Saturday, February 22, 2014

KHÔNG MỘT LỜI THAN THỞ Giao Chỉ, San Jose.

 Chẳng bao giờ cạn đề tài.
      Năm mới bạn hỏi tôi sao ông tìm đâu ra chuyện mà viết mỗi tuần. Đáp rằng viết về con người và chuyện đời thường thì nghìn năm không hết chuyện. Lại hỏi rằng sao ông viết toàn về tướng lãnh, viết toàn về thượng cấp. Từ quốc trưởng, đại tướng cho đến thủ tướng. Cãi lại ngay. Mới đây viết bài về người lính không có số quân là phóng viên chiến trường Nguyển Cầu. Tuần trước viết bài tiễn đưa người lính không có đơn vị là ký giả Cao Sơn. Đó là 2 anh chàng đặc biệt của cộng đồng ta ở San Jose mà khi các anh đi rồi quả thực không có người thay thế.

       Rồi mùa nào thức ấy, tôi viết về 19 tháng 6, về 30 tháng 4, về ngày lễ độc lập của Mỹ, ngày của các tổng thống Hoa Kỳ. Tôi cũng viết về văn nghệ, về các sách xuất bản. Chẳng bao giờ cạn đề tài. Duy có một điều đáng lưu ý là tác giả vẫn luôn luôn hướng về cái tôi rất đáng ghét. Museum của chúng tôi. Cơ quan của chúng tôi. Cộng đồng của chúng tôi. San Jose của chúng tôi. Bằng hữu của chúng tôi. Khóa của chúng tôi. Vân vân.
        Những điều bất tiện đó chính là những bài tự ca nhàm chán mà đôi khi chính các ông chủ báo đăng bài cũng phải đại xá mà cho in.
       Bây giờ lần này, chúng tôi cũng lại xin viết thêm về câu chuyện  ông bạn cùng khóa của chúng tôi.
Bao nhiêu gian khổ trần gian.                                                                  Trong số anh em cùng khóa Cương Quyết Đà Lạt 54, một số ít sống còn và chạy thoát năm 75, còn lại đa số tù đầy và dù qua được Hoa Kỳ thì cũng đã trải qua rất nhiều gian khổ. Nếu phải xếp hạng 10 anh vất vả nhất thì nhà thơ Đông Anh, Nguyễn đình Tạo nằm trong số “Top ten”.
        Trước hết phải nói qua về khóa Cương Quyết. Nếu bạn gặp ông Hùng Xùi ở Milpitas, người sẽ phát ngôn rằng bọn chúng tôi là Cương Quyết giả. Nguyễn mộng Hùng vào trường 1953 mới là khóa Cương quyết thực. Đó là khóa Tư Thủ Đức. Hùng Xùi đã nói cho bà Ngô  quang Trưởng biết. Chị biết không, tôi nằm giường trên. Trưởng nằm giường dưới. Ra trường cùng đi nhẩy dù. Cùng đội mũ đỏ. Số nó làm tướng. Còn tôi vẫn là Hùng Xùi. Đó là ý kiến của phe Cương Quyết chính gốc. Tuy nhiên nói gì thì nói. Khóa của chúng tôi là Cương Quyết số 2, tức là khóa Tư phụ. Sau khóa chính đã đành, lại thuộc về thành phần gửi qua học bên Đà lạt. Đã là Cương Quyết giả, lại thêm qua làm con nuôi trường Đà Lạt. Anh em Đà lạt chính gốc oai hùng cũng coi chúng tôi là Đà Lạt giả.
       Dù là Cương Quyết phụ hay Đà lạt giả thì khóa chúng tôi cũng nỗ lực kết đoàn và xây dựng cho nhau để trở thành 1 khóa tên tuổi. Ngay từ đầu thập niên 80 đã sớm thành lập hội. Anh chị em ta đến với nhau tại hải ngoại và gửi quà về thăm nuôi các bạn ở quê nhà. Qua thập niên 90, bạn cùng khóa ra tù cũng theo chân hải ngoại mà cả gan họp khóa ngay tại Việt Nam.Lúc đó Nghiêm Tôn làm hội trưởng chui. Anh chị em họp lần nào cũng có đại diện từ Mỹ về tham dự.
Tiếp theo anh thì vượt biên anh thì HO lần lượt qua Mỹ gần đủ mặt.
       Đại hội vĩ đại rực rỡ tên vàng khóa chúng tôi tổ chức vào năm 2004 kỷ niệm 50 năm. Đầy đủ 8 trung đội trình diện. Các lữ đoàn trưởng nhẩy dù và TQLC đánh trận Quảng trị cùng với các bạn hiện diện trên khắp quân khu, khắp chiến trường, đủ mặt anh hùng. Chúng tôi tưởng rằng thế mạnh như vậy, càng về sau sẽ càng ngon lành hơn. Tưởng vậy mà không phải vậy. Cuối năm 2013 tôi qua Úc họp khóa với anh em, tổng cộng chỉ hiện diện còn có 2 người. Còn 2 bạn xa họp qua điện thoại. Tết năm 2014 tôi xuống Nam Cali đại hội toàn khóa Cương Quyết Đà Lạt để kỷ niệm 60 năm vào trường. Hình ảnh rầm rộ tươi vui của 10 năm trước không còn nữa. Hiện diện toàn khóa năm xưa hơn 300 sinh viên sĩ quan quê Hà Nội, bây giờ chỉ về họp mặt có 8 gia đình. Trong số này có 4 đơn vị đã là góa phụ. Chụp hình kỷ niệm xong, chúng tôi còn phải đi ra nghĩa trang chụp hình mộ bia của 5 anh bạn để có đủ danh sách 1 tiểu đội Cương Quyết Đà Lạt 1954.
        Chính vì hình ảnh họp khóa miền Nam kỷ niệm 60 năm rất thiếu quân số nên chúng tôi muốn tổ chức thêm buổi họp tại miền Bắc. Thực may mắn đầu tháng 3-2014 ông bạn Nguyễn đình Tạo tổ chức ngày xum họp gia đình, anh em chúng tôi xin họp khóa ké vào ngày riêng tư của bạn Tạo để có dịp gặp nhau cho trọn tình đồng khóa. Gia đình ông họp mặt đãi cơm Tàu chín món mà lại không chào bàn. Anh em tham dự không cần chuẩn bị bao thơ. Bà con thân hữu đáp ứng từ Hà Đông mà lên đến Lâm Đồng, Đà Lạt. Từ quận nhất Sài gòn đến quan quận của 3 chi khu miền duyên hải. Quận Nhơn ngồi với quận Hùng.Toàn là bạn Cương Quyết của một thời khói lừa.
        Bây giờ rất cần giới thiệu với bà con về khổ chủ là một nhà thơ của chúng tôi. Cũng như đa số Cương Quyết Đà Lạt, bạn Nguyễn đình Tạo  quê huyện Đông Anh, Bắc Kỳ. Một thân một mình vào Đà Lạt 1954 và từ đó theo quân đội miền Nam. Quê hương miền Bắc mịt mù xa thẳm suốt 21 năm. Cho đến thời kỳ 70, trung tá Tạo từ liên đoàn trưởng địa phương quân qua làm quận trưởng Bảo Lộc. Ngày đứt phim, ông đi cùng toàn bộ gia đình bên vợ và binh sĩ di tản về Hàm Tân, rồi qua Vũng Tàu. Đơn vị tan hàng, gia đình ông gồm có vợ con cùng với đại gia đình bên vợ cứ nấn ná, chần chừ, chờ đợi. Mất hẳn cơ hội di tản sau cùng tại Vũng Tàu.. Ông Tạo nói rằng rất xui là ông không gặp bạn cùng khóa Ngô quang Thiều. Nếu gặp thì ông đã đi cùng với tiểu đoàn 5 nhẩy dù cùng lúc với anh Thiều đang chỉ huy hậu cứ. Vì vợ con nên cơ hội bỏ qua, cộng sản bèn bỏ tù ông quận Tạo 9 năm dài. Trong tù, thi sĩ Đông Anh gặp lão thi sĩ Hà thượng Nhân, được tặng câu thơ bất hủ :"Những mái đầu rất cao, không một lời than thở." Dù rằng cụ Nguyễn Bính cũng đã viết rằng: "Bao nhiêu đau khổ ở trần gian, trời đất dành riêng để tặng chàng"
 Không một lời than thở
            21 năm quân ngũ, dù vất vả nhưng vẫn còn nhiều giây phút vinh quang. Chín năm tù ngục mới quả thực là nín thở qua sông. Nhưng qua được con sông, bạn tù khi tự do còn tìm được chút hạnh phúc gia đình. Anh Tạo không may mắn như vậy. Khi được thả về Sài Gòn người vợ năm xưa đã lỡ bước sang ngang. Chàng trai xứ Đông Anh chỉ còn một con đường đi tới. Anh chọn đứa con nhỏ thương yêu nhất đi theo. Anh chọn con đường gian khổ nhất để lên đường. Ngồi tù 9 năm, duyên phận bạc bẽo chẳng còn gì để mất. Cha con đi đường bộ qua Cam Bốt. Chuyện vượt biên đường biển, có người đi lại 10 lần. Đi đường bộ mười phần chết chín. Đi không thoát mà trở về thì không ai còn can đãm đi qua cánh đồng chết xứ Cam Bốt lần thứ hai. Chuyến đi thất bại, bố con dẫn nhau về. Lần sau đi đường biển. Cậu con bé dại cũng biết sợ nên không đi. Ai ngờ kỳ này bố đi thoát. Qua đảo rồi qua Mỹ báo tin về. Thằng con bé nhỏ bèn theo người ta xuống tàu. Suốt 5 năm dài, ông Tạo theo dõi tìm con. Sau cùng đành tin rằng cả con tàu chìm ở biển Đông. Niềm hy vọng sau cùng của ông Tạo nằm dưới đáy biển. Ôm mối đau thương mất đứa con thông minh đẹp đẽ nhất. Đứa con út của ông quận Bảo lộc. Trải qua 5 năm đầu tại Hoa Kỳ, thương con quay quắt, ông sống cô đơn tìm về sinh lộ.
     Ông Tạo ngược xuôi dọc duyên hải Cali Nam Bắc rồi lên cả Seatle, Porland. Ông tìm cách làm đủ mọi nghề. Những ngày mưa sớm rét mướt ông đi bỏ báo. Thiên hạ bỏ báo có vợ con phụ việc xếp báo, ném báo. Ông đi 1 mình. Những ngày nắng ông làm nghề giặt ủi. Cầm bàn ủi quay mặt vào tường xem ra hơi chán. Ông muốn lấy chổ quay mặt ra đường. Anh thợ Mễ giơ 2 ngón tay ra dấu phải thâm niên 2 năm công vụ mới được chọn chỗ ngó ra cửa sổ.
       Ông nhớ đàn con nheo nhóc ở Việt Nam nhưng vẫn phải chờ cho đủ 5 năm mới được lập hồ sơ đoàn tụ.
Một đời đoàn tụ
        Khi ông trời ngó lại, ông quận Tạo sống đủ 5 năm vất vả rồi cuộc đời chuyển ra giai đoạn mới. Về công việc ông trở thành cán sự xã hội, về tình duyên ông gặp lại người bạn xưa từ Đà lạt, về thời gian những lá đơn đoàn tụ đầu tiên được phép gừi đi.
        Anh em chúng tôi họp khóa tại quận Cam. Một lễ cưới hết sức đơn giản hình thành. Ông cựu trung tá quận Bảo Lộc đãi trà Lâm Đồng, giới thiệu người cũ Đà Lạt hôm nay là tân giai nhân. Thay vì tiệc cơm tàu 9 món, chúng tôi ăn cơm hộp vào buổi trưa hè. Nhà thơ Đông Anh bây giờ có nàng thơ Đông Em đứng bên cạnh.
        Bỏ lại 21 năm chinh chiến địa phương quân. Bỏ lại 9 năm ngục tù tăm tối. Bỏ lại những chuyến vượt biên vượt biển. Bây giờ ông làm huấn đạo cho dân tỵ nạn, ông làm thơ tình và ông bắt đầu công việc dài hạn là làm đơn đoàn tụ.
       Để có thể đem được toàn thể con cái qua Mỹ, ông đã lần lượt chờ đợi suốt 25 năm. Từ cuối thế kỷ 20 cho đến đầu thế kỷ 21, những đứa con lần lượt qua hết, Đứa độc thân, đứa có gia đình con cái. Tuy nhiên phước bất trùng lai, họa vô đơn chí! Người con trai lớn của ông, niềm hy vọng sau này quyền huynh thế phụ, thay cha mà trông nom các em. Anh con trai đoàn tụ sớm, nhưng mấy năm trước lại qua đời vì ung thư. Thi sĩ Đông Anh có bài thơ khóc con hết sức cảm động. Lá vàng khóc lá xanh.
Toàn gia xum họp
       Nhưng hôm nay là câu chuyện có hậu. Toàn gia họ Nguyễn quê gốc Đông Anh đoàn tụ. Ông Tạo tâm sự là đời tôi khá lên từ ngày lấy nhà tôi hiện nay. Gia đình ông với trên 15 người đoàn tụ. Tất cả đều ở vùng San Jose. Nhà nào cũng có con. Lại có đưa có cháu, gọi là chắt của ông bà.
       Con chắt gái năm nay 3 tuổi. Cháu đại diện cho thế hệ thứ ba. Xem ra như vậy, ông Tạo ngày nay không có điều gì phàn nàn.
       Cụ Hà thượng Nhân ra đi mấy năm trước, để lại cho ông Đông Anh và các bạn thi đàn Lạc Việt 2 câu thơ tuyệt vời:
                    Những mái đầu cất cao, Không một lời than thở.
 Nhưng ông Đông Anh không than thở thì lại đến bà Đông Em thở than.
                    Nhà em không làm ăn gì cả
                    Suốt ngày chỉ thơ thẩn
                    Chết em rồi

                                       Giao chỉ , San Jose     

No comments: