| Học giả này cũng phân tích những điều sai trái, ngang ngược, vô lý
trong lập trường, chủ trương, yêu sách của chính phủ Trung Quốc về biển
Ðông. Tiền Phong trích dịch một số đoạn:
Vấn đề Nam Hải (biển Ðông)
Cái gọi là vấn đề Nam Hải, bao gồm vấn đề Tây Sa (tức Hoàng Sa) và
Nam Sa (tức Trường Sa), chủ yếu là vấn đề Nam Sa, rốt cục là như thế
nào? Ai là người đầu tiên tuyên bố Nam Hải là lãnh hải của Trung Quốc?
Căn cứ vào đâu mà tuyên bố?
Hoàng đế Thanh triều đến lãnh thổ trên bộ còn không giữ được, thật
khó nói có biết đến chuyện lãnh hải hay không, đương nhiên không biết
yêu cầu về quyền lợi biển.
Sau khi chính phủ Dân quốc thành lập, chẳng được mấy ngày bình yên,
hết nội chiến lại đến ngoại họa, sau đó là Ðại chiến thế giới, may mà
đứng về phía bên chiến thắng, nên mới có vấn đề Nam Sa. Nếu đứng về bên
thua trận thì ngày nay làm gì có tư cách bàn đến vấn đề này.
Năm 1946, Lâm Tuân dẫn hạm đội đi thu phục các đảo. Nói là thu phục,
nhưng theo tôi, đúng ra là tiếp thu tài sản của kẻ thất bại. Có một số
đảo thực ra không biết là của ai, Nhật Bản chiếm, rồi thua trận đem dâng
cho ta, dĩ nhiên ta vui vẻ nhận.
Ði cùng hạm đội có một ông quan cấp vụ trưởng ở Bộ Ðịa chất Khoáng
sản vung bút vẽ đại một Ðường đứt khúc 9 đoạn hư ảo thành cái túi to
tướng. Cái túi đó lớn đến mức bản đồ của ta phải vẽ thêm một ô phụ ở góc
để thể hiện nó. Sau khi quay về, in vào bản đồ chính phủ Dân quốc, đem
công bố, thế là ra đời một đường biên giới…
Nhưng cái Ðường 9 đoạn hư ảo đó thực tình vẽ quá mức, cơ bản đều vẽ
sát vào bờ biển nhà người ta. Người ta giải quyết xong chuyện trong nhà,
đương nhiên phải ra mặt có ý kiến.
Thế là vấn đề Nam Hải càng ngày càng gay gắt. Cái Ðường 9 đoạn hư ảo
ấy rốt cục là đường gì? Nó không phải là đường cơ bản lãnh hải, cũng
không phải là đường lãnh hải.
Rút cục nó có ý nghĩa pháp lý gì? Trong nhà chúng ta cũng thấy rất
khó xử, cho nên năm 1995 khi công bố đường cơ bản lãnh hải đã không hề
đề cập đến nó…
Quan điểm của tôi là: thực chất của vấn đề Nam Sa làtranh. Về mặt
pháp lý, quả thực có vấn đề. Nhưng mạnh thì ra tay trước, tranh được bao
nhiêu hay bấy nhiêu…
Trung Quốc thực sự có quyền lợi không thể tranh cãi ở Nam Hải không?
Nói đến quyền lợi ở Nam Hải, chúng ta thường thích nói một câu là: từ
xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ
“thiêng liêng”.
Ðó chính là cái gọi là chứng cứ lịch sử… Nhưng những chứng cứ đó có ý
nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại… Chứng cứ thật sự có
sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực tế.
Anh nói chỗ đó là của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa? Người ở
đó có phục tùng sự quản lý của anh không? Có phải người khác không có ý
kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh
thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta đã không có được điều đó…
Vào thời nhà Thanh (đời Hàm Phong hoặc Ðồng Trị), có một chiếc tàu
hàng Pháp chở đồng đi qua vùng biển Tây Sa thì gặp cướp biển, bị cướp
sạch.
Theo quy tắc vận tải hàng hóa trên biển, họ phải đến gặp chính quyền
sở tại để trình báo, đề nghị giúp bắt bọn cướp, đồng thời xin chính
quyền nơi đó xác nhận làm bằng cứ để khi về báo cáo với chủ hàng và đòi
hãng bảo hiểm bồi thường.
Viên thuyền trưởng người Pháp đưa tàu chạy đến cảng gần nhất là Du
Lâm ở đảo Hải Nam, trình báo với tri phủ (có lẽ là tri huyện) địa
phương.
Viên quan địa phương đó nói với thuyền trưởng Pháp: “Nơi chúng ta
đứng đây có tên làThiên Nhai Hải Giác (chân trời góc biển). Ðất của
Thiên triều đến đây là hết rồi. Chuyện ông bị cướp ngoài biển biết là ở
chỗ nào? Ông bị cướp, chúng tôi không chịu trách nhiệm, không quản được
và cũng không muốn quản”.
Thế rồi tống cổ tay thuyền trưởng bị cướp ra khỏi nha môn. Nhưng sự
kiện đó cần phải có cái kết, nếu không về Pháp biết ăn nói ra sao? Viên
thuyền trưởng đành phải cho tàu chạy vào cảng Hải Phòng.
Quan chức địa phương ở đó rất tốt, xác nhận cho ông ta, lại còn cho tàu ra chạy lòng vòng, coi như đã truy bắt cướp.
Ðó là chứng cứ gì? Ðó chính là chứng cứ về kiểm soát và quản lý thực
tế. Chứng cứ này nói lên: chính phủ Trung Quốc ngay từ thời triều Thanh
đã không thừa nhận Tây Sa là lãnh thổ của mình, cũng không đảm trách
công tác trị an ở đó.
Còn chính quyền Việt Nam khi đó không những đã cho rằng Tây Sa là
lãnh thổ của họ, mà còn thực thi công tác giữ gìn trật tự ở đó.
Ðiều đó chả phải đã chứng minh Tây Sa từ xưa đến nay đều thuộc về
Việt Nam hay sao? Nếu bạn là đại biểu đàm phán của Trung Quốc, được huấn
luyện đầy đủ về luật biển và luật quốc tế, trước những chứng cứ như thế
thì phải làm thế nào? Thật là muốn có cỗ máy thời gian để quay trở lại
thời đó bóp chết viên tri phủ kia!...
Cái Ðường đứt khúc 9 đoạn kia rốt cục có ý nghĩa thế nào về pháp
luật? Là lãnh hải? Là vùng biển quần đảo? Hay là vùng biển lịch sử?
Chẳng ai biết được! Trước hết, có thể là lãnh hải không? Không thể!
Quyền lực của một quốc gia đối với biển bắt nguồn từ lục địa (đất liền),
cũng tức là quyền về biển bắt nguồn từ quyền về lục địa.
Muốn xác định lãnh hải, trước hết cần xác lập đường cơ bản lãnh hải.
Muốn có đường cơ bản, trước tiên phải xác định các điểm cơ bản, đó phải
là các đảo và lục địa không có tranh cãi về chủ quyền, khoảng cách giữa
các điểm cơ bản không được quá 24 hải lý.
Ðiểm chặt chẽ nữa là trên đảo phải có đủ điều kiện để con người sinh
sống. Vậy Nam Sa có điểm nào phù hợp? Sách giáo khoa của ta nói đến “các
đảo Nam Hải” đều có một câu “phía Nam kéo dài đến bãi cát ngầm Tăng
Mẫu”.
Bãi cát ngầm, bãi đá ngầm không nhô khỏi mặt nước, đất còn chả có,
nói gì đến quyền về biển? Câu đó về mặt pháp lý là không trụ vững được.
Thế nhưng từ khi triều đại hiện nay lập quốc, chúng ta đã cứ giáo dục
quốc dân như thế.
Nay đột nhiên nói câu đó không ổn về mặt pháp lý, quốc dân không chấp
nhận được, chúng ta đành phải chơi trò rùa rụt đầu lại, không nêu lên
nữa là xong.
Vùng nước mà Ðường đứt khúc 9 đoạn bao bọc chắc chắn không phải là
lãnh hải. Vậy thì phải tìm lý do khác. Nhiều đảo như thế, liệu có thể
gọi là vùng biển quần đảo được không? Indonesia được thì chúng ta cũng
là một quốc gia ngàn đảo được chứ! Vùng biển quần đảo là vùng biển chủ
quyền được Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 thừa nhận.
Căn cứ Công ước, cấu thành vùng biển quần đảo cần phải hội đủ mấy
điều kiện. Thứ nhất, tỷ lệ diện tích vùng nước và diện tích lục địa (bao
gồm các bãi san hô) phải đạt được từ 1:1 đến 9:1.
Thứ hai, độ dài đường cơ bản không được quá 100 hải lý, cho phép quá
3% thì cũng không được quá 125 hải lý. Các đảo Nam Sa vừa nhỏ, lại cách
nhau quá xa, không thể đạt được hai tiêu chí đó.
Nếu chúng ta cứ cố tuyên bố đường cơ bản thì một rắc rối nữa lại xuất
hiện: sau khi xác định đường cơ bản thì vùng biển phía trong nó trở
thành nội thủy, phía trên nội thủy là vùng trời chủ quyền.
Về nguyên tắc, tàu thuyền nước ngoài, trong đó có tàu quân sự đều
không được tự do qua lại. Muốn qua lại phải thông báo trước, phải được
phép, phải nổi trên mặt nước, treo cờ, đi nhanh, không được dừng máy,
không được thả neo, căng thẳng ra thì bắt giải giáp vũ khí.
Muốn tránh những rắc rối đó thì phải thiết lập hành lang hàng hải và hàng không để tàu thuyền, máy bay nước ngoài qua lại...
Chúng ta có thể tuyên bố Nam Sa là “vùng biển lịch sử” của mình.
Nhưng làm sao các nước xung quanh lại không có phản ứng? Mấy cường quốc
biển và vận tải biển như Mỹ, Nhật Bản sẽ đều chất vấn: “Nghe nói các ông
muốn tuyên bố đây là vùng biển lịch sử? Thế từ nay về sau, chúng tôi
qua đây đều phải báo cáo, xin phép các ông à?”.
Nơi này vốn là tuyến hàng hải quốc tế quan trọng, mỗi ngày có hàng
ngàn tàu thuyền qua lại. Nếu tuyên bố đây là vùng biển lịch sử, việc
quản lý nó giống như quản lý nội thủy, không chỉ quản mặt biển mà còn
phải quản cả vùng trời, lại còn phải quản lý theo luật trong nước, mọi
quyền sinh quyền sát đều trong tay ta, muốn bắt thì bắt, muốn xử thì xử;
không nói đến tàu quân sự, các tàu hàng, tàu khách đi qua đều không yên
tâm... Nếu cứ cố tuyên bố thì chắc chắn ta sẽ trở thành kẻ thù chung
của cả thế giới.
TH (Nam Yết chuyển) | | |
No comments:
Post a Comment