Wednesday, May 21, 2025

ARM Cuauhtémoc – Gẫy Buồm trên Mỹ Quốc


Một con tầu buồm tuyệt đẹp – niềm tự hào của Hải quân Mexico – đã gãy cột buồm giữa lòng New York.
ARM Cuauhtémoc, con tàu huấn luyện bốn cột buồm lừng danh, mất máy khi đang tiến vào vịnh. Thuỷ triều cuốn nó trôi, cho đến khi các cột buồm cao ngất đâm thẳng va cham vào thành cầu Brooklyn khiến nhiều thuỷ thủ, phần lớn là sinh viên sĩ quan hải quân – lần đầu đặt chân đến Mỹ – bị treo lơ lửng trên cao, hoặc rơi xuống biển. Một cảnh tượng khiến cả những người từng đi biển phải lặng người.
Họ – phần lớn là những chàng trai say mộng hải hồ đến từ vùng thôn dã Mexico – không giấu được sự ngỡ ngàng khi lần đầu đặt chân vào thành phố phồn hoa nhất nước Mỹ. Nhìn họ, người ta dễ liên tưởng đến những thủy thủ Việt Nam năm xưa, lần đầu lãnh tàu từ Norfolk, thuộc Đại Tây Dương ghé New York, vượt kênh đào Panama và xuyên Thái Bình Dương về nước hơn nửa thế kỷ trước.
Nhiều người Mỹ vội chỉ trích thủy thủ đoàn. Nhưng hãy thử tưởng tượng: bạn điều khiển một con tàu nặng, máy hỏng, không thể sử dụng buồm– giữa một hải cảng chật kín tàu, cầu, và luồng nước mạnh. Một chiếc tàu buồm giữa thời hiện đại là một thử thách, không phải một khuyết điểm.
Liên tưởng đến một chiếc tàu buồm khác, viên thuyền trưởng sơ sót tắt máy giăng buồm quá sớm trong vịnh, con tàu dạt theo chiều gió chỉ còn cách chân cầu có 5 mét. Khiến ông ta phải khởi động máy trở lại và điều khiển con tàu tránh khỏi va chạm.
Đáng lý ra, khi một chiến hạm của hải quân nước bạn vào thăm viếng, phía Mỹ – đơn cử là Ty Quân cảng của một đơn vị Hải quân Hoa Kỳ gần đó– phải điều sẵn vài tàu dòng, phòng khi tầu bị hư máy, và lực lượng Tuần duyên (Coast Guard) phải cử trực thăng theo sát.
Tai nạn không ai mong muốn. Khi khủng hoảng xảy ra, con người được nhìn rõ nhất qua cách họ hành xử: giúp đỡ hay ngoảnh mặt, đứng thẳng hay gục ngã. Năm 2005, khi bão Katrina tàn phá miền Nam nước Mỹ, chính Hải quân Mexico – lực lượng từ quốc gia láng giềng từng đối đầu lịch sử – đã đến New Orleans để cứu trợ. Họ không bị bắt buộc phải đến. Họ đến vì lòng nhân đạo. Vì tinh thần không để ai bị bỏ lại trong cơn hoạn nạn.

Không ai gọi họ là “đội quân ngoài cuộc”. Không ai nghi ngờ thiện chí ấy. Và cũng không ai xóa đi ý nghĩa nhân văn sâu sắc của hành động đó chỉ vì chính trị.
Thế nhưng, những người lính Việt Nam Cộng Hòa – cũng từng là đồng minh sát cánh với Hoa Kỳ suốt gần hai thập kỷ trong chiến tranh Việt Nam – lại không nhận được sự công bằng đó.
Họ đã chiến đấu. Điều này không thể chối cãi. Họ chiến đấu trong điều kiện khó khăn hơn bất kỳ lực lượng nào: tiếp tế bấp bênh, nội gián hoành hành, và sau lưng là sự thiếu ổn định chính trị. Họ không chiến đấu cho một lý tưởng hoàn hảo, mà cho một mảnh đất, cho người thân, cho niềm tin rằng đất nước có thể không rơi vào tay chế độ độc tài. Họ không hoàn hảo. Nhưng họ không hèn nhát.


Vào giây phút cuối cùng của cuộc chiến, khi thế cờ đã định, họ không được rút quân có trật tự như quân đội Hoa Kỳ. Không được đưa lên máy bay trong kế hoạch có tổ chức. Họ bị bỏ lại. Và trong lúc tháo chạy tuyệt vọng để cứu mạng gia đình, đồng đội, thậm chí cả người dân vô tội, họ bị gọi là “đu càng”. Báo chí phương Tây mô tả hình ảnh đó như một nỗi nhục. Việt Cộng thì dùng nó như công cụ tuyên truyền: “Ngụy quân”, “ba que”, “đu càng”—những từ ngữ sỉ nhục, không phải để phản ánh sự thật, mà để vùi dập danh dự của cả một thế hệ.


Nhưng danh dự không thể bị nghiền nát bằng những lời lẽ hằn học. Cột buồm có thể gãy. Chiến tranh có thể kết thúc với bên thắng, bên thua. Nhưng tinh thần hàng hải – biểu tượng cho lòng dũng cảm, kỷ luật và tình người giữa phong ba – không bao giờ gãy. Danh dự không nằm ở kết quả, mà nằm ở cách con người đối mặt với nghịch cảnh.
Chúng ta có thể tranh luận về chính trị, chiến lược, hay lỗi lầm trong một cuộc chiến. Nhưng đổ hết mọi tội lỗi lên những người lính đã không còn khả năng tự bảo vệ mình – những người đã cầm súng vì họ tin vào một tương lai tốt đẹp hơn – là bất công. Là phản bội lịch sử.
Ngày hôm nay, khi nhìn lại, chúng ta có thể không đồng tình với tất cả những gì họ làm. Nhưng điều tối thiểu mà chúng ta nợ họ, là sự công bằng trong ký ức. Không phải mọi người lính Việt Nam Cộng Hòa đều là anh hùng. Nhưng họ không phải là kẻ hèn. Không phải là “ngụy”.
Sự thật cần được trả lại. Danh dự cần được phục hồi. Và tinh thần không khuất phục trước nghịch cảnh – thứ đã giúp một đội tàu Mexico vượt đại dương để cứu người Mỹ, hay một người lính miền Nam ôm con bơi ra biển giữa làn đạn – vẫn là thứ đáng trân trọng, bất kể quốc kỳ họ mang trên vai.(TCH&Chatbot)














No comments: