Tuesday, July 30, 2024

70 Năm Di Cư (1954-2024) Bài 1: Cuộc ‘bỏ phiếu bằng chân’ vĩ đại nhất lịch sử Việt Nam Mạnh Kim



Trong lịch sử cận đại Việt Nam, không có sự kiện di cư nào qui mô nào bằng sự kiện 1954. Nó chất chứa khối nặng tâm tình dân tộc. Nó là một trường ca vĩ đại trong số những trường ca ai oán nhất của dân tộc. Xét riêng về chính trị, cuộc di cư 1954 là một sỉ nhục lịch sử của chế độ cộng sản Bắc Việt, đặc biệt trong bối cảnh mà những tên tuổi Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp thời điểm đó đang vang danh toàn cầu. Thế nhưng những nhân vật này đã không thể giữ được chân của khoảng một triệu đồng bào Bắc Việt. Họ đã không chọn đứng chung hàng ngũ cộng sản và sống với hào quang chiến thắng Điện Biên Phủ xóa sổ thực dân Pháp. Họ chạy về phía Tự Do…

Cho đến nay, sau 70 năm, Cộng Sản Việt Nam tiếp tục bóp méo ý nghĩa của sự kiện di cư 1954. Trang web Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia hiện vẫn còn bài “Mỹ tổ chức cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam.”

Bài báo viết: “Chính sách di cư của Mỹ-Diệm nhằm đạt ba mục đích cơ bản sau:

Một là, về mặt chính trị, đối với thế giới, Mỹ và tay sai cố tạo ra dư luận xấu về chế độ của Việt Nam ở miền Bắc nhằm ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân ta; tạo ra ảnh hưởng xấu của cách mạng Việt Nam đối với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.

Hai là, về kinh tế-xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ-Diệm hy vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kỹ thuật vào Nam, tạo ra những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định về kinh tế, khiến cho lòng người ly tán, nội bộ lục đục, gây khó khăn cho ta trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công nghiệp mới du nhập sau Chiến tranh thế giới thứ hai ở miền Nam.

Ba là, ở miền Nam, với số người di cư, Mỹ-Diệm nhằm “thăng bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11 triệu.” Điều này có nghĩa là “tăng thêm hy vọng của thắng lợi tổng tuyển cử đối với những lãnh tụ quốc gia, đồng thời tạo ra cơ sở xã hội vững chắc cho chế độ Diệm. Đồng bào di cư là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền.”

***

Đi về phía Tự Do, bằng mọi giá!

Luận cứ rằng đồng bào miền Bắc di cư vào Nam là bởi ảnh hưởng từ chiến dịch tâm lý chiến thành công Edward Lansdale (người thai nghén ý tưởng “Đức Mẹ vào Nam,” khiến người Công Giáo Bắc Việt gồng gánh đổ xô lên những con tàu há mồm vào Nam), trở nên phổ biến đến mức hễ đề cập đến sự kiện di cư 1954 thì mặc nhiên dư luận nghĩ đến “âm mưu” của Edward Lansdale. “Nguyên nhân lịch sử” này tất nhiên được hệ thống tuyên truyền cộng sản cổ xúy. Trong thực tế, ngay trước khi Hiệp Định Geneva ra đời, những cuộc di cư nhỏ lẻ đã hình thành, khi người dân Bắc Việt bắt đầu nhận ra diện mạo của chế độ Hồ Chí Minh.

Chính Edward Lansdale cũng nhấn mạnh rằng “con người không tự nhổ rễ mà đem mình đi nơi khác chỉ vì những khẩu hiệu. Họ thực sự lo sợ về những gì có thể xảy đến cho họ và cảm xúc của họ đủ mạnh để vượt lên sự quyến luyến đối với đất đai, nhà cửa và mồ mả tổ tiên họ. Vì vậy, sự chủ động phần nhiều thuộc về họ – và chúng tôi chủ yếu biến việc di cư thành khả thi” (Nguồn: Peter Hansen – “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954–1959”,Journal of Vietnamese Studies, Vol. 4, No. 3, 2009).

Một cách chính xác, không Edward Lansdale nào hoặc chiến dịch tâm lý chiến nào đủ mạnh để có thể khiến hàng triệu người vất bỏ tài sản, sự nghiệp, thân nhân, thậm chí vợ con… để đến vùng đất lạ trong khi không thể hình dung cuộc đời họ sẽ thay đổi như thế nào. Chỉ có sự sợ hãi chế độ cộng sản, sợ hãi tột cùng, thậm chí kinh tởm, mới có thể khiến người ta dứt áo lên đường. Cộng sản, chính sách cai trị cộng sản và chính cán bộ cộng sản mới là nguyên cớ thúc đẩy đồng bào Bắc Việt ra đi. Trước khi Hiệp Định Geneva ra đời, chính sách cai trị cộng sản đã trở thành nỗi ám ảnh của đồng bào Bắc Việt.

Nhiều giáo dân Công Giáo, với ảnh hưởng bao trùm của những giám mục như Pierre Phạm Ngọc Chi, đặc biệt Giám Mục Thaddeus Lê Hữu Từ ở Phát Diệm (Ninh Bình), đã chấp nhận bỏ quê nhà để lên đường theo “tiếng gọi của Chúa.” Điều này ít nhiều là sự thật; tuy nhiên, nếu cộng sản “tử tế” thì giáo dân hẳn đã không chạy về phía Tự Do. Nói cách khác, Hiệp định Geneva là giọt nước tràn ly, là khoảnh khắc quyết định, là giây phút của nhận thức lịch sử.

Số liệu chính thức của VNCH vào Tháng Mười, năm 195,5 cho biết, những người từ miền Bắc di cư vào Nam gồm 676,348 tín đồ Công Giáo (76.3% tổng số người Bắc di cư); 209,132 tín đồ Phật Giáo (23.5%) và 1,041 Tin Lành (0.2%). Nếu lịch sử lặp lại, con số di tản vào Nam thậm chí có thể cao hơn rất nhiều. Trong thực tế, dù tuyên truyền rằng “Mỹ-Diệm” đã sử dụng nhiều “thủ đoạn” lôi kéo đồng bào Bắc Việt vào Nam nhưng chính Việt Minh mới là những kẻ dùng đủ mánh khóe để ngăn chặn đồng bào tản cư.

Việt Minh phá rối cuộc di cư như thế nào?

Trong “Việt Nam 1945-1995,” Giáo Sư Lê Xuân Khoa thuật: Điều 14 (d) của Hiệp định Geneva không những cho phép dân chúng được tự do chọn lựa nơi cư trú trong thời hạn ấn định mà còn nói rõ rằng các nhà chức trách địa phương phải giúp đỡ họ di chuyển được dễ dàng. Trong thực tế, để ngăn chặn làn sóng người “bỏ phiếu bằng chân,” chính quyền VNDCCH đã áp dụng vô số biện pháp, từ thuyết phục đến cản trở, từ đe dọa đến sử dụng bạo lực.

Một bản tin của Linh Mục Patrick O’Connor từ Hà Nội điện về cho tổ chức National Catholic Welfare Conference ở Washington DC ngày 5 Tháng Mười, 1954 chép:

“Hai điều vi phạm hiển nhiên của Việt Minh mà ai cũng biết là: Giữ lại những người bị bắt giam mà họ đã thỏa thuận thả ra trong vòng 30 ngày (tức là đến 20 Tháng Tám, 1954), và ngăn chặn sự ra đi của những người Việt Nam muốn ra khỏi vùng Việt Minh kiểm soát… Thật ra, mãi đến tuần lễ thứ nhì của Tháng Chín (1954), Việt Minh mới thả một số tù binh. Trong khi những thường dân Việt Nam đầu tiên được thả vào ngày 15 Tháng Chín thì vẫn còn khoảng 30,000 người chưa được biết rõ số phận…”

Cũng theo Giáo Sư Lê Xuân Khoa, nhân chứng cho việc vi phạm Hiệp định Geneva của Việt Minh còn có Thượng Nghị Sĩ Mỹ Mike Mansfield khi ông thực hiện chuyến khảo sát Đông Dương vào Tháng Mười, 1954; các ký giả Robert Martin (U.S. News & World Report), Yves Desjacques (Le Figaro); những bài tường thuật trong các báo Christian Science Monitor, Journal d’Extrême-Orient, New York Herald Tribune, New York Times, Osservatore Romano; và những bản tin của Junior Chamber of Commerce từ Manila, U.S.I.S. và Vietnam Press từ Sài Gòn.

Cần nhắc lại, ngay khi mới “giải phóng” Phát Diệm, Việt Minh đã chiếm nhà dòng Công Giáo, tịch thu tài sản, ruộng đất của các tu viện và họ đạo. Linh mục bị bắt phải mặc quần áo nông dân và phải làm ruộng… Tại nhiều nơi, một thứ thuế quái đản ra đời, được áp dụng cho những ai đeo mề đay Công Giáo! Chưa hết, linh mục được làm lễ, nhưng mỗi người vào nhà thờ dự lễ phải trả 1,000 đồng tiền thuế… Việt Minh còn phát “Kinh Thánh Mới” được sửa đổi, trong đó có những câu như: “Chúa Giê-Su là một người lao động tranh đấu cho công cuộc giải phóng anh em của Người là các công nhân.”

Những thủ đoạn khó lường

Bài nghiên cứu “Bac Di Cu: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959” của Peter Hansen ghi rõ rằng, giữa năm 1955, có nhiều báo cáo về các trường hợp trong đó bộ đội Việt Minh và cán bộ hành chính VNDCCH đã chủ động cản trở hoặc ngăn chặn những người có khả năng di cư, không để họ tiếp cận các điểm xuất phát tại Hà Nội-Hải Phòng. Điều này được thực hiện thông qua một sự phối hợp giữa lực lượng quân đội và sự cản trở về mặt hành chính; thẩm quyền cấp phép di cư thuộc về các nhà chức trách cư ngụ tại các vùng tương ứng.

Trong “Cross and the Bo-tree: Catholics and Buddhists in Vietnam” (1970) của Piero Gheddo; hoặc Chương 5 (The Twin Tyrannies) trong “Vietnam: An Epic Tragedy, 1945-1975” (NXB Harper Collins 2018) của tác giả Max Hastings cũng có những chi tiết tương tự.

Một số thủ đoạn được Việt Minh áp dụng gồm:

-Gây hoang mang lo sợ cho người dân bằng cách phao tin đồn, chẳng hạn Pháp bắt dân vào làm phu đồn điền cao su, đàn bà bị hãm hiếp, trẻ con bị đem đi bán, giặc Pháp và Mỹ hung ác trả thù Việt Nam bằng cách đổ người xuống biển khi tàu ra ngoài khơi.

-Không cấp hoặc trì hoãn cấp giấy phép di chuyển cho những người ở trong vùng do Việt Minh kiểm soát.

-Ngăn cấm hoặc làm khó dễ việc bán nhà cửa, ruộng nương của những người chuẩn bị ra đi.

-Dọa bắt hay ngược đãi thân nhân của những người ra đi còn kẹt lại.

-Không cung cấp phương tiện vận chuyển và gây cản trở việc di chuyển của đồng bào di cư trên đường bộ cũng như đường thủy. Hành hung người ra đi ở các bến xe, nhà ga hay bến tàu.

-Kiếm cớ bắt chủ gia đình hay bắt cóc trẻ em khiến cả nhà phải ở lại.

-Giật mìn hay nổ súng vào xe cộ, bắn phá hoặc đánh chìm tàu thuyền chở người tị nạn.

Hải Quân Mỹ trên tàu USS Estes (AGC-12) đưa người di cư đặt chân tới cảng Sài Gòn. (Hình: Naval History and Heritage Command)

Liều chết ra đi

Trong một điện văn gửi bộ trưởng các quốc gia liên kết ngày 29 Tháng Mười, 1954, Cao Ủy Pháp ở Sài Gòn cho biết:

“Từ đầu tuần vừa qua, các phi cơ thám sát của hải quân đã thấy trên những bãi cát dọc theo bờ biển có nhiều nhóm dân đánh cá ra dấu hiệu. Hải quân được tin đã cho tàu tuần tiễu tới cứu giúp. Khi tới gần duyên hải Bùi Chu và Phát Diệm, hải quân thấy hiện ra trên mặt biển đầy thuyền bè đủ loại. Các giới thạo tin ở Hải Phòng cho hay Việt Minh đã ngăn cấm thuyền đánh cá ra khỏi hải phận, tức là ba hải lý. Hơn nữa, tại hàng trăm địa điểm miền duyên hải, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt dân chúng phải di cư lui vào nội địa nhiều cây số…” (nguồn: “Việt Nam 1945-1995” – Lê Xuân Khoa)

Một vụ cứu người tị nạn được thuật trên báo Journal d’Extrême-Orient ngày 25 Tháng Mười 1954 như sau:

“Với những lá cờ vàng và trắng của Vatican phấp phới trong gió, cả ngàn chiếc thuyền đánh cá, bè mảng và thuyền buồm, quá tải người tị nạn, đã ra đi vào ban đêm phó mặc cho số phận, tiến về phía những chiến hạm nhỏ của Pháp ở ngoài khơi Vạn Lý bên kia vùng hải phận của Việt Minh. Không may, có nhiều thuyền bè đóng vội đã bị sóng biển lật úp hay đánh vỡ làm thiệt hại rất nhiều sinh mạng và hàng hóa. Hàng trăm người tị nạn đã chết như vậy.

Tuy nhiên, giữa 6 và 8 giờ sáng hôm qua, chiếc Jules Vernes, vốn là một con tàu cũ dùng để tiếp tế cho tàu ngầm, đã vớt được 3,000 dân tị nạn; trong khi tàu Commandant de Pimodam, vớt khoảng 600, và hai chiếc LSM11 từ Hải Phòng tới tăng cường, mỗi chiếc vớt được khoảng 1,000 người… Thủy thủ đoàn người Pháp làm việc hết sức để chuyển người lên tàu, nhất là phải kéo lên những trẻ sơ sinh, người già hoặc người có bệnh. Có những chiếc bè bị ngập sóng chở cả những con trâu mà những người chạy trốn chế độ Hồ Chí Minh vội vã đem theo…”

Ngoài những vụ vượt thoát nguy hiểm, còn có những vụ xung đột đẫm máu giữa dân chúng và lực lượng công an, quân đội ở một số nơi, nhất là vụ 5,000 bộ đội Việt Minh xả súng vào ngót 20,000 thường dân ở Ba Làng (Thanh Hóa) vào ngày 8 Tháng Giêng 1955, và vụ 10,000 bộ đội, dân quân và công an hợp lực đàn áp và bắt giữ 3,000 dân Lưu Mỹ (Nghệ An) ngày 13 Tháng Giêng 1955 – chỉ vì dân chúng ở hai nơi này biểu tình đòi di cư và chống cự bằng giáo mác, gậy gộc…

***

Theo Phủ Tổng Ủy Di Cư của chính phủ Ngô Đình Diệm, tổng số dân rời Bắc vào Nam là 875,478 người – trong đó có 871,533 người đi trước ngày 19 Tháng Năm; và 3,945 người đi trong thời gian gia hạn. Nếu tính thêm số người vượt tuyến sau khi hết hạn, khoảng 76,000 người đi bằng thuyền hay đường bộ (xuyên rừng qua Lào), thì tổng số tị nạn lên tới gần 950,000 người. Trong 871,533 người đi đúng kỳ hạn, có 213,635 người được Pháp chở bằng máy bay (4,280 chuyến), số còn lại gồm 555,037 người được chở bằng tàu thủy; và 102,681 người đi bằng phương tiện riêng (Nguồn: “Việt Nam 1945-1995,” Lê Xuân Khoa).

Trong “Ngô Đình Diệm và chính nghĩa dân tộc,” tác giả Minh Võ viết: “Mẹ tôi kể lại, bốn mẹ con phải đi bốn lần mới có một lần thành công. Đường đi dài gần 200 cây số mà cứ gần đến Hải Phòng thì lại phải dẫn nhau quay về, vì lần nào cũng bị Việt Minh ngăn cản, dụ dỗ, đe dọa. Lần thứ bốn, may có một cán bộ địa phương thương tình cấp giấy tờ cho đi hợp pháp mới tới nơi. Bà đã gặp lại người cán bộ này tại miền Nam chỉ ít ngày sau đó. Anh ta nói khi cấp giấy cho gia đình tôi, là trong bụng đã ôm mộng bỏ đảng ra đi rồi.”.

Nếu lịch sử lặp lại, sẽ có bao nhiêu đồng bào Bắc Việt chọn đi về phía Tự Do?

***

Trích “Hai mươi năm qua, Việc từng ngày, 1945-1964” của Đoàn Thêm

26-5-1954: Tại Hội Nghị Genève, Pháp và VM đã thỏa hiệp: ngừng bắn, thu quân về những khu vực chỉ định. VM muốn sự chia khu vực được giản dị, nghĩa là cắt đôi VN. VM rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa trả lời. Anh tán thành. Mỹ phản đối. VN giữ nguyên lập trường: chỉ có một VN thống nhất. Quốc dân Đại hội nhóm họp ở Saigon, phản đối kịch liệt dự định chia đôi đất nước.

6-7-1954: chánh phủ Ngô Đình Diệm thành lập (SL. 43/CP).

7-7-1954: chánh phủ Ngô Đình Diệm tựu chức.

21-7-1954 (22 tháng 6 Giáp Ngọ): Hội Nghị Genève nhóm họp phiên cuối cùng, để xác nhận những thỏa hiệp đã đạt, trong những văn kiện được gọi là Hiệp định Genève (Accords de Genève). Chủ Tịch phiên họp, là đại biểu Anh Anthony Eden. Trước khi ký kết, Chủ Tịch hỏi lại từng Phái đoàn xem có xác nhận không. Các Phái đoàn lần lượt tuyên bố xác nhận, ngoại trừ vài ý kiến dè dặt về một số điều khoản (Mên, Lào, Việt, Mỹ). Những ý kiến đó không làm thay đổi các dự thảo Hiệp định, song được ghi trong các phụ bản đính theo.

Hiệp định đình chiến tại VN, gồm 47 điều, với một Phụ lục. Các điều khoản chính:

1/Định một giới tuyến quân sự từ cửa sông Bến Hải, theo giòng sông đến làng Bồ-Hô Su (nguyên văn – MK) và biên giới Lào Việt (không thấy nói đến vỹ-tuyến 17).

2/Lập một khu phi quân sự 5 cây số bề rộng bên này và bên kia giới tuyến để làm “khu đệm” theo nguyên văn Hiệp định.

3/Thời hạn tối đa để rút quân hai bên, là 300 ngày, kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.

4/Ngày giờ ngừng bắn:

ở Bắc Việt: 8 giờ ngày 27-7-1954
ở Trung-Việt: 8 giờ ngày 1-8-1954
ở Nam Việt: 8 giờ ngày 11-8-1954

5/Trong khi chờ đợi tổng tuyển cử, mỗi bên sẽ phụ trách quản trị hành chánh ở khu tập hợp quân đội thuộc quyền.

6/Cấm phá hủy trước khi rút lui; không trả thù hoặc ngược đãi những người đã hợp tác bên đối phương.

7/Trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu này sang khu thuộc bên kia.

8/Cấm đem thêm quân đội, vũ khí đạn dược hoặc lập thêm căn cứ quân sự mới.

9/Tù-binh và thường dân bị giữ, được phóng thích trong hạn 30 ngày kể từ khi ngừng bắn thực sự.

10/Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định, sẽ giao cho một Ban Quốc Tế.

11/Thời hạn rút quân, định riêng cho từng khu, kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết Trung Việt (300 ngày).

10-8-1954: Cầu hàng không chở dân di cư vào Nam. Mỗi ngày có năm bảy chục phi cơ của Quân đội Pháp tới Tân Sơn Nhứt; Bộ Xã Hội lo tiếp đón và giúp đỡ. Ở Bắc, hàng ngày có vài ngàn người về Hà Nội để chờ vô Nam; không được đi máy bay thì xuống Hải Phòng đáp tàu biển, của Pháp và cả của Hoa Kỳ.

1-7-1955 (12 tháng 5 Ất-Mùi):

Tổng số dân di cư:

533.868 người vào Nam bằng tàu biển.

243.657 người vào Nam bằng máy bay.

Số trại định cư:

122 trại ở 12 tỉnh Nam phần.

55 trại ở 8 tỉnh Trung phần.

9 trại ở 6 tỉnh Cao-Nguyên.

Số nhà đã dựng:

43.288 nhà chắc chắn, và 3.763 nhà tạm trú.

Ngân khoản được cấp: 1.058.000.000$

480 triệu để trợ cấp định cư; 300 triệu để cấp cho người định cư làm lấy nhà.

Mỗi người được cấp:

700$ trợ cấp tài chánh.

12$ tiền ăn mỗi ngày.

Số dụng cụ vật liệu đã phát:

124.813 dụng cụ canh nông.

681.585 kiện vải, 393.994 cân chỉ, 3.471 cân chì làm chài lưới.

(Tài liệu của Phủ Tổng ủy Di-cư)

11-7-1955:

-Vài trăm dân di cư biểu tình ở Saigon, đòi trục xuất các phần tử Cộng sản.

-Quân đội tiến về Rạch Giá, bao vây Trung Đoàn Lê Quang của Tướng Ba Cụt.

-Tại Bộ Xã Hội, trước mặt T.Tr. Vũ quốc Thông, một nhân-viên sinh quán tại Chợ Lớn tuyên bố: hiến 1/2 lít máu để vẽ chân dung Ngô Chí-Sĩ đem bày nhân dịp Triển Lãm Thông Tin ngày 20 tháng 7.

13-7-1955: Sinh-viên, học-Sinh biểu tình ở đường Champagne, đả đảo Ủy Hội Quốc Tế vì có ý bênh vực VM, đòi thả binh sĩ còn bị VM giam giữ. Ủy Hội hứa xét lại vấn đề.

16-7-1955: Th.T. Ngô đình-Diệm tuyên bố: VN không ký kết Hiệp-Định Genève, nên không bị ràng buộc, song vẫn trung thành với chánh sách hoà bình, và sẵn sàng tổ chức tổng tuyển cử nếu có thể bầu được tự do.

20-7-1955: Biểu tình khổng lồ chống Cộng và chống sự chia đôi đất nước. Dân chúng ập vào phá nhiều phòng của Khách sạn Majestic và khách-sạn đường Trần-Hưng-Đạo, nơi có sĩ quan VM lui tới với Ủy-Hội Quốc-Tế. Thiệt hại khá nhiều.




Bác Sĩ Tom Dooley (1927-1961) và trẻ em ở Đông Dương, hình chụp năm 1954.


Nói đến sự kiện di cư 1954, có nhiều nhân vật lịch sử, người Việt lẫn nước người, cần được nhắc, trong đó không thể không kể Tom Dooley, người được xem là ân nhân của người Việt vào thời điểm lịch sử hỗn loạn 1954.

Tom Dooley đã được nhắc trong quyển “Việt Nam 1954-1995” của Giáo Sư Lê Xuân Khoa và cả trong quyển “Khi đồng minh nhảy vào” của ông Nguyễn Tiến Hưng. Suốt từ giữa đến cuối thập niên 1950, Quân Y Sĩ Tom Dooley (tức Thomas Anthony Dooley III) là hình ảnh hiện thân lòng bác ái. Hỗ trợ y tế nhân đạo của ông ở các vùng nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đầu người Mỹ nhảy vào Đông Nam Á đã được ca ngợi hết lời. Tom Dooley đã được Tổng thống John F. Kennedy trao Huân Chương Vàng Quốc Hội (Congressional Gold Medal).

Trong “Việt Nam 1954-1995,” Giáo Sư Lê Xuân Khoa viết:

“Bác Sĩ Quân Y Thomas Dooley, một cứu tinh của dân tị nạn 1954, phục vụ trên chiếc tàu Montague của Hải Quân Hoa Kỳ, tham dự một chuyến cứu người vượt biển ở Vịnh Hạ Long trên một chiếc LSM của Pháp do Đại Úy Gerald Cauvin chỉ huy. Nhờ sự hướng dẫn của máy bay quan sát, chiếc tàu đã tiến đến vị trí của 14 chiếc thuyền buồm đang vật vã ở ngoài khơi. Đoàn thuyền này chở hơn 1,000 dân làng Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, đã phấn đấu với sóng biển và đói khát trong năm ngày năm đêm mới tới được cửa biển Hải Phòng. Dân tị nạn kể cho Dooley biết rằng họ phải liều mạng ra đi vì không chịu được chính sách cải cách ruộng đất và những biện pháp cưỡng bách tinh thần và vật chất của Việt Minh. Họ đã phải bí mật chuẩn bị rất nhiều ngày trước khi đi trốn vào một đêm không có trăng…”

***

Tom Dooley sinh ngày 17 Tháng Giêng, 1927, tại St. Louis, trong gia đình có truyền thống Công Giáo La Mã nghiêm khắc. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông theo học tại một trong những trường đại học Công Giáo nổi tiếng nhất nước Mỹ, Notre Dame ở South Bend, Indiana, nhưng bỏ học dang dở.

Năm 1944, khi Đệ Nhị Thế Chiến nổ ra, Dooley gia nhập Hải Quân. Sau chiến tranh, Dooley rời Hải Quân và trở lại Notre Dame vào năm 1946, nhưng một lần nữa cũng bỏ học. Sau đó Dooley vào Trường Y thuộc Đại Học St. Louis. Tốt nghiệp trường y năm 1953, ông tái nhập Hải Quân, trở thành quân y sĩ trên chiến hạm USS Montague, đến Việt Nam năm 1954, tham gia chương trình “Operation Passage to Freedom,” giúp đưa người tỵ nạn ở miền Bắc vào miền Nam.

Không chỉ là bác sĩ, Tom Dooley còn có tài viết lách. Nhờ công việc trên tàu USS Montague neo đóng tại Bắc Việt, Tom Dooley trở thành cầu nối hiệu quả giữa các cơ quan chính phủ khác nhau liên quan việc sơ tán đồng bào Bắc Việt.

Dooley được giới thiệu trên nhiều tờ báo, tạp chí, phim thời sự và đặc biệt các chương trình truyền hình, vốn bắt đầu trở thành nguồn tin tức ngày càng quan trọng đối với người Mỹ. Giữa những năm 1950, phần lớn gia đình ở Mỹ đều có tivi.

Bằng nhiều cách, Dooley trở thành gương mặt đại diện cho gần như toàn bộ hoạt động nhân đạo trong việc giải cứu đồng bào miền Bắc khỏi sự kìm kẹp của chủ nghĩa cộng sản. Đặc biệt, các ấn phẩm Công giáo có sức ảnh hưởng trở thành nơi đăng tải những câu chuyện mà Tom Dooley tường thuật từ Bắc Việt Nam, đến với hàng triệu người Công Giáo khắp nước Mỹ cũng như thế giới. Những bức thư Tom Dooley gửi về cho mẹ, bà Agnes, đã được hàng loạt tờ báo đăng lại, trong đó có tờ St. Louis Globe Democrat ở quê nhà của ông.

Tom Dooley thuật lại tất cả trải nghiệm, những gì tai nghe mắt thấy ở Bắc Việt, trong cuốn Deliver Us From Evil (Xin Cứu Chúng Con Cho Khỏi Sự Dữ), xuất bản vào Tháng Giêng 1956. Được đích thân Đô Đốc Hải Quân Arleigh Burke viết lời giới thiệu, cuốn sách lập tức gây chấn động nước Mỹ. Deliver Us From Evil kể lại chi tiết chiến dịch di tản “Passage to Freedom” của đồng bào miền Bắc và những tội ác kinh hoàng của Việt Minh.

Ông kể, những hành động tàn bạo của cộng sản “gần như luôn có ý nghĩa tôn giáo. Bây giờ tôi đã quen với việc cứu chữa những người đàn ông và phụ nữ chân yếu tay mềm có bộ ngực bị xén và thậm chí cả những đứa trẻ không có ngón hoặc bàn tay. Ngày qua ngày, tôi nhận ra rằng những hình phạt mà Cộng Sản gây ra là nhắm đến những người có đức tin vào Chúa”.

Trong một đoạn dài, Tom Dooley tả một linh mục bị treo chân và bị đánh đập tàn nhẫn vì tội dám cãi lệnh Việt Minh khi lén cử hành thánh lễ vào ban đêm. Khi Tom Dooley gặp, vị linh mục “nằm trên cáng tre, quằn quại trong đau đớn, môi mấp máy cầu nguyện. Khi tôi kéo tấm chăn bẩn ra, tôi thấy ông ấy chỉ còn là một khối thịt đen ngòm từ vai đến gối. Bụng cứng và căng, bìu sưng to như quả bóng. Tôi tiêm ông ấy một mũi morphine…”

Nguyệt san Reader’s Digest, tạp chí có lượng phát hành lớn nhất nước Mỹ vào thời điểm đó với 20 triệu độc giả, đã rút gọn Deliver Us From Evil còn 27 trang để mang câu chuyện lan xa hơn. Deliver Us From Evil xuất hiện trong danh sách sách bán chạy nhất và Tom Dooley trở thành nhân vật nổi tiếng toàn cầu. Nhiều câu-đoạn trong Deliver Us From Evil thậm chí được đưa vào các bài giảng tại một số nhà thờ. Cuốn sách được yêu cầu đọc ở một số trường Công Giáo. Hình ảnh Tom Dooley và những câu chuyện về cuộc đấu tranh chống Cộng của ông ở Đông Nam Á xuất hiện trên các tạp chí LIFE, Look và TIME. Thậm chí còn có một bài 10 trang về ông trên tuần san Maclean’s của Canada. Khi người Mỹ bật tivi vào năm 1959, Dooley dường như luôn có mặt.

Trước khi rời Việt Nam, Tom Dooley được tặng huân chương hai lần. Một lần ở Sài Gòn, được trao từ Tổng Thống Ngô Đình Diệm; và lần thứ hai từ Hải Quân Hoa Kỳ.

***

“Một đêm mùa Xuân năm ngoái, tôi nằm trằn trọc không ngủ trong không khí oi bức của Hải Phòng – một thành phố đang hấp hối ở Bắc Việt Nam, tự vấn một câu hỏi từng ám ảnh nhiều thanh niên Mỹ bị mắc kẹt ở những nơi xa xôi: “Tôi đang làm cái quái gì ở đây?”… Ngoài kia, trong trại tị nạn tạm bợ mà tôi dựng lên bằng những chiếc lều của quân đội Hoa Kỳ, có hơn 12,000 người Việt khốn khổ, bệnh tật và bị tàn phế thảm thương, hầu hết hoặc rất trẻ hoặc rất già. Họ đang chạy trốn Cộng Sản Bắc Việt, hy vọng đến được Sài Gòn, nơi mà sự an toàn mạng sống cũng là điều chưa ai dám chắc…”

“Tôi đang điều trị những căn bệnh mà hầu hết các bạn cùng lớp y khoa của tôi không bao giờ gặp trong đời; (tôi đang) thực hiện những ca phẫu thuật mà sách giáo khoa không bao giờ đề cập. Bạn làm gì với những đứa trẻ bị đũa đâm vào tai? Hay những bà cụ gãy xương đòn bởi bị đánh bằng báng súng? Hoặc những đứa trẻ có tai bị cắt bằng kìm?… Ở Notre Dame, các linh mục đã dạy tôi triết học. Nhưng ở đây, trong cái địa ngục Cộng Sản này, tôi đã học được nhiều sự thật đầy ấn tượng và thực tế hơn về bản chất thực sự của con người… Bây giờ tôi biết tại sao sự vô thần có tổ chức không bao giờ có thể tiêu hủy được ngọn lửa thiêng đang cháy rực ngay cả trong những con người khiêm hạ nhất.”

“Tất cả người dân Việt Nam đều mơ ước và đấu tranh cho tự do. Từ những người lao động vất vả trên đồng lúa, bán mặt cho đất bán lưng cho trời; những đứa trẻ trần truồng chơi nghịch trong gió mùa; những đứa bé bán trái cây trong những con lạch ngoài chợ quê; đến những người nghèo bị cụt chân tay… Tất cả đều có cùng một ước mơ: Tự do.”

(Trích từ Deliver Us From Evil – Xin Cứu Chúng Con Cho Khỏi Sự Dữ)

***

Năm 1959, một cuộc thăm dò của Viện Gallup xếp Tom Dooley ở vị trí thứ bảy trong danh sách những nhân vật được dân Mỹ ngưỡng mộ nhất, đứng trước cả tướng Douglas MacArthur. Cùng năm đó, Dooley phát hiện mình mắc ung thư. Khi Tom Dooley được nhắc đến như một niềm cảm hứng của nước Mỹ, trong bài phát biểu ngày 2 Tháng Mười Một, 1960 mà Tổng thống John F. Kennedy đọc khi đề xuất thành lập Peace Corps, vị trí Tom Dooley trong danh sách Gallup liệt kê những nhân vật được ngưỡng mộ vọt lên thứ ba, chỉ sau Dwight D. Eisenhower và Đức Thánh Cha Gioan XXIII (Đức Giáo Hoàng John XXIII).

Tom Dooley không sống lâu hơn để tận hưởng vinh quang. Ông qua đời ngày 18 Tháng Giêng, 1961, một ngày sau khi bước sang tuổi 34. Trong lễ tang Tom Dooley ở St. Louis, giữa trời tuyết trắng xóa, hàng ngàn người đã đến dự. Ngày 27 Tháng Năm, 1961, một nghị quyết Quốc Hội “ủy quyền cho tổng thống Hoa Kỳ truy tặng huân chương cho bác sĩ Thomas Anthony Dooley III” được thông qua. Ngày 7 Tháng Sáu, 1962, Huy Chương Vàng Quốc Hội (Congressional Gold Medal) dành cho Tom Dooley được Tổng thống J. F. Kennedy trao cho mẹ của ông, bà Agnes Wise Dooley.

Sau khi Tom Dooley chết, nhiều bài báo và nghiên cứu đưa ra cái nhìn khác về Tom Dooley, rằng ông đã dựng ra nhiều chuyện không có thực trong Deliver Us From Evil, ông chỉ là công cụ của CIA; và ông là người đồng tính… Bất luận thế nào, có không ít điều về Tom Dooley mà không ai có thể phủ nhận.

Ông là một chiến sĩ chống Cộng quyết liệt. Và những gì ông kể về Cộng Sản Bắc Việt có thể “phóng đại” như những người chỉ trích ông cáo buộc nhưng chắc chắn rằng, tội ác cộng sản cùng với những hành vi man rợ ngoài sức tưởng tượng thì không phải là điều không quen thuộc với những người Việt đọc sử giai đoạn Cải Cách Ruộng Đất (rồi sau đó là Nhân Văn Giai Phẩm sau 1954). Trong thực tế, những chuyện “bịa đặt” trong Deliver Us From Evil hoàn toàn không khác với thực tế lịch sử. Những chuyện rùng rợn khó tin mà cộng sản gây ra thời đấu tố Cải cách ruộng đất, từ chôn sống đến chặt đầu nạn nhân, hoàn toàn không phải là chuyện hư cấu.

Quan trọng hơn, những gì Tom Dooley viết đã cho thế giới phương Tây thấy diện mạo rõ hơn của cộng sản, ở thời nhiễu nhương khi mà cộng sản vẫn dễ dàng lừa bịp được không ít người, bởi lá bài kháng chiến cứu quốc của họ. Chính những gì Tom Dooley viết đã giúp dân Mỹ nói chung và giới chính trị gia Mỹ nói riêng ủng hộ nhiều hơn cho chiến dịch di tản người dân Bắc Việt chạy trốn ách cộng sản. Hẳn đó là lý do mà Giáo Sư Lê Xuân Khoa lẫn ông Nguyễn Tiến Hưng gọi Tom Dooley là ân nhân của người Việt.

Tháng bảy 1954: 70 năm sau,
từ khi đất nước chia đôi

Giao Chỉ San Jose

(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều.

Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)

Ngày 20 tháng 7 năm 2014 ghi dấu 60 năm hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chúng tôi tổ chức kỷ niệm đêm giã từ Hà Nội. Có các chiến binh Việt Nam trong quân đội Mỹ về tham dự. Ca sĩ Ý Lan trình diễn những bài ca quê hương. Chúng tôi có dịp nhắc lại kỷ niệm từ ngày rất xa, khi còn là thiếu niên trong thời kháng chiến đứng sau cột đình làng Bình Hải, huyện Yên Mô nghe cô Thái Thanh rất nhỏ bé hát bài ca cho chương trình Bình Dân Học vụ. Lời ca thánh thót của thời thơ ấu mà vẫn còn nghe vang vọng tuổi hoa niên. Ai về chợ huyện Thanh Vân, hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa,,,?.Trải qua biết bao dâu bể. Ngày nay vẫn còn may mắn ngồi nghe con gái của cô Thái hát rằng: Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn.

Hôm nay, ngồi đọc lại bài viết cũ về chuyện còn sông Bến Hải đã trở thành câu chuyện 70 năm.

Tuổi cao niên già thêm 10 năm, nhưng lịch sử đất nước chia đôi trên căn bản vẫn không thay đổi. Xin soạn lại gửi đến bằng hữu độc giả như sau.

Viết cho ngày 20 tháng 7-1954

Đất nước bị chia cắt 54 quả thực là thảm họa, nhưng thống nhất 75 là còn khốn nạn hơn. Để hoàn thành công cuộc gọi là "Giải phóng miền Nam", Việt Cộng đang phải trả nợ bằng cả núi sông. Vì câu chuyện thời sự hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại chuyện hôm qua. 70 năm trước cũng vào ngày tháng này, người Việt di cư lần thứ nhất.

Tháng 7 năm 2024 có gợi nhớ cho người Việt tỵ nạn chúng ta một chút kỷ niệm nào không? Cách đây 70 năm vào tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Hôm nay, từ hơn nửa thế kỷ và một đại dương xa cách, xin có đôi lời ghi lại. Trước hết là một số sử liệu, nhắc lại một lần vào cuối cuộc đời.
Tháng 9-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, Thế chiến thứ II chấm dứt chính thức trên mặt trận Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh lãnh đạo đảng cộng sản tuyên bố Việt Nam độc lập. Người Pháp trở lại Đông Dương.
Ngày 19 tháng 12-1946, toàn quốc kháng chiến. Vào những ngày của mùa Thu khói lửa năm xưa, tất cả thanh niên Việt Nam đều đứng lên đáp lời sông núi. Phạm Duy đã viết lời ca như sau: Một mùa Thu năm qua, cách mạng tiến ra đất Việt, cùng ngàn vạn thanh niên vung gươm phá xiềng. Bài ca này miền Nam đã dùng mở đầu cho cuốn phim Chúng tôi muốn sống. Vào những ngày đầu kháng chiến tôi mới hơn 14 tuổi. Tuổi măng non thơ dại và hào hứng biết chừng nào. Vào thời gian này, không ai biết gì về Quốc Cộng. Người ta nói rằng: Khi cách mạng mùa Thu, anh 20 tuổi, anh không theo kháng chiến, anh không phải là người yêu nước. Và tôi là cậu bé con của trường Cửa Bắc, Nam Định tản cư về Yên Mô, Ninh Bình cũng bắt đầu bài học yêu nước nồng nàn.

Sau này mới học được những danh ngôn thần diệu khác. Khi chủ nghĩa cộng sản ra đời, anh 20 tuổi, không theo cộng sản, anh không có trái tim. Hai mươi năm sau, anh chưa bỏ cộng sản. Anh không có khối óc.

Hà Nội và Nam Định tản cư, sinh viên học sinh gia nhập tự vệ thành mang dấu hiệu sao vàng tham dự vào trung đoàn thủ đô. Trong Nam các thanh niên tiền phong Sài Gòn cầm gậy tầm vông hợp đoàn chống Pháp.

Cho đến ngày nay, tất cả các vị cao niên 80 tuổi trở lên chắc hẳn còn nhớ về mùa Thu khói lửa năm xưa của thời kỳ 1946. Rồi tiêu thổ kháng chiến, rồi tản cư, rồi về Tề, còn nhớ biết bao nhiêu ngôn ngữ đặc thù của cả một thời thơ ấu.

Ba năm sau, tháng 3-1949, vua Bảo Đại từ Hương Cảng trở về. Bình minh của phe quốc gia mới bắt đầu nở hoa cay đắng trong vòng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp.


1950: Cuộc chiến vẫn tiếp tục trên toàn thể đất nước cho đến năm 1950. Một năm nhiều dữ kiện. Tháng giêng, Trung Cộng công nhận cộng sản Việt Nam. Tháng 2, Hoa Kỳ công nhận Việt Nam Quốc Gia. Tháng 3, Mỹ bắt đầu viện trợ cho Pháp tại Đông Dương. Tháng 6, toán cố vấn Mỹ đầu tiên đến Việt Nam.

Rồi đến năm 1954 định mệnh. Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, trong số binh sĩ tham chiến có phân nửa là lính quốc gia Việt Nam cùng chịu chung phần số hy sinh và thân phận tù binh.Trong số này có trung úy mũ đỏ Phạm văn Phú. Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc. Tháng 6-1954, ông Ngô Đình Diệm từ Mỹ về nước nhận chức thủ tướng. Tháng 7-1954, Geneva quyết định chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, trên con sông Bến Hải giữa nhịp cầu Hiền Lương. Và cái ngày định mệnh của cả dân tộc là ngày 20 tháng 7-1954. Anh, Pháp, Tàu v.v… ký vào hiệp ước cùng với phía cộng sản Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam quốc gia không ký. Thủ tướng Pháp đương thời hứa với quốc dân là hiệp định phải ký xong nội ngày 20 tháng 7-1954. Họp bàn đến nửa đêm chưa xong. Đồng hồ phòng nghị hội cho đứng chết lúc 12 giờ khuya. Tiếp tục họp đến sáng hôm sau. Ký xong rồi cho đồng hồ chạy lại. Ngoại trưởng Việt Nam là cụ Trần Văn Đỗ khóc vì đất nước chia đôi ngay tại hội nghị. Lê Duẩn chỉ huy cộng sản tại miền Nam, đang trên đường ra Bắc chợt nghe tin đình chiến bèn quay trở lại để tiếp tục lãnh đạo công cuộc giải phóng về sau. Từ Hà Nội một số sĩ quan Quốc Gia Việt Nam cùng sĩ quan Pháp tham dự hội nghị Trung Giá để quy định việc đình chiến. Các đơn vị Pháp và tiểu đoàn khinh quân Việt Nam âm thầm rút khỏi Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa, Nam Định để lại sự hoảng loạn đau thương cho nhiều giáo khu Việt Nam tự trị.
Tại miền Bắc, Pháp và phe quốc gia có thời hạn tập trung 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày ở Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng. Tại miền Nam, bộ đội tập kết tại Hàm Tân 80 ngày, Bình Định 100 ngày và Cà Mau 300 ngày.
Ngày nay bao nhiêu người trong chúng ta còn nhớ đến thời kỳ tập kết ở miền Nam và di cư của miền Bắc. Bộ đội miền Nam trước khi ra đi đã phát động chiến dịch gài người ở lại nằm vùng và phong trào lập gia đình ồ ạt để hẹn ngày trở lại hai năm sau hiệp thương và tuyển cử. Trung úy Giao Chỉ tham dự hành quân Tự Do tiếp thu Cà Mau thấy người cộng sản tập kết chào nhau với bàn tay xòe hai ngón hẹn gặp lại sau hai năm, kèm theo khẩu hiệu: Ra đi là chiến thắng, ở lại là vinh quang. Kháng chiến miền Nam ra Bắc để lại những người đàn bà mang bầu trong thôn xóm và súng đạn chôn sau vườn.
Trong khi đó ở miền Bắc cộng sản cố sức cản đường không cho lính quốc gia di tản và ngăn chặn cuộc di cư vĩ đại từ tháng 8-1954. Nhưng phe Quốc Gia vẫn có đủ một triệu người ra đi. Trung úy Vũ Đức Nghiêm, tốt nghiệp khóa 1 Nam Định đã di cư vào Nam cùng đơn vị và gia đình lúc ông hơn 20 tuổi. Từ Phát Diệm, ông đi cùng Tiểu đoàn Khinh quân 711 về Hải Dương rồi rút về miền Nam. Đại úy Lê Kim Ngô di tản trường Công Binh từ Bắc vào Nha Trang và tham dự hành quân tiếp thu Bình Định. Cả hai ông Vũ Đức Nghiêm và Lê Kim Ngô về sau đều có dịp trở về đất Bắc trong lao tù cộng sản trước khi HO qua định cư tại Hoa Kỳ.
Cũng trong đợt di cư theo gia đình công giáo, thanh niên Phạm Huấn 17 tuổi còn nhớ mãi về Hà Nội của tuổi hoa niên. Sau khi ký hiệp ước Paris, thiếu tá VNCH Phạm Huấn có dịp trở về trong phái đoàn chính thức để viết nên tác phẩm “Một ngày tại Hà Nội” vào năm 1973. Sau đó ông Phạm Huấn lại một lần nữa từ biệt Sài Gòn năm 1975. Ngày 7 tháng 7-2004, tôi và đại tá thiết giáp Hà Mai Việt vào thăm Phạm Huấn tại Nursing Home của bác sĩ Ngãi ở khu Tully, San Jose. Sinh năm 1937, người thiếu niên Hà Nội trở thành sĩ quan trẻ trung của Sài Gòn vẫn còn là vị cao niên trẻ nhất của Nursing Home. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.” Phạm Huấn nói rằng nếu có ngày các ông lấy lại được Sài Gòn thì tôi cũng sẽ chơi một chuyến xe lăn về quê cũ. Ông qua đời tại San Jose và chưa một lần trở lại Việt Nam. Nhưng từ tháng 7-1954 cho đến tháng 7-2019 ngày tháng cũng xa rồi mà mộng ước cũng xa rồi. Phạm Huấn và nhà thơ Hoàng Anh Tuấn đều lần lượt ra đi từ San Jose bỏ cả mưa Sài gòn lẫn mưa Hà Nội. Cuối tháng 5-2014, Hà Mai Việt trở lại San Jose ra mắt tác phẩm Cội rễ cuộc chiến Việt Nam, khởi sự từ miền Bắc. Chẳng biết còn ai nhớ được nguồn cơn.

Năm 1954, có cô bé 16 tuổi lên máy bay một mình đi theo gia đình người bạn để vào Nam tìm tự do. Mồ côi mẹ, cha ở lại đi tìm con trai rồi kẹt luôn. Cô bé tên là Nguyễn Thị Chinh và sau này chuyến đi đã đem đến cho miền Nam một đệ nhất minh tinh gọi là Kiều Chinh. Chuyến đi của Kiều Chinh 1954 từ biệt Hà Nội đầy nước mắt chia ly trong tình phụ tử. Năm 1975, Kiều Chinh lại một lần nữa từ biệt Sài Gòn trong một chuyến bay trắc trở vòng thế giới giữa lúc thủ đô miền Nam hấp hối.


Và cũng vào năm 1954, một cô bé 9 tuổi Nguyễn Thị Lệ Mai xuống tàu di cư vào Nam. Sau này cô trở thành ca sĩ tiêu biểu của cuộc chiến lầm than, một đời lưu vong trong một kiếp trầm luân. Tên của người ca sĩ 50 năm hát rong trên khắp địa cầu là Khánh Ly. Năm vừa qua cô về hát lần đầu trên sân khấu Hà Nội. Trải qua 50 năm là biểu tượng chống Cộng bằng ca từ hải ngoại, ngày nay cô đứng hát tình ca cho những khán giả chưa từng quen biết nhưng hết mực yêu thương.
Và cùng với Vũ Đức Nghiêm, Lê Kim Ngô, Phạm Huấn, Kiều Chinh, Lệ Mai còn có Bùi Đức Lạc cũng là thành phần Bắc Kỳ di cư đến tạm trú ở khu Phú Thọ Lều để đến 75 thì trở thành người di tản mang màu áo pháo binh Dù.
Năm 1972 trong nước mắt Hạ Lào, Bùi Đức Lạc nghe Khánh Ly nức nở, đã nói rằng trận liệt mất đường về không phải vì Mỹ bỏ mà tại vì nhạc Trịnh Công Sơn.
Một người khác gốc Phát Diệm đã sớm trở thành dân di cư Hố Nai rồi chuyển qua vượt biên với một vợ 9 con tiếp tục bình tĩnh làm báo hàng ngày tại San Jose. Đó là Ký Còm – Vũ Bình Nghi. Tại sao miền Bắc lại di cư tỵ nạn? Tại sao miền Nam lại di tản vượt biên? Truyền thống của dân Việt là muôn đời sống với lũy tre xanh, với mồ mả tổ tiên, với làng xóm. Vạn bất đắc dĩ phải ra đi mang tiếng tha hương cầu thực nhưng rồi vài năm lại trở về. Quốc văn giáo khoa thư thuở nhỏ đã ghi rằng chỉ có chốn quê hương là đẹp hơn cả.
Trung úy Phan Lạc Tuyên khi tham dự hành quân tiếp thu tại Bình Định đã viết nên bài nhạc bất hủ. Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ. Nhưng chính tại miền quê đơn sơ ở Bồng Sơn này suốt 20 năm chưa bao giờ yên tiếng súng.
Khi người cộng sản nổi dậy với một cuộc chiến toàn diện khốc liệt và quá độ đã triệt tiêu hoàn toàn mọi sự hòa giải trong tình tự dân tộc. Đầu tiên là các dân thành thị, trí thức, tiểu tư sản và tôn giáo phải bỏ Kháng Chiến về thành. Tiếp theo là bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam.
Năm 1954, người Bắc vào Nam đã đánh thức con rồng Sài Gòn tỉnh giấc. Qua những khác biệt ban đầu rồi chuyển đến thời gian hòa hợp. Miền Nam bắt đầu khởi sắc từ ẩm thực đến văn chương báo chí. Từ văn nghệ đến kinh doanh. Và sự hòa hợp không hề có biên giới.
Đại úy Lê Công Danh, gốc công tử Cần Thơ đứng đón di cư ở bến nhà Rồng đã bế luôn cô Bắc Kỳ nho nhỏ tóc demi garcon về làm áp trại phu nhân.
Trung úy công binh Nghiêm Kế, dân chơi Hà Nội phải lên tận Biên Hòa xứ Bưởi cưới cô Bé về làm chính thất, sống 20 năm ở các trại gia binh với 8 đứa con lần lượt ra đời.
Trung úy Giao Chỉ đi chiến dịch Đinh Tiên Hoàng phải xuống tận Rạch Giá để rước về người đẹp xứ Kiên Giang. Sau hơn 60 năm tình cũ, chàng mới nhận ra rằng không phải chỉ Đà Lạt mới có hồ than thở, mà ở miền Hậu Giang cũng có khá nhiều.
Những ông sĩ quan trẻ Bắc Kỳ xấp ngửa vào Sài Gòn đều đem về mỗi ông một cái hồ than thở. Qua đến Hoa Kỳ nàng vẫn còn than thở qua Cell Phone…
Sau những đoạn trường 1954, thì tiếp đến câu chuyện tình Bắc duyên Nam trên mọi lãnh vực. Tất cả cùng nhau xây dựng xong 2 nền Cộng Hòa với một đạo quân đẹp đẽ biết chừng nào.
Cho đến năm 1975 và rồi đến tận ngày nay là 2024, người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi. Từ di tản đến vượt biên, vượt biển, đoàn tụ, HO, con lai.
Tại sao chúng ta lại rời bỏ quê hương?
Một lần đi là một lần vĩnh biệt.
Một lần đi là hết lối quay về.
Năm 1954, khi ra đi dân Bắc Kỳ di cư ít có hy vọng trở về chốn cũ. Bài ca “Hướng về Hà Nội” được hát nỉ non suốt ngày đêm trên Radio. Cho đến khi chính phủ sốt ruột phải ra lệnh cấm. Những cánh bưu thiếp liên lạc Bắc Nam rời rạc được một vài tháng rồi cắt đứt sau hai năm xa cách.
Qua thập niên 60, Hà Nội mở đường dây Ông Cụ, đưa cán bộ vào Nam xây dựng hạ tầng cơ sở và dựng nên cuộc chiến mà ngày nay chính cựu đảng viên cộng sản Dương Thu Hương cũng nhận xét là một cuộc chiến sai lầm, hy sinh quá nhiều sinh mạng và tiềm lực của cả hai miền đất nước.
Hôm nay, nhân dịp ghi dấu 65 năm cuộc hiệp định Genève chia đôi đất nước, chúng ta cùng suy ngẫm về dòng sinh mệnh đã đưa đẩy người Việt lưu vong. Sẽ không thể có được câu trả lời coi như là chân lý cho một vấn nạn lịch sử.
Trong cuộc sống hàng ngày, biết bao nhiêu là điều bí ẩn không hề có đáp số. Tại sao có người hạnh phúc và có người đau khổ? Tại sao có người bị hy sinh và có người tồn tại? Tại sao có người thành công và có người thất bại? Những ngày tháng lịch sử như 20 tháng 7, như 30 tháng 4 chỉ là những dấu ấn trong dòng sinh mệnh của một dân tộc, của một cộng đồng. Đó là ngày của cay đắng nở hoa.
Mới đây các quốc gia văn minh nhất của nhân loại Tây phương kể cả Nga, Đức, Anh, Pháp, Canada, Úc, Mỹ và nhiều nước khác cùng dự lễ kỷ niệm 70 năm đổ bộ Normandie. Bây giờ chúng ta cũng là công dân của một xứ sở văn minh là Hoa Kỳ, hãy cùng nhau nhớ về ngày lịch sử 20 tháng 7 của 70 năm về trước, ghi dấu lịch sử là một cách hành xử của con người văn minh.
Một lần nữa xin nhắc lại 20 tháng 7-1954, 70 năm về trước hiệp định Genève chia đôi đất nước. Một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó dành cho quý vị.
Tiếp theo từ 30 tháng 4-1975 cho đến nay, trên hai triệu người Việt lần lượt ra đi. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó cũng dành cho quý vị.
Tại sao quý vị lại ra đi?
Tại sao lại trở về? Tại sao lại không trở về? Trở về quê hương. Câu hỏi cho cả đời người. Câu hỏi cho cả một thế hệ. Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không?
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết:
Quê hương, mỗi người có một
Như là chỉ một mẹ thôi…
Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không?
Hay là như Vũ Hoàng Chương đã than thở:
Chúng ta là đám người đầu thai nhầm thế kỷ
Quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Có thực sự đau thương như vậy không?
Chúng ta ra đi đem theo quê hương, hay là chúng ta ra đi bỏ lại quê hương? Với con đường an cư lạc nghiệp ở xứ này, phải chăng chúng ta đang sống hạnh phúc với quê hương mới?
Giáo sư Elie Wiesel, người Mỹ gốc Do Thái sinh trưởng ở Romania, nạn nhân của nạn diệt chủng Holocaust được cứu sống lúc 16 tuổi. Nhập tịch Hoa Kỳ năm 1963. Đoạt giải Nobel về Hòa Bình năm 1986, Ông đã nói rằng: Nơi nào tôi sống có tự do và hạnh phúc, nơi đó chính là quê hương.

Nhưng ai đã nói rằng chống Cộng không phải là chống cả quê hương. Dù quê hương cũ hay mới. Giao Chỉ.
20 tháng bảy năm 2014 tôi tổ chức 60 năm đêm giã từ Hà Nội có nhạc sĩ Vũ đức Nghiêm và nhiều bạn Hà Nội tham dự. Năm 2019 tôi tổ chức 65 năm ngày Nhớ về Hà Nội. Các bạn Hà Nội chẳng còn bao nhiêu người. Thay vì nhớ thương thành phố cũ ban đêm thứ bẩy, chúng tôi tổ chức 11 giờ trưa ngày chủ nhật 21 tháng 7 năm 2019 tại nhà hàng Phú Lâm. Không phải chỉ dành riêng cho dân Bắc Kỳ di cư chẳng còn bao nhiêu. Xin mời bằng hữu Trung Nam Bắc một nhà cùng đến với nhau cả thế hệ thứ hai và thứ ba. Nếu ngày quốc hận 30 tháng tư năm 75 còn nhiều thương đau thì ngày quốc hận 20 tháng 7 năm 54 chỉ còn là những kỷ niệm êm đềm của tình Bắc duyên Nam.. Cùng ôn lại chuyện cũ giữa thế kỷ 20 đem qua thế kỷ 21. Chương trình hết sức đơn giản. Nhưng vô cùng ý nghĩa và chan hòa tình cảm. Chúng ta cùng ôn lại những câu trả lời muôn thủa trên đất Hoa Kỳ. Người Việt là ai, tại sao lại đến đây và đã đến vào thời gian nào. Trên báo San Jose Mercury News tuần qua đăng hình hai ông Nhật già danh tiếng của Hoa Kỳ gặp nhau cũng nhắc lại chuyện hai cậu bé cùng gia đình bị giam vào trại tập trung thời kỳ đệ nhị thế chiến. Về sau một ông trở thành thị trưởng San Jose rồi lên bộ trưởng giao thông thời tổng thống Bush. Một ông trở thành dân biểu liên bang. Để trả lời cho tuổi trẻ của thế hệ tương lai, cả hai ông Nhật đều nói rằng. Làm gì thì làm các bạn phải luôn luôn biết mình là ai.? Như vậy là sau bao nhiêu năm tung hoành trên chính trường Hoa Kỳ, lúc về già ông bộ trưởng Mineta và ông dân biểu Honda mới chợt nhớ mình là Nhật Bản. Với 70 năm nhớ về cuộc di cư 1954. Với 49 năm nhớ về cuộc đổi đời 1975. Chúng ta dù đã trở thành người Mỹ nhưng luôn luôn phải nhớ mình thực sự là ai.


Giao Chỉ San JoseBài này viết tặng nhà tôi. Cô gái học sinh Kiên Giang có đủ can đảm đi theo anh trung úy Bắc Kỳ đồn trú tại Cà Mau và trên khắp chiến trường miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Thế giới biết bao người mà sao anh chỉ thấy có mình em. Bà già 87 tuổi còn thắp hương tháng tư và nhỏ lệ tháng 7.
Hãy đem đình làng Đình Bảng Hà Nội đến cạnh Việt Museum tại San Jose USA

From Mr.  VanMoch 


No comments:

NGƯỜI CŨ

Biết Người, Biết Mình. Trăm Trận, Trăm Thua! Tôi trang điểm xong và sửa soạn thay váy áo chỉnh tề mà lòng vừa rộn ràng vừa hồi hộp.