Có
một điều họ đều đồng ý. Một con số kỷ lục người Mỹ -75 phần trăm- bây
giờ tin rằng chiến tranh Iraq là một sai lầm. Không ai biết điều đó rõ
hơn Obama.
Nay thế giới
mới biết cái giá phải trả khi Mỹ không can hệ
Một
buổi chiều thứ bảy tháng 7 năm 2012, ngoại trưởng Mỹ lúc đó Hillary
Clinton mời giám đốc CIA David Petraeus đến nhà bà ở Washington. Vị
tướng bốn sao đã dẫn đầu quân đội Mỹ thời của Tổng thống George W. Bush
tại Iraq và thời Tổng thống Barack Obama tại Afghanistan. Clinton hỏi
ông đã có thể thẩm định, huấn luyện và trang bị cho nhóm đối lập ôn hòa ở
Syria, nơi quân của Tổng thống Bashar al-Assad đã bắt đầu giết hàng
ngàn thường dân.
“Ông ấy đã suy nghĩ cẩn thận về việc này, và ngay cả đã bắt đầu phác thảo
những chi tiết cụ thể và chuẩn bị để đề nghị
một kế hoạch,” Clinton nhắc lại trong cuốn hồi ký mới “Những chọn
lựa khó khăn”
của bà. Tháng Tám sau đó, bà Clinton đã bay tới Thổ Nhĩ Kỳ, nước bên
cạnh Syria, để thảo luận về kế hoạch tạo một vùng cấm bay trên Syria và
hỗ trợ cho phe đối lập. Clinton và Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ đã gọi điện
đến bộ trưởng ngoại giao của Anh, Pháp và Đức để xây dựng một liên minh
quốc tế. Bà trở về Washington “khá tự tin” rằng các đồng minh đã cùng
đứng về một phía.
Nhưng
khi Petraeus trình bày kế hoạch lên Tổng thống, Obama ngần ngại. Ông
vừa kết thúc cuộc chiến Iraq và không muốn sa vào một cuộc
xung đột
mới. Ông đã hứa với người Mỹ đang mệt mỏi vì chiến tranh là ông sẽ làm
“nhiều hơn việc xây dựng quốc gia ở Mỹ”. Ngoài ra, vũ khí có thể rơi vào
tay kẻ xấu. Saudi Arabia đã trang bị cho quân nổi dậy, ông không nghĩ
rằng có thêm vũ khí của Mỹ sẽ là thay đổi quyết định khiến Assad từ bỏ
quyền lực. Clinton lập luận rằng Hoa Kỳ có thể huấn luyện cho quân đối
lập, và mục tiêu là để làm Assad suy yếu đủ để khiến ông ta phải ngồi
vào bàn đàm phán với phe đối lập.
Tuy
nhiên, Obama vẫn nói không. Clinton quay sang
giúp gởi
thực phẩm và thuốc men cho nạn nhân ở Syria, gởi và điện thoại di động
cho nhóm đối lập để hoạt động chống Assad. Nhưng, bà viết, “tất cả chỉ là những bước tạm bợ.”
Clinton
không phải là tiếng nói duy nhất mà Obama bác bỏ khi ông tìm cách giữ
Mỹ không can thiệp vào Syria. Tháng hai năm ngoái, khi số người chết đã
quá 130.000 người và Assad chống lại các cuộc đàm
phán hòa bình của Liên Hiệp Quốc do Mỹ dẫn đầu, đại sứ Mỹ Robert Ford,
đã trở nên quá thất vọng với nguyên tắc không dính tay của Tổng thống Mỹ
khiến ông đã từ chức. Mới đây đại sứ Ford nói với đài PBS, “Khi tôi không còn có thể bảo vệ chính sách trước công luận, đó là lúc để tôi rút lui.”
Ba
năm sau khi bắt đầu, cuộc khủng hoảng Syria nay đã lan sang Iraq.
Một phần phía bắc Syria đã bị một nhánh của al-Qaeda, được gọi là Nhà
nước Hồi giáo Iraq và Levant (ISIS), chiếm đóng, và trong tuần này, đã
tuyên bố đã thành lập một nhà nước thần quyền. Washington đã giật mình
khi vì cơn ác mộng khi thấy ISIS đã chiếm đóng thành phố này sang thành
phố khác ở một khu vực rộng lớn phía bắc và phía tây của Iraq, phần lớn
của người Suni, và cướp bóc ở các ngân hàng và nhà máy lọc dầu. Quân đội
Iraq, được Mỹ huấn luyện và vũ trang, trong một số trường hợp đã buông
vũ khí bỏ chạy. Hành quyết bằng cách chặt đầu của ISIS đã phân chia rõ
rệt giữa người Sunni, Kurd và chính phủ do người Shia lãnh đạo ở
Baghdad.
Không
sẵn lòng hỗ trợ quân đối lập ôn hòa của Syria có thể không phải sai lầm
duy nhất của Obama. Quyết định của Obama không muốn để một lực lượng
nhỏ vài ngàn quân Mỹ ở Iraq, theo lời cố vấn của những tướng lĩnh và các
thành viên nội các của ông, đang hiện rõ dưới ánh đèn sân khấu. Trong
khi đó, viến kiến khiêm tốn của Tổng thống Obama về sức mạnh của Mỹ đang
bị thách đố, không những cuộc chiến phe phái tại Iraq đang tệ hơn, mà
sự bành trướng của Tổng thống Nga Vladimir Putin đang làm mất ổn định ở
châu Âu.
Vị
Tổng thống có mục đích rút hết quân Mỹ ở nước ngoài đột ngột phải trả
giá cho bài học không liên kết. Tổng thống Mỹ ở giữa nhiệm kỳ thứ hai
thường dùng những chính sách đối ngoại để quần chúng quên đi những bế
tắc trong nước. Nhưng Obama có thể đang phải đối phó với những thách
thức lớn nhất về chính sách đối ngoại trong nhiệm kỳ tổng thống của ông.
Và, khi một siêu cường lùi bước, thế giới có thể sẽ kinh hoàng khi thấy
người bước vào để lấp vào chỗ trống là ai.
Tiềm
năng của mối đe dọa ISIS đặt ra cho Mỹ quả là lạnh xương sống. ISIS rất
tinh vi và được giới tài phiệt yểm trợ, trong các hoạt động trộm cắp,
bắt cóc và tống tiền. ISIS tịch thu xe tăng và thiết bị nặng dành cho
quân đội Iraq để chống lại quân nổi dậy giống như ISIS. Các quan chức Mỹ
ước tính rằng ISIS hiện có khoảng 10.000 người, trong đó có 3.000 đến
5.000 từ các quốc gia bên ngoài Iraq. Một số trong số họ có sổ thông
hành châu Âu hay passport Mỹ cho phép họ vào Mỹ mà không cần chiếu khán.
Với
một tổ chức khủng bố tàn bạo đang kiểm soát một khu vực có diện tích
của một số quốc gia, gồm cả các trạm canh ở biên giới Iraq, Syria và
Jordan, giới phê bình đổ lỗi cho sự bỏ trống Syria và Iraq của Obama làm
mất sự ổn định đã đạt được bằng mười năm quân Mỹ có mặt trong khu vực,
và mất gần 4.500 mạng người Mỹ, với hơn 1,7 nghìn tỷ đô la tiền thuế của
dân chúng.
Giới
phê bình chỉ ra một số
quyết định quan trọng của Tổng thống Obama nhằm
tránh xung đột có thể đã giúp gây ra các cuộc khủng hoảng hiện tại:
quyết định không để quân ở Iraq sau năm 2011; quyết định không vũ trang
cho quân đối lập ở Syria trong những ngày đầu của cuộc xung đột; và
tuyên bố của ông “lằn ranh đỏ” nếu Assad sử dụng vũ khí hóa học và sau
đó không bắt Assad nhận hậu quả, khi Assad đã dùng vũ khí hóa học, bằng
sự can thiệp quân sự của Mỹ.
Họ nói rằng Tổng thống Obama đã lầm khi cho rằng mối đe dọa có thể được khống chế, hơn là phải đối đầu: “Chúng
tôi thấy điều
này xảy ra, và thật là điều rất bực bội. Chúng tôi nhìn họ tập hợp ở
miền đông Syria một cách mà chúng ta chưa bao giờ thấy trước đây, hàng
ngàn và hàng ngàn quân có liên hệ với al-Qaeda,” dân biểu Cộng hòa
Chủ tịch ủy ban tình báo Hạ viện, Mike Rogers, nói với CBS tuần trước.
Đối với các phần tử cực đoan có sổ thông hành của phương Tây: “Đó là sự nguy hiểm tột cùng.”
Tất
nhiên, cuộc xâm lược của Tổng thống Bush vào Iraq đã mở màn cho các vụ
bạo loạn sắc tộc ở
nước này. Hillary Clinton đã bỏ phiếu
thuận cho chính sách đó. Và nhiều tiếng nói hiện nay đang kêu gọi Mỹ
phải có vai trò mạnh hơn trong khu vực cũng đã ủng hộ cuộc chiến đó.
Ứng
xử dè dặt của Obama ở khu vực phần lớn là một phản ứng đối
với sự nhiệt thành của Bush. Nhưng cuộc tranh luận ở Washington hiện
nay là liệu Obama có quá thụ động khi Bush thì lại quá hung hăng không.
Ngày 28 tháng 5, trong một bài phát biểu tại học viện quân sự West Point
ở New York, Tổng thống Obama đã đưa ra viễn kiến của ông về vai trò
khiêm tốn hơn của Mỹ trên thế giới. Obama nói với các sĩ quan tốt nghiệp
rằng ông sẽ phản bội nhiệm vụ của mình nếu “gửi
các anh vào nơi nguy hiểm chỉ đơn giản vì tôi thấy một vấn đề ở đâu đó
trên thế giới mà cần phải được chỉnh sửa, hoặc vì tôi đã quan tâm đến
giới phê bình, những người
nghĩ rằng can
thiệp quân sự là cách duy nhất để nước Mỹ để tránh không bị xem là suy
yếu.”
Obama cho biết ông bảo lưu quyền đơn phương sử dụng vũ lực khi “lợi
ích cốt lõi của chúng ta khi đòi hỏi điều đó, khi nhân dân Mỹ đang bị
đe dọa, khi đời sống của chúng ta đang bị đe dọa, khi an ninh của các
đồng minh của chúng ta đang gặp nguy hiểm.” Trong hoàn cảnh khác, ông
nói, Mỹ sẽ hành động bằng ngả ngoại giao, phát triển và hợp tác với các đồng minh. “Hành
động quân sự không thể là phương pháp duy nhất hay phương pháp chính
yếu của chúng ta trong mọi trường hợp. Chúng ta có cái búa tốt nhất
không có nghĩa là tất cả mọi vấn đề đều là những cái đinh,” ông nói.
Một
số nhà phê bình thấy cách ứng xử của Obama là một ngã rẽ đáng báo động
so với vai trò truyền thống của Mỹ sau chiến tranh là nước bảo đảm cho
một trật tự thế giới ổn định. Họ sợ rằng sự rút lui của Mỹ sẽ để lại một
khoảng trống quyền lực mà những tổ chức như ISIS sẽ nhảy vào. Có người
cho rằng nó đã làm những người lãnh đạo như Vladimir Putin của Nga gan
lì hơn, vì đã thấy Obama vẽ “lằn ranh đỏ” về việc sử dụng vũ khí
hóa học của Assad, nhưng sau đó đã không có hành động quân sự để ngăn
chặn nó. Hơn nữa, khi Nga xâm chiếm bán đảo Crimea và ủng hộ quân nổi
dậy ở miền đông Ukraine, phản ứng của Mỹ cũng yếu hơn nhiều so với những
gì nhiều người đã hy vọng, và điều này đã gây lo ngại cho các đồng minh
của Mỹ trong khu vực. Một tờ báo Ba Lan vừa công bố một bản ghi âm, bị
lọt ra ngoài, của bộ trưởng ngoại giao của nước này mô tả liên minh với
Mỹ là “vô giá trị” và có hại, vì nó dẫn đến một “cảm giác an toàn không có thật.”
Cuộc
khủng hoảng Iraq cũng là một thách đố đối với chính sách chống khủng bố
của Obama. Nếu Bush xâm chiếm Afghanistan để nhổ tận gốc Taliban, nước
đã cho al-Qaeda nơi trú ẩn thì Obama cho biết ông sẽ không đuổi theo
các nhóm khủng bố khác. “Một chiến lược mà phải xâm lược tất cả các nước nuôi dưỡng mạng lưới khủng bố là ngây thơ và không bền vững,” Obama
nói tại West Point. (Tất nhiên, Mỹ đã xây dựng những nỗ lực chống khủng
bố kể từ năm 2001, gồm có cả tình báo và một chương trình máy bay không
người lái gây chết
người, vì thế có nhiều lựa chọn hơn.) Tại cuộc họp báo tháng này, Obama
nhấn mạnh ông sẽ không chơi trò“đập con chồn” bằng cách chạy
đuổi theo từng nhóm như ISIS. Thay vào đó, ông sẽ “liên minh” đối tác
với các quốc gia mà quân khủng bố đang tìm chỗ đứng.
Giới
phê bình cho rằng thất bại của Obama – không đạt được thỏa thuận để lại
một lực lượng quân sự Mỹ tại Iraq 2011 vừa qua – làm cho nước này dễ bị
xâm lược (vì ISIS). Giới lãnh đạo quân sự đã khuyên Obama để lại khoảng
20.000 quân ở Iraq. Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates, muốn có từ
10.000
đến 15.000 quân ở lại trong
một giai đoạn chuyển tiếp 3-5 năm. Obama cuối cùng để lại Iraq một lực
lượng nhỏ, 3000 quân, nhưng không đạt được thỏa thuận với các nhà lãnh
đạo Iraq rằng cho binh sĩ Mỹ quyền bất khả xâm phạm. Obama đã rút tất cả
lính Mỹ về vào cuối năm 2011. Trong cuộc tái tranh cử, Obama tuyên bố
những đã thành công kết thúc cuộc chiến tranh Iraq, nay ông cho rằng vì
thủ tướng Iraq, Nouri al-Maliki, mà quân đội Mỹ không có mặt ở Iraq: “đó không phải là quyết định của tôi; đó là quyết định của chính phủ Iraq,” Obama nói tại một cuộc họp báo tháng này.
Tuy
nhiên, nhất định đòi để lại một con số nhỏ binh lính có thể đã làm khó
cho việc đi đến thỏa thuận. Kenneth Pollock, một chuyên gia Trung Đông
tại Trung tâm Saban cho chính sách Trung Đông tại Viện Brookings,
Washington, biện luận,
“Rất ít chính trị gia Iraq sẵn sàng chấp nhận một sự hiện diện vô nghĩa như vậy. Có những cách khác mà Washington cũng có thể xử lý các vấn đề pháp lý, nhưng Nhà Trắng đã nói rõ là họ không quan tâm.”
Nhưng
Steve Simon, người từng là giám đốc cao cấp về Trung Đông và các vấn đề
Bắc Phi tại Nhà Trắng từ năm 2011 đến năm 2012, lập luận Washington
không có nhiều lựa chọn. “Tôi còn nhớ rằng chính quyền đã hết sức cố
gắng. Họ đã đặt rất nhiều áp lực lên Maliki và họ đã hết sức tìm hỗ trợ ở
các nghị để đi đến thỏa thuận,” Simon nói với các phóng viên.
Đến
mùa hè năm ngoái, sau khi chính phủ Hoa Kỳ kết luận rằng Assad đã sử
dụng vũ khí hóa học chống lại dân Syria, Obama mới chấp thuận gửi vũ khí
hạng nhẹ cho quân nổi dậy, không phải là nhóm cực đoan ISIS, đang chiến
đấu chống lại chế độ. Đây là động thái mà Ford, cựu đại sứ Mỹ, và các
nhà phê bình khác nói là quá ít và quá chậm.
Ford
đang kêu gọi viện trợ thiết bị quân sự nhiều hơn và nặng hơn, gồm cả
súng cối và tên lửa đất-đối-không để giúp Quân đội Tự do Syria. “Càng
do
dự nhiều và không muốn cam kết cho
phép quân đối lập ôn hòa chiến đấu hiệu quả hơn với cả chiến binh thánh
chiến và chế độ Assad chỉ đẩy nhanh thêm ngày mà quân đội Mỹ sẽ phải
can thiệp chống lại al-Qaeda ở Syria,”Ford đã viết như thế trên tờ New York Times trong tháng này.
Khi
cuộc khủng hoảng leo thang Obama mới phản ứng. Hôm 20 tháng 6, ông ra
lệnh cho 300 quan nhân của lực lượng đặc biệt Mỹ “đánh
giá” tình hình trên mặt đất và để “tham mưu, giúp” quân đội Iraq. On
June 26, Obama chính thức yêu cầu Quốc hội chấp chi 500 triệu đô-la để
huấn luyện và trang bị cho quân nổi dậy Syria; đây bước lớn nhất cho đến
nay của chính quyền. Tiền là một phần của yêu cầu trị giá 1,5 tỷ USD
cho quỹ ổn định tình hình gồm cả sự hợp tác với các nước láng giềng như
Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Lebanon và Iraq. Cùng ngày, Liên Hiệp Quốc cho biết
tình hình đã xấu đến mức có khoảng 10,8 triệu người Syria – một nửa dân
số – hiện nay đang cần viện trợ nhân đạo.
Obama
đang bị áp lực phải làm nhiều hơn, chẳng hạn như các cuộc không kích
chống lại quân ISIS, một chiến thuật mà Obama không loại trừ. “Chúng tôi
chuẩn bị để có hành động quân sự chính xác và có mục tiêu, nếu và khi
chúng tôi xác định rằng tình hình trên
mặt đất đòi hỏi phải làm điều đó.” Tuy nhiên, việc gửi quân đội
Mỹ vào chiến đấu là
vẫn đề miễn bàn. “Quân đội Mỹ sẽ không trở lại chiến đấu ở Iraq.”
Cả
trong bài phát biểu của ông Obama và trong hành động đối với vấn đề ở
Syria và Iraq, một số người nhìn thấy một sự thay đổi đáng lo ngại với
một nước Mỹ thận trọng hơn trên sân khấu thế giới. “Siêu cường không
được quyền nghỉ hưu” là tiêu đề của một bài tiểu luận gần đây của nhà sử
học Robert Kagan đăng trên tờ The New Republic. Kagan cho rằng cuộc
khủng hoảng Syria và Ukraine “báo
hiệu một quá trình chuyển đổi sang một trật tự thế giới khác, hoặc đi
vào một loại thế giới rối loạn như chưa từng thấy kể từ năm 1930.” Ông
nghĩ rằng với ngân sách quân đội lớn hơn tất cả các quốc gia khác cộng
lại, Mỹ đã có sức mạnh để giữ trật tự thế giới tự do và phát huy dân
chủ. Nếu Mỹ kiềm chế việc sử dụng sức mạnh của mình, các diễn viên khác,
chẳng hạn như Putin, sẽ nhảy vào lấp đầy khoảng trống. “Thế giới sẽ
thay đổi nhanh hơn nhiều hơn người ta tưởng. Và không có siêu cường dân
chủ nào khác đang đợi bên cánh gà để cứu thế giới nếu siêu cường dân
chủ này – Hoa Kỳ – do dự,” Kagan
đã viết.
Hiện
tại, có rất ít sự đồng thuận giữa người Mỹ về vai trò của họ tại một
thời điểm mà họ nghĩ rằng họ đã kết thúc với Iraq và đã chặt đầu được
al-Qaeda. Nhưng họ đang lo ngại về cuộc khủng hoảng đang diễn ra. Một
cuộc thăm dò New York Times / CBS gần đây cho thấy 58% không chấp nhận
cách ứng xử của Obama về chính sách đối ngoại, tăng 10% trong tháng vừa
qua lên mức cao nhất kể từ khi ông nhậm chức vào năm 2009. (Đánh giá phê
duyệt tổng thể về Obama giảm xuống 40%, và tỉ số 54 phần trăm không
chấp thuận
việc làm của ông trong vai trò Tổng thống. Đó cũng là là tỉ số cho Tổng
thống Bush tại cùng một điểm trong nhiệm kỳ thứ hai của ông).
Dân
Mỹ cũng không thống nhất về việc liệu Obama có nên gửi 300 quân nhân
lực lượng đặc biệt sang Iraq, hoặc ông có nên để lại một lực lượng quân
sự tại đó sau năm 2011. Cuộc thăm dò tìm thấy độ giảm tín nhiệm lớn nhất
ở trong nhóm những đảng viên đảng Dân chủ, nhiều người phản đối ngay cả
việc gửi một số nhỏ quân đội ra nước ngoài.
Có
một điều họ đều đồng ý. Một con số kỷ lục người Mỹ -75 phần trăm- bây
giờ tin rằng chiến tranh Iraq là một sai lầm. Không ai biết ddiiefu đó
rõ hơn Obama.
Một
bản đồ Mỹ với những con số binh sĩ của quân đội Mỹ thiệt mạng và bị
thương ở Iraq được coi là một phần của một đài tưởng niệm tạm thời, được
gọi là “Arlington Tây”, một dự án của Cựu chiến binh cho hòa bình, trên
bãi biển Santa Monica ở Santa Monica, California, vào ngày 9, 2012.
Nguồn: Reuters / Danny Moloshok
Tác
giả, tốt nghiệp khoa Kinh Tế ở ĐH Harvard và Luật tại trường Luật ĐH
Yale, là trưởng phòng của Tạp Chí MacLean’s tại Washington, D.C.
nguồn: dcvonline.net
Vu That
No comments:
Post a Comment