Bài đọc suy gẫm:
Tổng thống Obama trong bài diễn văn nhậm chức của ông có nhắc đến Khe
Sanh như một chiến tích của nước Mỹ. Khe Sanh không phải là trận đánh có
tính quyết định cuộc chiến Việt Nam như Điện Biên Phủ. Nhưng trận
Khe Sanh có thể được xem là cuộc đọ sức giữa hoả lực vô giới hạn của Hoa
Kỳ và sự bất chấp mức tổn thất sinh mạng bộ đội Bắc Việt của đảng cộng
sản Việt Nam. Xin mời độc giả xem một góc độ của trận Khe Sanh qua bài
“Under Siege – The Battle of Khe Sanh” của Đại Úy William Dabney do Trà Bồng viết lại. Bài được trích từ cuốn The U.S. Marines in Action của Villard Books New York phát hành năm 1986. .
Họa đồ trận chiến Khe Sanh của 2 bên. Phía cộng sản đặt tên “Chiến Dịch Đường 9″
Vị trí các ngọn đồi chiến lược chung quanh căn cứ Khe Sanh
Người bắn tỉa núp rất kỹ trên sườn đồi um tùm bên kia, khoảng 200 mét về
phía bắc nơi chúng tôi đóng quân, là đồi Nam 881 (881S). Anh ta đã nằm ở
vị trí thuận lợi đó suốt một tuần qua. Thỉnh thoảng anh ta mới bắn,
thường là khi trời nhiều mây và sườn núi không có sương mù bao phủ. Khi
anh ta bắn thì chúng tôi chỉ có từ chết tới bị thương. Chỉ cần khoảng 20
phát anh ta đã gây tử thương cho 2 binh sĩ thủy quân lục chiến (TQLC)
và làm bị thương năm sáu mạng.
Anh ta tỏ ra vô cùng kiên nhẫn, luôn luôn đợi lúc các pháo thủ phải
ra khỏi giao thông hào để bắn đại bác yểm trợ quân bạn, hoặc khiêng băng
ca ra các trực thăng tải thương. Lúc ấy chúng tôi là những mục tiêu rất
ngon lành của anh ta. Một đặc tính nữa của anh ta là rất thận trọng.
Một ngày quang đãng chúng tôi đã gọi phi cơ dội bom xăng xuống toàn bộ
khu vực anh ta đang núp. Nhưng hôm sau, khi trời có mây bao phủ anh ta
lại “cắc bùm”, và vẫn cực kỳ chính xác. Anh ta biết rõ khi có mây mù phi
cơ không dám oanh tạc một mục tiêu gần chúng tôi như vậy.
Nhưng rồi cũng có lúc anh sơ xuất. Toán quan sát vẫn luôn dí mắt vào
các ống viễn vọng kính cực mạnh hướng về phía anh ta, một hôm chợt thấy
một lùm cây lay động. Hôm đó lại là một buổi chiều đứng gió! Biết chắc
súng nhỏ không làm gì được vì anh ta núp trong hầm đào sâu vào núi, nên
phải dùng súng lớn. Chúng tôi bắn cầm chừng để xác định vị trí, và để
anh rút vào hầm, đồng thời cho khiêng khẩu đại bác không giật chống xe
tăng qua. Vì cả đồi chỉ có hai khẩu nên phải đặt ở vị trí mà xe tăng của
địch có thể tiến vào phía bên kia. Một quả đạn có sức công phá mạnh đã
biến căn hầm của anh thành một hố sâu trong đó có đất đá lẫn với xác của
anh ta.
Đồi đối diện khá xa, rừng lại rậm. Quân Bắc Việt di chuyển thoải mái
vào ban đêm và trong sương mù, mà chúng tôi thì lại không đủ quân để
kiểm soát bên đó. Cho nên chẳng bao lâu đã có một người bắn tỉa khác
thay thế. Trong suốt 10 ngày sau đó anh chàng thứ hai này đã gây cho
chúng tôi một tử thương và nhiều người khác bị thương. Nhưng rồi chúng
tôi cũng xác định được vị trí của anh ta. Thế là lại phải khiêng khẩu
không giật 106 ly qua, lại một quả đạn lọt vào hầm để biến nó thành mồ
chôn xác người bắn tỉa.
Chỉ hai ngày sau chuyện bắn tỉa lại tái diễn. Mấy tay pháo binh và
cứu thương là những người căng thẳng nhất. Chỉ cần xớ rớ vài giây đồng
hồ bên ngoài hầm trú ẩn là lại nghe tiếng cắc bùm khô khan của anh ta.
Tệ nhất là những chuyến bay tải thương. Khiêng băng ca đã nặng nhưng
nghe tiếng súng là phe ta phải quẳng các thương binh xuống để tìm chổ
núp. May thay mấy ngày sau chúng tôi cũng xác định được vị trí của anh
ta. Thế là phải vật vã vác khẩu 106 không giật qua phía bên này. Ðang
khi điều chỉnh để xác định mục tiêu thì một anh binh nhì nêu lên một
nhận xét không giống ai. Anh ta cho rằng suốt một tuần nay tay xạ thủ
mới này vẫn bắn đều như tay trước, nhưng chưa hề trúng một ai nên cứ để
yên cho hắn sống. Nếu chúng ta loại tay này quân Bắc Việt sẽ có ngay một
người khác vào thay, gặp tay bắn giỏi thì khốn cả lũ. Thật có lý! Thế
là khẩu 106 không giật được đưa về vị trí cũ.
Thỉnh thoảng có quân nhân còn phá phách bằng cách vẫy lá cờ đỏ khi
nghe tiếng cắc bùm của anh ta. Đó là hiệu kỳ khai hoả trong xạ trường.
Nhưng rồi chúng tôi nhận thấy hình như tay này cố ý bắn trật, chứ không
phải hắn bắn dở. Không chừng anh ta biết số phận của các tay xạ thủ
trước nên cố ý không gây thương vong cho chúng tôi. Ðàng nào thì cấp chỉ
huy của anh ta cũng không có cách nào kiểm chứng được kết quả.
Chẳng biết thực hư thế nào, nhưng đó là cách suy diễn của chúng tôi. Vì
thế, để hỗ trợ cho anh ta chúng tôi ngưng trêu chọc và có khi còn giả bộ
trúng đạn. Anh ta tiếp tục ở đó, vẫn bắn đều đặn và vẫn không gây
thương vong nào trong suốt thời gian hai tháng còn lại của cuộc vây hãm.
Nhóm TQLC Mỹ luôn quan sát những người bắn tỉa từ phía địch. Hình dưới: Đồi 881S
Đồi 881S là một trong nhiều ngọn đồi khá cao nhìn xuống căn cứ Khe
Sanh, là tiền đồn xa nhất nằm phía Tây Bắc của miền Nam Việt Nam. Khe
Sanh có một trung đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Mỹ trấn giữ, và đã bị
hai sư đoàn Bắc Việt bao vây vào đầu năm 1968. TQLC đóng ở Khe Sanh đã
điều nghiên rất kỹ trận Điện Biên Phủ, nơi quân Pháp đã bị lực lượng
Việt Minh tràn ngập vào năm 1954. Lỗi lầm quân sự nghiêm trọng nhất của
người Pháp là đã để cho Việt Minh có điều kiện mang quá nhiều trọng pháo
lên các ngọn đồi xung quanh. Chính hoả lực của trọng pháo đã phá tan hệ
thống phòng thủ của Pháp. Từ đó TQLC Hoa Kỳ rút ra bài học then chốt để
bảo vệ cứ điểm lòng chảo Khe Sanh là không cho quân Bắc Việt kiểm soát
các ngọn đồi quanh vùng.
Không phải đồi nào cũng là vị trí phòng thủ được, nhưng chúng tôi
chạm địch thường xuyên trong cố gắng chiếm giữ những cao điểm có tầm
nhìn bao quát. Các điểm này quan sát được cả đường chuyển quân về phía
Khe Sanh của Bắc Việt từ hậu cứ của họ ở phía tây nằm trên đất Lào.
Trong số các ngọn đồi này không cái nào quan trọng, cheo leo, hiểm trở
và trống trải hơn đồi 881S. Đồi có sườn rất dốc, cao khoảng 450 thước so
với khu thung lũng bao quanh. Đồi nằm cách căn cứ Khe Sanh khoảng 8 cây
số về phía Tây. Nơi này đã từng là một chiến trường đẫm máu cách đây
một năm, khi quân trú phòng Bắc Việt quyết định cố thủ. Vào giai đoạn đó
chuyện tử thủ đồi 881S của CSBV là một chuyện khó hiểu. Nhưng sau nhiều
đợt tấn công với tổn thất nặng nề lực lượng TQLC Hoa Kỳ đã chiếm được
nó. Những trận đánh bom và mưa pháo yểm trợ trong các đợt tấn công đã
đốt cháy rụi sườn đồi, chỉ để lại toàn hố bom xen kẻ với các hầm bê tông
bị phá nát. Các hầm này đã trở thành mồ chôn rất nhiều bộ đội Bắc Việt.
Đồi 881S nhìn được cả đường số 9, một quốc lộ cũ thời Pháp thuộc.
Đường 9 chạy ngoằn ngèo phía tây Khe Sanh qua biên giới Lào, lên tận
Tchepone. Theo cách ví von của các tay TQLC trẻ tại Khe Sanh thì đây
đích thị là “Indian Country” (tức là “vùng Việt Cộng”) vì hướng nào cũng
lúc nhúc địch quân.
Còn một con đường khác ở phía đông, chạy từ căn cứ Khe Sanh xuống hậu
cứ của TQLC ở dọc phía biển, gần khu Phi Quân Sự. Nhưng đường này chạy
lòng vòng suốt 24 cây số qua nhiều khe núi hẹp và một số cầu cheo leo
nên đã bị quân Bắc Việt cắt đứt từ mấy tháng trước. Đường tiếp tế duy
nhất cho căn cứ Khe Sanh và cứ điểm trên các đồi là đường không vận. Phi
trường Khe Sanh có phi đạo khá dài được lót bằng những tấm thép ghép
lại, nên có một thời gian vận tải cơ C-130 vẫn đáp thường xuyên để tiếp
tế thuốc men, thực phẩm và đạn dược. Nhưng sau đó các dàn cao xạ phòng
không của Bắc Việt tăng cường quá mạnh, máy bay không đáp được nên phải
thả dù để tiếp tế. Nước uống thì có thể lấy từ các con suối, và từ một
cái giếng trong căn cứ.
Các cứ điểm trên đồi xung quanh có diện tích quá nhỏ, chỉ có thể tiếp
tế bằng trực thăng. Trực thăng lại không chở được nhiều nên phải tiếp
tế thường xuyên. Riêng các đơn vị phòng thủ trên những đỉnh đồi thì
không lấy đâu ra nước để uống. Đưa một toán quân xuống các khe suối để
lấy nước thì chắc chắn là làm bia bắn tỉa cho quân Bắc Việt đóng đầy
xung quanh. Nếu toán lấy nước có người bị thương – một điều gần như chắc
chắn – thì phải gửi một toán khá mạnh từ trên đồi xuống tiếp cứu, lực
lượng phòng thủ trên đồi sẽ yếu đi một cách đáng kể. Mà nhiệm vụ duy
nhất của đơn vị là giữ đồi, cho nên chuyện xuống suối lấy nước là chuyện
không thể làm được.
Chúng tôi được hoả lực yểm trợ vô giới hạn của không quân và pháo
binh. Lợi điểm của TQLC là vị trí cố định trên đỉnh đồi, xung quanh là
khu oanh kích tự do. Vì thế chạm địch ngoài vòng rào, phía chân đồi là
một sai lầm về chiến thuật chỉ làm phức tạp thêm chuyện yểm trợ một cách
không cần thiết. Cách đơn giản nhất để thắng trong tình huống này là
nằm yên trên đồi. Không quân và pháo binh biết rõ toạ độ, nên chỉ cần
gọi pháo binh, B52 hoặc gần hơn thì súng cối 60 ly hoặc súng máy và lựu
đạn để tấn công bất cứ dấu hiệu động binh nào của địch.
Mỗi ngọn đồi có một đơn vị tương đương một đại đội trấn giữ. Tất cả
đều thuộc trung đoàn 26 TQLC có trách nhiệm toàn bộ căn cứ Khe Sanh. Đồi
881S là ngọn đồi xa nhất và khó tiếp viện nhất. Ở đó có toàn bộ đại đội
“India”, hai trung đội và bộ chỉ huy đại đội “Mike” của tiểu đoàn 3
trung đoàn 26 TQLC trấn đóng. Hoả lực gồm một phân đội với 2 súng cối 81
ly, 2 súng không giật 106 ly và một chi đội pháo binh có 3 đại bác 105
ly. Vào ngày 20 tháng Giêng năm 1968 tôi có tất cả 400 binh sĩ TQLC.
Tình báo đã tiên đoán từ trước là quân Bắc Việt có ý định tấn công
hoặc bao vây Khe Sanh. Vì thế hồi tháng 12 và đầu tháng Giêng tiểu đoàn
trú đóng tại căn cứ Khe Sanh đã được tăng viện thêm 3 tiểu đoàn khác,
với quân số mỗi tiểu đoàn là 1,000 người. Ngoài ra còn có một tiểu đoàn
300 quân nhân của quân lực VNCH. (Có lẽ đây chính là tiểu đoàn 37 Biệt
Động Quân của đại Úy Hoàng Phổ.) Nếu tính cả các đơn vị hậu cần và tiếp
liệu thì lực lượng trú phòng ở Khe Sanh và các đồi lân cận lên tới 6,000
người.
Phù hiệu các lực lượng tham chiến trận đánh Khe Sanh, Sư đoàn 3 TQLC, Sư Đoàn Không Kỵ, Không Yểm từ Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, và tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân Việt Nam.
Trái:
Cựu Trung Tá BĐQ Hoàng Phổ, và hình Đại Tướng Westmoreland gắn huy
chương US. Presidenttial Unit Citation vào cờ tiểu đoàn 37 BĐQ Việt Nam.
Dù không đụng trận nào đáng kể trước ngày 20 tháng Giêng (1968),
nhưng chúng tôi vẫn hành quân rất đều khu vực bao quanh đồi 881S. Vào
ngày 18 và 19 chúng tôi có vài cuộc chạm súng lẻ tẻ với Bắc quân ở phía
bắc đồi 881S, nơi mà trong các cuộc tuần tra trước đây chúng tôi không
gặp gì cả. Vì lo lắng việc quân Bắc Việt có thể đang tập trung lực lượng
về phía bắc đồi 881S nên tôi đã xin cấp trên cho mang đại đội India ra
thám sát, và nếu cần phá vỡ các vị trí bố phòng của địch.
Đại đội chúng tôi được trực thăng vận xuống trước vào tờ mờ sáng 20
tháng Giêng. Đang di chuyển một cách chậm chạp và thận trọng qua vùng
cây cối rậm rạp, chưa đi được quá 500 thước thì hai trung đội tiền sát
bị tấn công. Hoả lực địch rất mạnh chứng tỏ một lực lượng đáng kể đang
chờ chúng tôi. Trung đội của Trung uý Richard Fromme ở bên phải đã bị
kềm lại, vì nhiều thương vong nên phải chuẩn bị bãi đáp cho trực thăng
tải thương rồi mới tiến tới được. Chiếc trực thăng cứu thương vừa sà
xuống thì bị trúng đạn phải dạt qua một bên để đáp khẩn cấp xuống một
chổ trũng gần đó. Những binh sĩ TQLC trong trung đội dự phòng của Trung
úy Michael Thomas lúc đó đang bảo vệ bãi đáp, không cần đợi lệnh đã
phóng nhanh xuống khoảng 200 thước về hướng chiếc trực thăng. Cú đột
kích bất ngờ làm cho những cán binh CS đang nấp sau trảng tranh hoảng
hốt cắm đầu bỏ chạy mất dạng, không kịp bắn lấy một phát súng.
Cả phi hành đoàn đều bị thương, nhưng đã được kéo ra khỏi máy bay và
được TQLC đưa về vị trí phòng thủ. Tất cả những người bị thương sau đó
đã được một trực thăng khác bốc đi an toàn.
Trong khi cạnh sườn bên mặt đang chống đở vất vã như vậy thì trung
đội của Trung úy Thomas Brindley bên cánh trái còn tệ hơn. Họ bị kẹt
cứng giữa một vùng đất không có chổ nấp, chỉ cách gò chỉ huy của địch
chưa tới 200 thước. Đạn địch bắn tới tấp làm họ không cách chi ngóc đầu
lên được. Brindley là một sĩ quan rất lỳ. Biết rằng nằm đây chỉ có chết,
và không cách nào giữ được vị trí này nếu không có yểm trợ. Thế là
chàng kêu một loạt đại bác nhắm vào gò chỉ huy của địch. Lợi dụng đợt
trọng pháo Brindley đã sắp xếp lại đội hình, ngay sau quả đại bác cuối
cùng chàng đã xung phong chiếm được vùng cao điểm sau khi phải trả giá
rất đắt. Nhiều người tử thương, trong đó có Brindley, và rất nhiều người
bị thương. Lúc ấy đạn dược còn rất ít, và đơn vị chỉ còn một hạ sĩ chỉ
huy.
Địch lui về phía sau chuẩn tái chiếm cao điểm này, nhưng đã bị diệt
sạch nhờ một đợt bom xăng thả gần đến độ lông mày của nhiều quân bạn bị
cháy trụi. Tình hình vẫn còn rất bi đát nên tôi để Fromme ở lại lo bên
phía phải, tôi mang một trung đội qua giúp cánh trái bên kia đồi, đồng
thời di chuyển các thương binh về chổ chờ trực thăng tải thương.
Chưa qua tới bên kia tôi chợt nhận ra một nhóm thám sát tám người
thuộc trung đội Brandley đang bị hoả lực địch áp đảo phía dưới. Nhóm này
bị lạc đội hình vì mất phương hướng trong cuộc chạm súng. Thomas đã
tình nguyện tiếp cứu, nhưng chưa tiến được quá 20 thước anh đã bị trúng
đạn. Ngay tức thì Trung sĩ David Jessup nắm trung đội và tiếp tục mở
đường đưa nhóm thám sát và những người bị thương trở lại vị trí một cách
khá an toàn.
Vào lúc này tất cả vị trí địch đã được xác định. Đại đội India xin
trọng pháo và phi pháo yểm trợ với hoả lực tối đa để chống đỡ. Nhưng
trời cũng bắt đầu sụp tối, và bởi vì sứ mệnh chính của đơn vị là trấn
giữ đồi nên đại đội không thể rời xa đồi 881S để truy kích địch. Đại đội
India đã bắt tay lại được với đại đội Mike để cùng nhau rút về đồi 881S
an toàn dưới sự che chở của trận mưa trọng pháo vào các vị trí địch. So
với con số xuất quân lúc sáng chúng tôi đã sụt mất 50 người, vừa chết
vừa bị thương.
Ngay hôm sau, lúc 2 giờ sáng ngày 21 tháng Giêng quân Bắc Việt đã
đồng loạt tấn công vào các vị trí ngoại vi quanh căn cứ Khe Sanh. Dưới
các đợt tấn công biển người một cứ điểm nhỏ ở làng Khe Sanh, cách vòng
đai căn cứ khoảng vài trăm thước, phải di tản. Nhưng các điểm khác đã
đánh bật được mọi đợt xung phong. Nhờ pháo binh rót đều đặn vào các khu
chuẩn bị dàn trận của Bắc Việt, cũng như các đường tiến quân nên địch đã
không khai thác được thế thượng phong lúc khởi đầu. Đồi 881S dù là đồi ở
điểm trọng yếu nhất ngoài căn cứ nhưng không bị tấn công trong đợt này.
Có lẽ các cuộc chạm súng ngày hôm trước với các toán trinh sát quanh
đồi đã đánh tan tố bất ngờ và gây thiệt hại đáng kể khiến họ bỏ kế hoạch
tấn công 881S.
Trong suốt trận đánh từ nửa đêm 21 này các pháo thủ của hai bệ súng
cối đã bắn liên tục gần 700 quả ở tầm xa tối đa để ngăn không cho địch
chọc thủng vòng đai đồi 861. đồi này nằm về phía đông bắc của 881S. Nòng
súng cối nóng tới độ quả đạn chưa chạm kim hoả đã được kích hoạt phóng
ra sớm khiến đạn bay lệch đạn đạo quá xa. Phải dùng số nước uống rất hạn
chế trong đồn để làm nguội ống phóng trước khi xài tiếp. Nhưng rồi hết
nước uống, phải dùng tới nước trái cây. Nước trái cây cũng cạn. Cuối
cùng lính phải sắp hàng thay nhau dùng nước tiểu để làm nguội nòng súng
cối.
Trận đánh đầu tiên đã chấm dứt. Mọi đơn vị trên các ngọn đồi lo chỉnh
đốn hệ thống bố phòng để đón những trận tấn công liên tục có thể bắt
đầu bất kỳ lúc nào. Chúng tôi không phải chờ lâu. Hừng đông ngày 22 căn
cứ Khe Sanh bị hàng loạt mấy trăm quả đạn pháo và hoả tiển hạng nặng gây
thiệt hại dọc theo phi đạo chính và làm nổ tung kho đạn. Đại bác thì
gồm có 152 và 130 ly, chính xác một cách chết người, bắn tới từ bên kia
biên giới Lào, nằm về hướng tây và tây nam căn cứ Khe Sanh. Thêm vào đó
là hoả tiển 122 ly, loại bó thành khối của Nga, bắn đồng loạt, mỗi lần
khoảng 30 đến 50 trái từ nhiều hướng khác nhau. Dù là một căn cứ lớn,
nhưng loạt pháo kích chưa từng thấy này đã làm tê liệt nhiều phần căn cứ
Khe Sanh.
Riêng đồi 881S, vì đã mất yếu tố bất ngờ và biết chúng tôi sẳn sàng
đánh trả nên địch đổi chiến thuật. Quân Bắc Việt quyết định cắt đứt
đường tiếp liệu của đồi 881S để buộc chúng tôi phải triệt thoái. Cũng
may TQLC chúng tôi có một cơ cấu tổ chức độc nhất vô nhị gọi là
“Air-Ground Team”, nếu không thì không chừng quân Bắc Việt đã thành
công. (Air-Ground Task Force là một công thức hành động phối hợp giữa
TQLC trên không và TQLC trên bộ để hoàn tất một sứ mệnh đã định.)
Quân Bắc Việt bắt đầu đặt súng cối 120 ly phía tây 881S khoảng 5 cây
số. Súng được đặt gọn trong các đường hầm ngắn đào sâu vào vách núi với
góc độ cần thiết để tác xạ. Máy bay không thể nào phát hiện vị trí các ổ
súng này, và nếu có biết cũng không thể nào làm nó câm họng được, trừ
khi thả bom hay bắn trọng pháo lọt đúng ngay vào miệng hầm. Đồi 881S là
một mục tiêu cố định, vì thế địch chỉ cần điều chỉnh một hai ly chiều
thẳng đứng hay ngang là có thể bắn trúng bất cứ điểm nào trên đồi. Cả
tiếng “thụp” khô khan của súng cối cũng chìm mất vào trong lòng núi. Âm
thanh của súng cối khai hoả là tiếng kêu rất đục và ngắn, chỉ có những
lỗ tai thính lắm mới nghe được. Ấy là trong điều kiện không có gió,
không có tiếng bom hay trọng pháo, không có tiếng máy bay… tức là phải
yên lặng như tờ. Điều kiện này chẳng mấy khi có được ở Khe Sanh.
Lúc đầu chúng tôi chỉ cần một trực thăng tiếp tế. Phi công thường yêu
cầu chúng tôi phải sẳn sàng trong giao thông hào, đồng loạt bắn tưới
lên các hướng núi dày đặc cao xạ phòng không để chặn, trước khi anh ta
giảm cao độ để đáp. Nhưng kết quả thật thê thảm. Ngay khi phi công hướng
về một điểm đáp, tiền sát của quân Bắc Việt báo ngay vị trí này cho các
tay bắn súng cối. Các tay này chỉ tốn vài giây đồng hồ điều chỉnh là họ
có thể “đặt” quả đạn vào đúng vị trí họ muốn trên đồi 881S. Họ biết rất
chính xác các góc độ vì họ vẫn bắn như thực tập hàng ngày. Trong tiếng
ồn của máy bay trực thăng chúng tôi không thể nghe được tiếng súng cối
khai hoả, nhưng chúng tôi biết quả đạn chỉ cần 25 giây đồng hồ để bay
tới mục tiêu. Chuyện cất hàng xuống và đưa thương binh lên trong vòng 25
giây là chuyện không thể làm được.
Vào ngày 22 (tháng Giêng) hai loạt súng cối chụp xuống ngay bãi đáp
khi người bị thương sau cùng đang được đưa lên trực thăng tải thương.
Đúng 22 người, vừa chết vừa bị thương nội trong cú đó, kể cả phi hành
đoàn. Chiếc trực thăng hoàn toàn bị phá hủy cùng tất cả lính bị thương
trong đó.
Tới đầu tháng Hai súng cối và hoả lực phòng không liên tục đã làm hai
đại đội India và Mike thiệt hại tới 150 TQLC và 6 trực thăng. Nếu kể cả
các binh sĩ chết hay bị thương vì bắn tỉa thì mức thiệt hại của chúng
tôi là 50%, và không có dấu hiệu nào cho thấy tình hình bi đát này sẽ
chấm dứt.
Với tỷ lệ này thì chẳng bao lâu nữa sẽ không thể giữ được cứ điểm 881S.
Quân bổ sung thì thỉnh thoảng lại bị trúng đạn ngay khi chưa kịp rời
trực thăng. Lính tráng thì chỉ còn được phần tư bi đông nước uống mỗi
ngày. Với khí hậu tại đây thì lượng nước này không thể nào chấp nhận
được. Mỗi khi phá được ổ phòng không nào thì lập tức quân Bắc Việt thay
thế ngay, cũng nhanh như thay thế các tay bắn tỉa vậy.
Giải pháp cho tình hình này của chúng tôi là một giải pháp khác
thường nhưng có hiệu quả ngay tức thì, và lần nào cũng y như lần nấy. Có
lẽ ít quân đội nào trên thế giới có thể làm được. Kế hoạch tiếp vận
được tính toán và tập dượt rất kỹ lưỡng, thời gian phải chính xác tuyệt
đối để phối hợp lược lượng trên không với dưới đất. Chúng tôi thực hiện
chiến thuật “Super Gaggle” – đàn ngỗng siêu hạng – vào một ngày quang
đãng giữa tháng Hai.
Sau khi ra hiệu trước, các khẩu súng cối trên đồi 881S bắn hàng loạt đạn
khói trắng về hướng các vị trí súng phòng không mà chúng tôi đã xác
định được. Loạt đạn khói vừa chạm đất thì lập tức 4 phản lực cơ tấn công
A4 Skyhawk đâm xuống bắn phá các vị trí này theo các trái khói định vị
của chúng tôi. Mỗi chiếc Skyhawk đều mang dưới cánh nhiều hoả tiển chống
xe tăng hạng nặng (5inch). Tiếp theo ngay lập tức là 4 phi tuần Skyhawk
khác mang bom xăng (napalm) xuất hiện nối đuôi nhau tạo một bức tường
lửa quanh đồi. Mục đích loạt bom napalm này là tiêu diệt các tay súng
vẫn luôn luôn nằm ngữa dưới các hầm cạn quanh vòng đai để bắn vào bụng
trực thăng khi phi công sà xuống chuẩn bị đáp. Rồi tới 2 phi tuần
Skyhawk rãi hàng ngàn trái bom tí hon đều khắp cạnh sườn thung lũng.
Loại bom tí hon này được chỉnh giờ khác nhau để phát nổ lai rai và liên
tục trong nhiều phút. Sau đó đồi 881S bắn một loạt đạn trái khói khác về
hướng các vị trí phòng không. Nếu họ chưa bị không quân tiêu diệt thì
các cột khói phosphorus trắng này sẽ khiến họ không thấy được gì trên
bầu trời.
Súng từ các vị trí địch im tiếng, chỉ còn lác đác vài quả đạn cối rơi
lưa thưa. Chắc chắn quân Bắc Việt đang còn núp dưới các hầm cá nhân,
nếu họ còn sống, hoặc đã bị chôn vùi dưới vài thước đất đá.
Lẫn trong khói súng và bụi đất mịt mù có 10 chiếc trực thăng CH-46
của TQLC lù lù xuất hiện. Mỗi chiếc mang theo khoảng một tấn đồ tiếp
liệu và đạn dược. Khi các trực thăng CH-46 tới gần đồi 881S thì thêm 4
phi tuần Skyhawk xuất hiện. Mỗi bên 2 chiếc trải thêm một màng khói bên
hai cạnh sườn giữa đồi 881S và các vị trí cao xạ phòng không của địch.
Mục đích là tạo một giải không gian hẹp cho các trực thăng CH-46 đáp
xuống 881S giữa hai bức tường khói.
Phản lực cơ Douglas A4 Sky Hawk
Trực thăng cứ theo đội hình năm chiếc lần lượt đáp xuống, bỏ hàng,
nối đuôi nhau cất cánh ngay vào giữa hai đám khói. Trong đội hình thứ
hai có một chiếc chở các quân nhân bổ sung đồng thời mang người bị
thương cũng như tử thương về hậu cứ. Vị trí đáp của chiếc này luôn luôn
thay đổi, nhờ đó đạn súng cối của địch không bao giờ rơi trúng một chiếc
trực thăng tải quân nào khác.
Toàn bộ cuộc phối hợp tác chiến và tiếp viện có tên gọi là Super
Gaggle này kéo dài không đầy 5 phút, và từ khi màn khói chắn được trải
ra cho tới lúc chiếc trực thăng cuối cất cánh không bao giờ quá 30 giây
đồng hồ. Hoả lực phòng không của quân Bắc Việt vẫn quét ngang dọc qua
đỉnh đồi, nhưng chỉ là bắn bừa với số lượng ít hơn nhiều cho nên không
hiệu quả gì. Đạn súng cối vẫn tiếp tục rơi đều cả giờ sau khi tất cả các
phi cơ đã rời trận địa, nhưng không làm gì được chúng tôi vì tất cả đã
chui xuống hầm. Khoảng một chục tấn hàng tiếp liệu nằm rãi rác khắp nơi.
Lực lượng bổ sung đã an vị dưới các giao thông hào, những người lính
TQLC bị thương đã rời xa khỏi căn cứ. Thường thì chúng tôi không chịu
thiệt hại nào về nhân sự trong các chuyến tiếp quân này.
Chiến thuật này được điều khiển từ chiếc phản lực TA-4 hai ghế do
chính ông phi đoàn trưởng phi đoàn A4 lái, ghế sau là phi đoàn trưởng
trực thăng lo việc liên lạc vô tuyến thường xuyên xuống đất với tôi. Tất
cả đều là dân TQLC đã từng huấn luyện với nhau, cùng diễn hành, cùng
tiệc tùng với nhau nhiều năm trời. Nhờ vậy chúng tôi mới có thể thực
hiện một chiến thuật phức tạp đến từng giây từng khắc một cách hoàn hảo.
Màn đêm vừa phủ xuống là lúc chúng tôi bò ra gom đồ tiếp liệu, vì lúc đó
quân Bắc Việt không thấy được các hoạt động của chúng tôi. Kiện hàng
nào cũng đầy mảnh đạn súng cối. Sau khi phân phối xong chúng tôi phải
vào vị trí ứng chiến. Từ sụp tối đến nửa đêm chúng tôi thay nhau, phân
nửa thức phân nửa ngủ. Từ nửa đêm tới sáng chúng tôi ứng chiến 100%.
Lý do rất đơn giản là ban ngày địch không động binh vì sợ chúng tôi
phát hiện, nên phải chờ đến tối. Từ chạng vạng tối mà leo từ chân núi
lên, nếu leo giỏi thì sớm lắm cũng phải nửa đêm địch mới tới được vòng
đai của chúng tôi. Bọn TQLC chúng tôi vẫn leo hoài nên biết rất rõ. Lúc
ấy chúng tôi đã sẵn sàng rồi.
Đồi 881S không bị tấn công lần nào. Thỉnh thoảng địch có vài hoạt
động thăm dò bên ngoài vòng đai. Đây là cơ hội để binh sĩ TQLC chứng
minh rằng chúng tôi ném lựu đạn xuống dễ hơn quân Bắc Việt ném lên, và
nhất là lựu đạn chúng tôi ném không bao giờ lăn ngược trở lại phía chúng
tôi! Để tiết kiệm nước và tránh thương vong chúng tôi làm việc chủ yếu
vào ban đêm, ban ngày chỉ tập trung vào việc quan sát. Thương vong tuy
vẫn có, nhưng so với trước khi thực hiện chiến thuật Super Gaggle thì
nhẹ hơn nhiều vì binh sĩ luôn ở dưới hầm.
Trong khi hoả lực của quân Bắc Việt giảm đi thì của chúng tôi lại
tăng lên. Thời tiết tốt hơn nên ngày nào cũng có phi cơ yểm trợ. Các địa
điểm đặt hoả tiễn của địch bị bắn phá thường xuyên. Một chuyện nhỏ nói
lên lòng kiên nhẫn và sự tinh mắt của một binh sĩ trẻ, đó là Hạ sĩ
Molikau Niuatoa, người Mỹ Samoan. Anh ta dùng viễn kính 20x của hải quân
đã tình cờ thấy được ánh chớp của đại bác địch khai hoả ở tít chân
trời, cách chúng tôi khoảng 15 cây số. Anh ta là người vẫn quan sát ngày
này qua tuần nọ, dựa vào tiếng khai hoả của trọng pháo bắn vòng qua đầu
chúng tôi hướng tới căn cứ Khe Sanh. Hạ sĩ nhất Robert Arrotta, người
hướng dẫn phi cơ oanh kích đã gọi ngay một phi cơ quan sát tới vùng đó,
nhưng không ai có thể thấy được chiếc phi cơ ở xa như vậy để hướng dẫn
đến mục tiêu.
Vì sự quan trọng của mấy khẩu đại bác này nên dù chưa xác định được
mục tiêu phi công quan sát đã nôn nóng gọi mấy oanh tạc cơ đến. Lượn
vòng mãi vẫn chưa có toạ độ, phi cơ quan sát bắn một trái khói trắng để
làm chuẩn, nhưng ở đồi 881S không nhìn thấy được cột khói xa như vậy.
Rồi tới các oanh tạc cơ sắp phải quay trở về nếu không sẽ bị cạn nhiên
liệu. Sốt ruột, phi cơ quan sát đề nghị thả một quả bom 150 ký xuống một
mỏm đá để làm dấu, và các quan sát viên ở đồi 881S đã thấy được điểm
này. Sau vài lần điều chỉnh viên phi công quan sát cho biết đã xác định
được vị trí. Kết quả là 5 khẩu 130 ly do Nga chế tạo bị phá hủy. Loại
đại bác này có tầm đạn gần 30 cây số và rất chính xác nên đã gây cho
chúng tôi không biết bao nhiêu là tổn thất.
Vào tháng Ba thì vòng vây quanh Khe Sanh đã nới lỏng. Đại Úy đại đội
trưởng Harry Jenkins của đại đội Mike và tôi có thể chơi trò “nhạc
trưởng”, dùng máy vô tuyến truyền tin làm gậy điều khiển một dàn đại hoà
tấu của bom đạn. Chúng tôi có hoả lực gần như vô giới hạn của trọng
pháo và phi pháo, gọi là có ngay để tấn công vào bất cứ cái gì nhúc
nhích, bất cứ tiếng động lạ nào, bất cứ mùi nào khả nghi, hay bất cứ
điểm nào chúng tôi chỉ linh cảm là có quân Bắc Việt. Âm thanh của giàn
nhạc này kéo dài liên tục. Vùng cao nguyên xanh tươi trước đây ba tháng
giờ trông chẳng khác nào mặt trăng cháy nám, đầy những hố bom nối liền
nhau nằm lẫn với các gốc cây chỏng trơ.
Cuộc vây hãm không chấm dứt một cách đột ngột. Quân Bắc Việt như từ
từ tan biến đi, chỉ để lại vài chốt tử thủ kháng cự một cách vô vọng cho
lực lượng tăng viện làm cỏ. Cuộc tấn công toàn diện vào căn cứ Khe Sanh
không bao giờ được thực hiện. Một chuyện diễn ra, hình như vào ngày 1
tháng 4, khi quân tiếp viện đã tới, rất có thể là lý do tại sao cuộc tấn
công đã không diễn ra.
Giữa thanh thiên bạch nhật chợt có hai bộ đội Bắc Việt trần truồng
chạy về hướng vòng đai của chúng tôi, chân chạy tay vẫy tờ truyền đơn
xin gọi là “giấy thông hành” ra đầu thú. Một người bị đồng đội anh ta từ
phía sau bắn hạ ngay, người kia ngã xuống ngoài vòng rào. Chúng tôi bắn
yểm trợ cho một binh sĩ TQLC bò ra kéo anh ta vào. Anh ta là một người
to con, cao gần thước tám, vạm vỡ, trông rất khoẻ mạnh. Chúng tôi bắt
đầu hỏi cung anh ta, nhưng bị gián đoạn vì một phản lực cơ của TQLC bay
ngang. Anh ta hoàn toàn biến thái, mất tự chủ mọi thứ, từ con mắt tới cơ
bắp và dĩ nhiên cả chuyện tiểu và đại tiện. Anh ta run lẩy bẩy và té
xụm ngay trong giao thông hào. Một tiếng vỗ tay mạnh sau lưng anh ta
cũng gây nên trạng thái kinh hoàng y như vậy.
Trạng thái tâm lý của người hồi chánh đã bị bại liệt hoàn toàn vì anh
ta và đồng đội đã bị hoả lực kinh hồn của chúng tôi vùi dập trong suốt
77 ngày. Những lúc tỉnh táo anh cho biết nhiều đồng đội của anh cũng bị
khủng hoảng như vậy. Thế thì họ không đánh lớn vào Khe Sanh được là phải
rồi.
Đại đội India trở về vùng duyên hải với quân số vỏn vẹn có 19 người, so
với lúc đến đóng quân ở đồi 881S là 200. Đại đội Mike làm ăn khá hơn đôi
chút. Khi dừng chân qua đêm ở một hậu cứ khá an toàn tại Quảng Trị đại
đội India mất thêm 6 trong số 19 người còn lại vì một hoả tiễn rớt ngay
lều trú quân của họ. Công cuộc phòng thủ cứ điểm Khe Sanh kể như thành
công, nhưng với tổn thất rất cao. (Trà Bồng viết lại)
Đại Úy WILLIAM DABNEY
Blog 16 chuyển
|
No comments:
Post a Comment