cao cấp CSVN từ Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch nước Lê Đức Anh, Thủ tưóng Đỗ Mười và Cố vấn
Bộ chính trị Phạm Văn Đồng phải rời Hà Nội đến họp với họ vào những ngày
lễ trọng đại của CSVN: ngày Quốc khánh 2/9 và kỷ niệm ngày chết của HCM
3/9. Địa điểm họp không phải là thủ đô Bắc Kinh, mà là thành phố Thành
Đô của tỉnh Tứ Xuyên. Sau đó, TQ công bố cho thế giới biết CSVN đã thỏa
thuận toàn bộ 8 điểm của TQ để chấm dứt cuộc chiến ở Campuchia. Điều đó
cho thấy CSVN đã bị TQ khuất phục.Thỏa hiệp Thành Đô như nhận xét của
Nguyễn Cơ Thạch, lúc bấy giờ là Ủy viên Bộ chính trị, Phó thủ tướng kiêm
Bộ trưởng Ngoại giao: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự”.
Vào thời điểm này, quyển sách tiếng Pháp tựa đề Un Excommunié - Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectual (Kẻ
bị khai trừ - Hànội 1954-1991: Bản án một người trí thức) của Giáo sư
Nguyễn Mạnh Tường được Quê Mẹ xuất bản ở Paris năm 1992. Trong trang
chót của tác phẩm, người trí thức bị CS khai trừ NMT đã chất vấn Đảng
CSVN: “Nhân dân có thể đặt một số câu
hỏi với Đảng: Trong khi phong trào dân chủ và tự do dâng lên như sóng
cồn, tại sao các ông ngoan cố không chịu nhìn nhận sự thực, và bám víu
một cách tuyệt vọng vào một tín điều đã lỗi thời không thể sửa chữa
được? Giữa chủ nghĩa của các ông và quyền lợi của nhân dân, các ông
thiêng về bên nào? Những bông hoa các ông nhập cảng và cắm vào trong
bình, đã héo tàn. Các ông ngoan cố sùng bái cái xác ướp không thể sống
lại ấy cho đến bao giờ? Và nhất là các ông hãy cho nhân dân biết những
lý do thực sự các ông thù ghét chế độ đa đảng? …Dư
luận nhận xét rằng các ông đã đi bước đầu trên con đường đổi mới. Như
vậy các ông bắt đầu thú nhận các sai lầm. Nhưng các ông và cả nhân dân
nữa, có thể nào bằng lòng với những biện pháp nửa chừng không, khi mà
các biện pháp ấy chỉ có thể chữa trị một vài lãnh vực đã được nêu rõ,
nhưng bệnh tật đã lan ra khắp toàn thân thể của quốc gia và các cấu trúc
của quốc gia? Các ông thích tự hào về những hy sinh to lớn, kể cả mạng
sống, để cống hiến cho Đảng. Các ông không đủ anh hùng tính để hy
sinh Đảng của các ông cho tổ quốc và nhân dân hay sao? Nước Việt Nam và
lịch sử Việt Nam đang chờ đợi câu trả lời của các ông”. (hết trích dẫn)
Từ
đó đến nay, đã tròn một phần tư thế kỷ (1990-2015), đồng bào vẫn còn
chờ đợi câu trả lời của Đảng CSVN. Trong mấy năm gần đây, nội tình Đảng
CSVN cũng có những mâu thuẫn tương tự như Đảng CS Liên Sô trước khi cáo
chung. Ở VN có sự xung đột giữa một bên là Đảng với Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng và những phần tử cực đoan bảo thủ. Một bên là Chính phủ với
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có khuynh hướng cải cách với chủ trương thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân để thay đổi thể chế chính trị.
Ông
Dũng được Đảng bố trí làm thủ tướng từ năm 2006 đến nay. Ông xuất thân
từ MTGPMN, là Việt Cộng miền Nam nhưng ông chứng tỏ có tinh thần cộng
sản còn hơn cộng sản chính gốc ở miền Bắc và Trung. Để xây dựng xã hội
chủ nghĩa, ông thúc đẩy sự lớn mạnh các cơ sở quốc doanh bằng cách thành
lập nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động đa ngành,
đa lĩnh vực. Việc phát triển doanh nghiệp nhà nước theo qui mô lớn của
NTD đã làm vừa lòng Đỗ Mười, Lê Đức Anh và nhóm lãnh tụ bảo thủ. Đây là
cơ hội giúp TT Nguyễn Tấn Dũng tạo được uy thế lớn trong đảng. Các cán
bộ cao cấp điều hành các cơ sở quốc doanh cũng như lãnh đạo ở địa phương
hưởng rất nhiều đặc quyền đặc lợi nhờ thực hiện các chính sách lớn của
Đảng do Nguyễn Tấn Dũng đề ra.
Trước
đây, ông Võ Văn Kiệt cố đả phá việc xây dựng XHCN, nhưng bất thành.
Trong sách Bên Thắng Cuộc, chương 19: Đại hội VIII, nhà báo Huy Đức có
đề cập đến việc này. Trong thời gian làm thủ tướng ông Kiệt đã lập nên 3
thành tích ngoại giao, đáp ứng với chủ trương đổi mới đất nước. Tháng
7/1995: HK giải tỏa cấm vận và bình thường hóa bang giao với VN; Hà Nội
gia nhập khối ASEAN và ký hiệp định hợp tác với Cộng đồng Châu Âu (EU).
Trong thư gởi Bộ chính trị tháng 8/1995, ông Kiệt cảnh báo là “thảm họa
cho đất nước” nếu Đại hội Đảng VIII “rụt rè bỏ lỡ hội xây dựng dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Ông nhấn mạnh “nếu không
đáp ứng được đòi hỏi phát triển đất nước, Đảng sẽ đứng trước nguy cơ bị
tước quyền lãnh đạo”. Trong dịp chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VIII năm
sau (1996), nhiều uỷ viên TƯ Đảng lão thành đề nghị Bộ chính trị để ông
Kiệt làm Tổng bí thư “nhằm tiếp tục giữ và phát triển được cái đà của
nền kinh tế”. Ông Phan Văn Khải nhận xét “Nếu
ông Kiệt làm Tổng bí thư, Việt Nam sẽ đổi mới nhanh hơn. Tuy không được
đào tạo hệ thống, nhưng ông Kiệt luôn nhất quán ủng hộ cái mới. Ông
chán đến tận cổ mô hình xã hội chủ nghĩa miền Bắc và ông làm tất cả để
phá bỏ nó”.
Kiến
nghị đưa ông Võ Văn Kiệt làm Tổng bí thư Đảng trong Đại hội VIII gặp sự
phản kháng quyết liệt của Cố vấn Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đỗ Mười,
Chủ tịch nước Lê Đức Anh…Một số thành viên trong Bộ chính trị chỉ trích
kịch liệt các quan điểm của ông Kiệt trong lá thư gởi Bộ Chính trị như:
không còn đấu tranh giai cấp; Mỹ không phải là đối tượng thù nghịch của
VN; cần hợp tác với thế giới, đến lúc cạnh tranh kinh tế chớ không phải
coi nhau như thù địch. Ông Kiệt còn đề nghị xóa bỏ các cơ cấu kinh tế
đoàn thể, kinh tế đảng, kinh tế của các lực lượng vũ trang. Trần Trọng
Tân -Trưởng ban Tư tưởng & Văn hóa TƯ chỉ trích “Sáu Dân (tức Võ Văn Kiệt) phát biểu nhiều cái ẩu, ví dụ như ông đề xuất dẹp Quốc doanh, tư nhân hóa nền kinh tế”. Thượng tướng Lê Khả Phiêu -Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội cho đó là “âm mưu phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang”. Các sĩ quan chính trị Quân đội coi chủ trương của ông Kiệt là “chệch hướng” và “khuynh hướng xã hội chủ nghĩa dân chủ đang hình thành trong Đảng”.
Để
chận đường ông Kiệt trở thành Tổng bí thư trong Đại hội VIII, Bộ chính
trị quyết định duy trì “ba đồng chí chủ chốt thêm một nhiệm kỳ nữa dù
tuổi đã cao”. Lúc đó Tổng bí thư Đỗ Mười 79 tuổi, Chủ tịch nước Lê Đức
Anh 76 và Thủ tướng Võ Văn Kiệt 73. Đến cuối năm 1977 trong Hội nghị TƯ 4
(khoá VIII) cả ba ông cũng vì cao tuổi, đều bị loại khỏi Bộ chính trị.
Trước đó ông Kiệt đã bị áp lực từ chức thủ tướng. Ông đã bị loại khỏi
chính trường đúng bài bản do Đảng sắp đặt. Lê Khả Phiêu được cử làm Tổng
bí thư Đảng. Tháng 2/1999, Phiêu đến Bắc Kinh, Tổng bí thư Giang Trạch
Dân đưa ra hai “phương châm” làm nền tảng cho mối quan hệ hai nước thể
hiện trong “16 chữ” và “4 tốt” (Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí
tốt, đối tác tốt). Phương châm 16 chữ được Phiêu đề cao là “16 chữ vàng”
(Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện).
Đây
là nổi bất hạnh lớn của dân tộc. Đảng CS giành quyền độc tôn lãnh đạo,
nhưng kiềm hãm sự phát triển của đất nước của xã hội. Họ sợ ông Võ Văn
Kiệt đưa đất nước hội nhập, giao tiếp với thế giới văn minh bên ngoài,
nên ông Đỗ Mười dù đã bước vào tuổi 80, vẫn được bố trí tiếp tục lãnh
đạo để lót đường đưa Thượng tướng Lê Khả Phiêu làm Tổng bí thư Đảng,
không phải do Đại hội Đảng mà do một Hội nghị của TƯ Đảng quyết định.
Thượng tướng Quân đội lên nắm quyền lãnh đạo tối cao, để Quân đội Nhân
dân bảo vệ Đảng. Và hậu quả như mọi người đã thấy trong giai đoạn Thượng
tướng Lê Khả Phiêu nắm quyền lãnh đạo tối cao, Đảng CSVN đã ký với TQ
hai hiệp ước lãnh thổ trên bộ và vịnh Bắc Việt hồi cuối năm 1999 và
2000. So với các hiệp ước mà thực dân Pháp ký với triều đình Mãn Thanh
năm 1887, thì VN đã mất một phần đất và biển vào tay TQ, điển hình là ãi
Nam Quan và Thác Bản Giốc. Có thể nói, đây là hai hiệp ước bán nước cho
TQ, để Đảng CSVN giữ tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với TQ. Đó là
thành tích QĐNDVN bảo vệ Đảng, bảo vệ đất nước! Giờ đây, QĐNDVN sẽ nghĩ
gì khi TBT Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài viết đăng trên báo
Quân đội Nhân dân ngày 18/12/2014: “Chỉ có Đảng CSVN là tổ chức duy
nhất lãnh đạo Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo quân đội không thể
phân chia cho bất kỳ một cá nhân nào, một lực lượng chính trị nào khác”.
Năm
1997, vì đả phá xã hội chủ nghĩa, ông Võ Văn Kiệt bị loại khỏi chính
trường sau 6 năm làm thủ tướng (1991-1997) Nay đệ tử của ông là Nguyễn
Tấn Dũng, cố công xây dựng XHCN, sử dụng các đảng viên CS cao cấp là
những người XHCN để xây dựng CNXH. Chính số người này đã góp phần phá
hoại việc xây dựng XHCN, vì hầu hết doanh nghiệp, công trình lớn của nhà
nước đều thất bại thì làm sao xây dựng được XHCN! Ông NTD đã “lấy độc
trị độc” và thành công trong việc đả phá XHCN, lại được đa số ủy viên
Ban chấp hành TƯ Đảng ủng hộ, giúp ông khỏi bị loại trong Hội nghị TƯ 6
khóa XI hồi giữa tháng 10/2012.
Trước
đó, trong tháng 7/2012, TBT Nguyễn Phú Trọng dùng chiêu bài “kiểm điểm,
phê và tự phê” trong nội bộ Bộ chính trị nhằm hạ bệ TT Nguyễn Tấn Dũng
vì các sai phạm nghiêm trọng trong việc điều hành các tập đoàn kinh tế
và tổng công ty nhà nước, nhưng bất thành. TT Dũng biện minh cơ chế của
Đảng là “Tập thể chỉ huy, cá nhân phụ trách”, các tập đoàn kinh tế và
tổng công ty nhà nước là những chủ trương lớn của Đảng và ông được Bộ
Chính trị giao phó việc thực hiện. Ông đã báo cáo định kỳ và xin chỉ thị
của Bộ CT. Đây là sai phạm chung của Bộ CT chớ không riêng cá nhân ông.
Cuối cùng Bộ CT và “đồng chí X” (ám chỉ TT Nguyễn Tấn Dũng) trình bày
sự viện trong một hội nghị của Ban Chấp hành TƯ Đảng và xin nhận một
hình thức kỷ luật. Đây là bài bản mà 15 năm trước Đảng đã dùng để loại
ông Võ Văn Kiệt khỏi chính trường.
Lần
này, Đảng CSVN lâm vào một tình huống khó xử. Chả lẽ BCH/TƯ Đảng áp
dụng kỷ luật và loại bỏ toàn thể Bộ CT hay sao? Bộ CT là đầu não của
Đảng đã phạm khuyết điểm, tất nhiên Đảng CSVN đã phạm khuyết điểm. Trong
tờ trình để BCH/TƯ Đảng kỷ luật “Đồng chí X” Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đã thuyết phục TBT Nguyễn Phú Trọng phải ghi khuyết điểm số một của
Dũng là đã để một bộ phận lớn cán bộ đảng viên tha hóa, biến chất. Đây
cũng không phải là khuyết điểm của riêng ông Dũng mà là khuyết điểm do
cái sai có hệ thống, từ cơ chế của Đảng. Như vậy BCH/TƯ hoặc Tổng bí thư
Đảng phải tuyên bố vai trò của Đảng phải chấm dứt. Thời điểm này chưa
chín muồi, nên chưa thể thực hiện được, BCH/TƯ Đảng đành phải miễn thi
hành kỷ luật đối với tập thể Bộ CT và “đồng chí X”.
BCH/TƯ
Đảng không hạ bệ được Dũng, nhóm cực đoan bảo thủ lại nhờ Quốc hội chất
vấn thủ tướng về những khuyết điểm của chính phủ. Trong phiên họp ngày
14/11/2012, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc đề nghị ông Dũng thể hiện
“văn hóa từ chức”. Nguyễn Tấn Dũng trả lời, suốt 51 năm theo Đảng, ông
không bao giờ xin xỏ hoặc khước từ những nhiệm vụ do Đảng giao phó, vì
thế ông không có quyền từ chức.
Trước
đây, nghe nói trong Bộ chính trị, nhóm chống NTD chỉ thiếu một phiếu là
đủ túc số quá bán để kỷ luật ông ta. Vì thế trong Hội nghị TƯ 7 khóa XI
(đầu tháng 5/2013) TBT Nguyễn Phú Trọng đề cử Nguyễn Bá Thanh -Trưởng
ban Nội chính TƯ và Vương Đình Huệ -Trưởng ban Kinh tế TƯ bổ sung vào Bộ
CT. Cả hai đều bị bác, TƯ Đảng chọn hai người khác là Phó Thủ tướng
Nguyễn Thiện Nhân và Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn thị Kim Ngân. Hai tân
ủy viên Bộ CT đều thuộc phe cánh của NTD, cho thấy thế lực Chính phủ đã
thắng Đảng. Với tư thế đó, ngày 31/5/2013 TT Nguyễn Tấn Dũng đăng đàn
như là diễn giã chính ở hội nghị An ninh châu Á tại Diễn đàn đối thoại
Shangri-La (Singapore).
Tại
diễn đàn này, TT Nguyễn Tấn Dũng cổ vũ việc hợp tác quốc tế, xây dựng
khu vực Á châu/Thái Bình Dương hoà bình, ổn định và phát triển, dựa vào
ASEAN và vai trò lớn của hai cường quốc. Đó là Trung Hoa đang trổi dậy
mạnh mẽ và Hoa Kỳ một cường quốc Thái Bình Dương. Ông Dũng tế nhị, không
nêu đích danh TQ là thủ phạm gây sự ở Biển Đông làm cho khu vực mất ổn
định, ông chỉ nói “Đâu đó đã có những
biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành
động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường
quyền”. Rõ ràng, TT Dũng muốn ám chỉ
TQ, nên ông coi trọng vai trò của Mỹ khi cường quốc này xoay trục về
châu Á để duy trì hòa bình và ổn định. Người viết có cảm tưởng bài phát
biểu của ông Dũng là chỉ dấu cho thấy CSVN đã có chuyển hướng chiến
lược. Từ hợp tác toàn diện với TQ có nguy cơ làm mất nước, chuyển sang
hợp tác với quốc tế để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Hồi tháng 11/2011, ông
Dũng đã gây ngạc nhiên lớn cho mọi người khi tuyên bố trước Quốc hội về
chủ quyền của VN trên hai dảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời đề xuất
đất nước cần có một bộ luật biểu tình.
Sau
chỉ dấu đổi mới trong đường lối đối ngoại, TT Nguyễn Tấn Dũng có bài
viết được coi là thông điệp đầu năm 2014, trong đó đề cập đến việc Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, mở
rộng dân chủ trực tiếp và hoàn thiện cơ cấu bầu cử quốc hội, xây dựng
nhà nước pháp quyền. Sau đó trong website của TT Nguyễn Tấn Dũng và Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang ngày 5/3/2014 xuất hiện bài viết tựa đề “Việt
Nam có cần một nguyên thủ như Putin? Khởi đầu bài viết là câu hỏi và câu
trả lời ngắn gọn: “Vì sao từ một
quốc gia nghèo đói, chỉ cần khoảng 30 năm, Nhận Bản, Hàn Quốc, Singapore
đã trở thành những quốc gia hưng thịnh hàng đầu thế giới, còn Việt Nam
thì không? Câu trả lời ở ngay trong cơ chế của chúng ta”. Bài viết trình bày như sau:
“Nhà nước được phân tán ra làm ba nơi: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó
là cơ chế rất tốt cho tất cả các quốc gia trong thời đại ngày nay nhưng
mô hình nhà nước ta và thể chế còn nhiều bất cập. Hiến pháp quy định:
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Vậy thì không có một con người cụ
thể nào lãnh đạo, không thể tự quyết và cuối cùng không có cá nhân nào
chịu trách nhiệm!
Những
người lãnh đạo có tài và có tâm muốn đóng góp cho đất nước thì không
thể tự quyết vì quyền lực thuộc về tập thể. Thật là tai hại cho đất nước
mà không ai chịu trách nhiệm. Khi người dân đã thực sự làm chủ đất nước
của mình. Khi ấy nhân dân sẽ chọn người lãnh đạo xuất sắc nhất của
mình. Các nhà lãnh đạo đưa ra các chiến lược, các chính sách để được dân
chúng chọn lựa một người lãnh đạo vừa có tài, vừa có đức và đặc biệt là
đủ quyền lực và tự chịu trách nhiệm để đưa đất nước đi lên” (hết trích)
Bài
viết trên cho thấy, thủ tướng và chủ tịch nước đã nhận thức sở dĩ đất
nước trì trệ là do cơ chế và mô hình cộng sản tạo ra. Vì thế cần phải
thay đổi thể chế, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tổ chức các cuộc
bầu cử viết dân chủ tự do để người dân trực tiếp chọn lựa người lãnh
đạo có tài đức, có quyền lực và chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự
hưng thịnh của đất nước. Nhân dân trực tiếp bầu một Quốc hội thảo ra
Hiến pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền với ba quyền phân lập minh bạch.
Như vậy, thể chế mới của đất nước phủ nhận vai trò độc tôn lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Có
thể nói thông điệp đầu năm 2014 của TT Nguyễn Tấn Dũng và bài viết nói
trên cho thấy những người lãnh đạo nhà nước và chính phủ đã có quyết tâm
thay đổi thể chế đất nước trong tương lai. Sự thay đổi này cộng với
đường lối đối ngoại mới là hai điều kiện thiết yếu để VN hội nhập với
thế giới sau thời gian dài chỉ biết hợp tác toàn diện với LS và sau đó
là TQ, mang lại biết bao thảm họa cho dân tộc. Nhân vật để xuất ý kiến
này hiện nay là người có nhiều quyền lực nhất, được Đảng và Quốc hội tín
nhiệm, vì thế có nhiều khả năng trở thành hiện thực.
Với sự tin tưởng đó, nhân kỷ niệm lần thứ 39 biến cố 30/4 (2014) tôi có viết loạt bài tựa đề “Từ buổi hoàng hôn của Đất nước đến buổi bình minh của Dân tộc”.
Một vài thân hữu nhận xét, đó là nhận định chủ quan đầy lạc quan, chớ
chưa thể khẳng định buổi bình minh của Dân tộc đã gần kề. Hiểm họa đất
nước bị Hán hóa đang hiện ra trước mắt. Quả thật, đó là ước tính lạc
quan của tôi về đất nước, của một người luôn theo dõi các bước thăng
trầm của dân tộc xảy ra trong cuộc đời của mình, có những sự kiện giúp
tôi vững tin ở tương lai tươi sáng của Dân tộc.
(Còn tiếp Phần II)
nguồn: email Khiem Tran
Vũ Thất
No comments:
Post a Comment