Sau khi Trung Cộng dùng binh lực cướp quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam tháng 1 năm 1974, rồi bộc lộ tham vọng muốn độc chiếm Biển Đông, nhiều cuốn biên khảo về Hoàng Sa, Trường Sa, các đảo, các bãi đá, tài nguyên, cùng tình trạng pháp lý trên Biển Đông đã được học giới quốc tế soạn thảo. Hầu hết tác giả các sách ấy là những nhà nghiên cứu dân sự. Năm 2001, một Hải quân Đại tá của Hoa Kỳ, giáo sư tại National War College ở Washington, DC là Đại tá Bernard D. Cole cho xuất bản cuốn The Great Wall at Sea để trình bày những nghiên cứu của ông về hải quân Trung Cộng. Cuốn sách rất được chú ý và đã Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Annapolis, Maryland tái bản với những cập nhật cần thiết năm 2010. Nhưng nội dung cuốn ấy cũng chỉ trình bày chính sách bành trướng của Cộng sản Trung Hoa một cách khái quát, rồi đến việc tổ chức hải quân, các loại tàu, tàu ngầm, máy bay yểm trợ, các loại võ khí. Sang lãnh vực nhân sự, cuốn sách nói tới cơ cấu tổ chức, các chuyên viên, việc huấn luyện, và thể thức điều động của hải quân Trung Cộng.
The Great Wall at Sea: China’s Navy in the 21st Century
2nd ed. Annapolis, MD : Naval Institute Press, 2010
Qua hai năm 2013 và 2014, hai cuốn sách về các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa được Đại học Chiến tranh của Hoa Kỳ (U.S. Army War College) phối hợp với Viện Nghiên cứu Chiến lược (Strategic Studies Institute, thường được viết tắt là SSI) ở Carlisle, Pennsylvania xuất bản. Tác giả các cuốn ấy là cựu Trung tá Không quân Claren J. Bouchat. Trung tá Bouchat từng phục vụ tại nhiều nhiệm sở khác nhau ở Á Đông, sau khi về hưu cũng trở thành giảng sư tại U.S. Army War College. Ông cũng dạy địa dư cùng Đông-Á học (East Asia Studies) tại University of Maryland và U.S. Air Force Academy ở Colorado.
1. The Paracel Islands and U.S. Interests and Approaches
in the South China Sea
(Carlisle, PA : U.S. Army War College& Strategic Studies Institute, 2014)
2. Dangerous Ground: The Spratly Islands and U.S. Interests and Approaches
(Carlisle, PA : U.S. Army War College& Strategic Studies Institute, 2013)
Như nhan đề đã ghi rõ, mục tiêu của hai cuốn biên khảo trên là quyền lợi của Hoa Kỳ (“U.S. interests”). Sau khi trình bày lý lẽ của các phe tranh chấp cùng hiện trạng của việc chiếm giữ, tác giả chỉ cho biết đó một vùng “nguy hiểm.” Quyền lợi chính của Hoa Kỳ là tự do lưu thông. Tác giả gợi ý chính phủ Mỹ chỉ nên giữ vai trò một trung gian hòa giải và hàn gắn (a conciliator), một trọng tài vô tư, một người giữ thăng bằng (an honest broker, balancer), hai điều rất khó thực hiện trước tham vọng bành trướng quá đáng và thái độ càng ngày càng hung hăng của Trung Cộng. Hai cuốn sách trên đã được thực hiện thành e-book và có thể đọc dưới dạng PDF tại những trạm nối sau:
http://ssi.armywarcollege.edu/pdffiles/pub1207.pdf
http://ssi.armywarcollege.edu/pdffiles/pub1187.pdf
Trong năm 2011, một cuốn nghiên cứu nữa về hải quân Trung Cộng được Trung tâm Nghiên cứu về Quân vụ Trung Hoa (Center for the Study of Chinese Military Affairs) và Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia (Institute for National Strategic Studies) thuộc Đại học Quốc phòng của Hoa Kỳ (U.S. National Defense University) đồng xuất bản. Nhan đề cho thấy các tác giả đi sâu hơn vào một số vấn đề cụ thể: The Chinese Navy: Expanding Capabilities, Evolving Roles—Senkakus, Taiwan, Diaoyu, Paracel, Spratly Islands nhưng nội dung vẫn là những phân tích tổng quát. Đúng ra, đây là bản cập nhật và bổ túc những bài thuyết trình mang tính cách lịch sử và nghiên cứu kỹ thuật được tổ chức ở Đài Bắc năm 2007. Thuyết trình đoàn gồm một số nhà lãnh đạo của hải quân Hoa Kỳ: hai cựu Đề đốc (Rear Admiral), một cựu Hải quân Đại tá (Navy Captain), có người từng làm Tùy viên Quân sự tại tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Bắc Kinh, có người từng là Giám đốc sở Chính sách Đông Á Châu (East Asia Policy) thuộc Bộ Quốc phòng, hoặc Giám đốc về Chiến lược, Kế hoạch Chiến tranh và Chính sách (Strategy, War Plans and Policy) tại Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ (U.S. Pacific Command). Cũng có những bài thuyết trình của một số trí thức, học giả dân sự phục vụ trong ngành Quốc phòng, như một vị Tiến sĩ về Bang giao Quốc tế tại Đại học Princeton, đảm nhận chức Giám đốc Nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc gia tại Đại học Quốc phòng (Director of Studies, Institute for National Strategic Studies at U.S. National Defense University). Trong sách cũng có một bài thuyết trình của vị Thứ trưởng đặc trách Chính sách (Deputy Minister for Policy) tại Bộ Quốc phòng của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan. Cuốn sách chỉ đưa ra những đề nghị rất ôn hòa cho chính phủ Hoa Kỳ. Trong phần kết luận bài thuyết trình của mình, Đề đốc Michael McDevitt chỉ dự phóng chính phủ Hoa Kỳ sẽ làm đủ mọi cách để khả năng của mình tại phía Đông Á Châu lúc nào cũng ngang bằng hoặc trội hơn khả năng của Hoa lục. Trong khi ấy, Đề đốc Eric A. McVadon đề nghị hải quân Hoa Kỳ dùng lực lượng mạnh mẽ của mình để ngăn ngừa, giúp đỡ, bảo vệ, và cộng tác (deter, assist, protect, and cooperate), tránh vận dụng khả năng chiến đấu một cách không cần thiết. Ông dẫn quan niệm của Tôn Tử đối với chiến tranh: cuộc chiến tranh chắc chắn thắng là cuộc chiến tranh không cần đánh.
Hai ấn bản khác nhau của The Chinese Navy: Expanding Capacities,
Evolving Roles—Senkakus, Taiwan, Diaoyu, Paracel, Spratly Islands
(Washington, DC : US Department of Defense, 2011)
Cuốn sách có thể đọc dưới dạng PDF tại trạm nối sau đây:
http://ndupress.ndu.edu/Portals/68/Documents/Books/chinese-navy.pdf
Một thay đổi đáng chú ý xuất hiện trong một tài liệu nghiên cứu công phu được thực hiện năm 2014. Đó là cuốn China versus Vietnam: An Analysis of the Competing Claims in the South China Sea (Trung Hoa đối chiếu với Việt Nam: Phân tích những tranh chấp chủ quyền trong biển Nam Trung Hoa). Tác giả của bản nghiên cứu ấy là Hải quân Đại tá Raul (Pete) Pedrozo, sau khi về hưu là giáo sư về Quốc tế Công pháp (International Law) tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Ông cũng là Chuyên viên Pháp lý tại Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, và là Phụ tá đặc biệt của vị Thứ trưởng đặc trách về Chính sách tại Bộ Quốc phòng (Special Assistant to the Under Secretary of Defense for Policy). Đây là một bản phân tích trên khía cạnh pháp lý (legal analysis), được thực hiện theo chỉ định, là một phần của một dự án kế hoạch lớn hơn, có nhan đề “U.S. policy options in the South China Sea” (Những lựa chọn khác nhau về chính sách của Hoa Kỳ trong biển Nam Trung Hoa). Bản nghiên cứu ấy được Center for Naval Analyses (CNA) phổ biến một cách không giới hạn tới công chúng (distribution unlimited, for public release) tháng 8 năm 2014.
China versus Vietnam: an Analysis
of the Competing Claims in the South China Sea
(Arlington, VA : Center for Naval Analyses, 2014)
Trong bản nghiên cứu dày 132 trang khổ giấy văn kiện (8 ½ x 11), Giáo sư Pedrozo phân tích những đòi hỏi chủ quyền của Trung Hoa rồi tới của Việt Nam. Với mỗi phía, ông cân nhắc các chứng cớ lịch sử, đối chiếu lý lẽ được đưa ra với sự thật, xem xét việc khai thác và phát triển về kinh tế, tìm hiểu khả năng quản trị một cách hiệu quả (effective administration), rồi đến sự công nhận của cộng đồng quốc tế (international recognition). Phát hiện của ông được tóm lược trong phần kết luận như sau:
“Dựa vào những lý luận và chứng cớ do các bên đòi chủ quyền đưa ra và theo nguyên tắc chung của công pháp quốc tế liên quan đến việc thủ đắc lãnh thổ, có vẻ là việc đòi chủ quyền của Việt Nam với những đảo ở biển Nam Trung Hoa ở cấp ưu việt hơn (superior) một cách rõ ràng.
Chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Paracels (= Hoàng Sa) có nền tảng chắc chắn trong lịch sử và theo pháp lý. Từ đầu thế kỷ 18, Việt Nam đã biểu lộ một ý định rõ rệt cho việc thiết lập chủ quyền trên các đảo qua sự thành lập một công ti do chính phủ bảo trợ để khai thác và quản trị các tài nguyên trên quần đảo ấy. Ý định đó được xác nhận qua việc sáp nhập các đảo và qua những hành động tượng trưng biểu lộ chủ quyền đầu thế kỷ 19, tiếp theo là sự quản trị các đảo một cách hòa bình, hiệu quả, và liên tục trong triều Nguyễn cho tới thời thuộc Pháp. Nước Pháp tiếp tục nhân danh Việt Nam quản trị các đảo, thực sự nắm chủ quyền và đóng giữ trong thập niên 1930. Sau đó, Pháp tiếp tục xác nhận chủ quyền trên quần đảo Paracels cho đến khi rời khỏi Đông Dương năm 1956. Sau khi Pháp rút đi, Nam Việt Nam (sau đó là Việt Nam thống nhất) quản trị các đảo một cách hiệu quả, không bao giờ ngưng xác nhận chủ quyền của mình trên quần đảo ấy, ngay cả sau khi Trung Hoa chiếm cứ một cách bất hợp pháp một phần của quần đảo năm 1956 và toàn thể quần đảo năm 1974.
Mặt khác, mãi đến năm 1909, việc chứng tỏ chủ quyền của Trung Hoa với quần đảo Paracels mới diễn ra lần đầu tiên, hai thế kỷ sau khi Việt Nam đã thiết lập chủ quyền trên các đảo một cách hiệu quả và hợp pháp. Thêm vào đó, việc Trung Hoa chiếm đóng Woody Island (= đảo Phú Lâm, Trung Cộng gọi là Vĩnh Hưng đảo) một cách bất hợp pháp năm 1956 và chiếm đóng toàn thể quần đảo bằng võ lực năm 1974, hiển nhiên đã vi phạm Điều 2(4) của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, do đó không đem cho Trung Hoa một chủ quyền pháp lý minh bạch.”
(“Based on the arguments and evidence submitted by the claimants and general principles of international law related to the acquisition of territory, it would appear that Vietnam clearly has a superior claim to the South China Sea islands.
Vietnam’s title to the Paracels is well founded in both history and law. Beginning in the early 18th century, Vietnam demonstrated a clear intent to assert sovereignty over the islands through the establishment of a government‐sponsored company to exploit and manage the resources of the archipelago. That intent was confirmed by the annexation of the islands and symbolic acts of sovereignty in the early 19th century, followed by peaceful, effective, and continuous administration of the islands by successive Nguyen dynasties until the advent of the French colonial period. France continued to effectively administer the islands on behalf of Vietnam and physically took possession and occupied the Paracels in the 1930s. Thereafter, France continued to assert its sovereignty over the Paracels until its departure from Indochina in 1956. Following the French withdrawal, South Vietnam (and subsequently a united Vietnam) effectively administered the islands and never ceased to assert Vietnamese sovereignty over the archipelago, even after China illegally occupied a portion of the islands in 1956 and the entire archipelago in 1974.
On the other hand, the first demonstration of Chinese sovereignty over the Paracels did not occur until 1909, two centuries after Vietnam had legally and effectively established its title to the islands. Moreover, China’s illegal occupation of Woody Island in 1956, and its occupation of the entire archipelago by force in 1974, clearly violate Article 2(4) of the UN Charter and accordingly do not confer a clear legal title to the Paracels”). ¹
Sang tới quần đảo Trường Sa (Spratly islands), Giáo sư Pedrozo viết:
“Với quần đảo Spratlys, nước Pháp sáp nhập những đảo ấy như những đất vô chủ trong thập niên 1930--Ở thời đó, chiếm đóng bằng sức mạnh là phương cách hợp pháp để thiết lập chủ quyền. Anh quốc, vốn đã kiểm soát một vài hòn đảo trong quần đảo Spratlys trong những năm 1800, từ bỏ việc tuyên bố chủ quyền sau khi Pháp sáp nhập và chiếm đóng, do đó chủ quyền của Pháp với quần đảo Spratlys được thiết lập hợp pháp và vững chắc. Chủ quyền từ Pháp được chuyển cho Nam Việt Nam trong thập niên 1950. Chính phủ Nam Việt Nam (và sau đó Việt Nam thống nhất) kiểm soát những đảo ấy một cách hiệu quả và hòa bình cho đến khi binh lực của Trung Hoa Dân Quốc (ROC = Republic of China) chiếm đóng một cách bất hợp pháp đảo Itu Aba (= đảo Ba Bình, chính phủ Đài Loan gọi là Thái Bình đảo) năm 1956, và binh lực của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (PRC = People’s Republic of China) chiếm đóng một cách bất hợp pháp một số đảo nhỏ năm 1988.
Việc Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng đảo Itu Aba năm 1946 và 1956, và việc Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa xâm lăng quần đảo Spratlys năm 1988 vi phạm Điều 2(4) của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, không thể cho Trung Hoa cũng như Đài Loan có chủ quyền minh bạch đối với quần đảo Spratlys… Việc Trung Hoa đòi hỏi chủ quyền trên quần đảo Spratlys không có căn bản pháp lý theo quốc tế công pháp.”
(“With regard to the Spratlys, France annexed the islands as terra nullius in the 1930s—at the time, occupation by force was a valid method of acquiring sovereignty over territory. Great Britain, which had controlled some of the Spratly Islands in the 1800s, abandoned its claims following the French annexation and effective occupation, so French title to the Spratlys was legally and soundly established. France’s title to the archipelago was ceded to South Vietnam in the 1950s and the South Vietnamese government (and subsequently a united Vietnam) effectively and peacefully controlled the islands until ROC forces illegally occupied Itu Aba Island in 1956 and PRC forces illegally occupied a number of islets in the archipelago in 1988.
The ROC’s occupation of Itu Aba Island in 1946 and 1956, and the PRC’s invasion of the Spratlys in 1988, violate Article 2(4) of the UN Charter and cannot confer clear title to the Spratlys to either Taiwan or China… China’s claim to the Spratlys has no legal basis in international law”).²
Toàn văn bản nghiên cứu của Giáo sư Pedrozo, được thực hiện thành một e-book, có thể đọc tại trạm nối sau đây:
https://southeastasiansea.files.wordpress.com/2014/08/china-versus-vietnam-an-analysis-of-the-competing-claims-in-the-south-china-sea.pdf
Những nhận định do Giáo sư Pedrozo đưa ra quan trọng và hữu ích vì một số học giả Tây phương trước ông có những phán đoán thuận lợi cho Trung Hoa, hoặc hoàn toàn bênh vực Trung Hoa. Sau khi cướp được toàn thể quần đảo Hoàng Sa từ Việt Nam Cộng Hòa năm 1974, nhà cầm quyền Bắc Kinh tung ra nhiều tài liệu ngụy tạo, hoặc xuyên tạc sử liệu để cố chứng minh rằng các quần đảo ấy thuộc lãnh thổ Trung Hoa từ đời Hán, trong thời Nam Bắc triều, hoặc trong các triều Tống, Nguyên, Minh. Một số học giả Tây phương có uy tín bị lầm trước các tài liệu ấy, điển hình là Giáo sư Dieter Heinzig trong cuốn Disputed islands in the South China Sea do Otto Harrassowitz ở Wiesbaden (Đức) và Institute of Asian Affairs in Hamburg (Đức) đồng xuất bản năm 1976, và Giáo sư Marwyn S. Samuels trong cuốn Contest for the South China Sea được Methuen & Co xuất bản đồng thời ở New York và London năm 1982. Theo Giáo sư Heinzig, “Nhìn theo khía cạnh lịch sử, những người Việt Nam ở vị trí yếu hơn những người Trung Hoa (“From an historical point of view, the Vietnamese are in a weaker position than the Chinese”). ³ Tuy Giáo sư Samuels cũng cho rằng chủ quyền của Trung Hoa ở Trường Sa là “highly questionable,” ông quan niệm “Đòi hỏi của Trung Hoa với quần đảo Paracels vững hơn” (“China has the better claim to the Paracels”). ⁴
Giáo sư Greg Austin tại Australian National University, trong cuốn China’s Ocean Frontier: International Law, Military Force and National Development (Sydney : Allen and Unwin, 1998) còn cho rằng “Việc đòi chủ quyền của Trung Hoa trên quần đảo Paracel ưu việt hơn tất cả những đòi hỏi khác,” và “ít nhất ngang hàng với các đòi hỏi khác trong trường hợp quần đảo Spratly” (“China’s claim is superior to all other claims on the Paracel Islands,”and “is at the very least equal to other claims in the case of the Spratly Islands”). ⁵ Ông biện bác rằng hành động của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Hoa luôn luôn phù hợp với luật pháp quốc tế (“consistent with international law”). Tuy nhiên, có một điều cũng nên biết về Giáo sư Austin: trong thời gian chuẩn bị để xuất bản cuốn sách (1998), ông được mời làm “tham vấn viên danh dự” (honorary consultant) cho một học viện về môi sinh có trụ sở ở Bắc Kinh.
Một nhà luật học danh tiếng của nước Pháp, Giáo sư Monique Chemillier-Gendreau, có nhận định tương tự với nhận định của Giáo sư Pedrozo. Giáo sư Chemillier-Gendreau là giáo sư danh dự (professeur émérite) về công pháp và chính trị học tại Đại học Paris VII (Diderot). Những xét đoán của bà về vấn đề Hoàng Sa – Trường Sa được trình bày trong cuốn La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys (Paris : L’Harmattan, 1996). Bản dịch sang Anh ngữ của cuốn này mang nhan đề Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands (The Hague ; Boston : Kluwer International, 2000).
Xét đoán của bà có thể thu tóm trong câu:
“Cho tới khi bị hòa ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp năm 1884 ngăn trở, Việt Nam nắm quyền sở hữu không ai tranh cãi và từ gần hai thế kỷ trên các quần đảo, một quyền phù hợp với hệ thống pháp luật thời đó.
Quyền ấy được hành sử một cách không thể ngờ vực điểm nào trên quần đảo Hoàng Sa…”
(“Lorsqu’ intervient la traité de protectorat français en 1884, le Viet-Nam détient, sans concurrence et depuis près de deux siècles, un droit, conforme aux système juridique de l’époque, sur les archipels.
Ce droit s’exerce sans aucun doute sur les Paracels …”).⁶
Giáo sư Chemillier-Gendreau ghi lại một cách tường tận những hành động của nhà cầm quyền Pháp trong những năm 1933 và 1938, nhằm thiết lập chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Bản nghiên cứu của Giáo sư Pedrozo được coi là phong phú hơn, vì có thêm phần phân tích, vạch ra những chỗ ngụy tạo hay xuyên tạc sử liệu của nhà cầm quyền Trung Cộng. Ta cũng nên ghi nhận rằng bản phân tích của giáo sư Pedrozo phổ biến từ tháng 8 năm 2014, gần hai năm trước khi tòa Trọng tài Quốc tế (Permanent Court of Arbitration) phán quyết rằng Trung Hoa không hề có “chủ quyền lịch sử” trong khu vực “đường chín đoạn” (“China has no ‘historical rights’ based on the ‘nine-dash-line’ map”). Phán quyết ấy mãi đến tháng 7 năm 2016 mới được đưa ra.
Tài liệu mới thứ hai đáng được chú ý là cuốn China’s Quest for Great Power: Ships, Oil, and Foreign Policy của Giáo sư Bernard D. Cole (Annapolis, MD : Naval Institute Press, 2016).
Giáo sư Cole, tác giả cuốn The Great Wall at Sea được nói tới ở trên, đã trở thành một giáo sư danh dự (professor emeritus) tại National War College. Tuy trọng tâm cuốn sách mới của ông là sức mạnh trên biển của Trung Hoa, một trong ba yếu tố quan trọng chi phối chiến lược an ninh của Bắc Kinh (hai yếu tố kia là việc tìm kiếm nhiên liệu và chính sách ngoại giao), ông cũng bàn tới giá trị của những đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông. Ông nhắc lại nhận định của Giáo sư Pedrozo, “Vietnam clearly has a superior claim to the South China Sea Islands,” và tán đồng ý kiến của Giáo sư Pedrozo khi cho rằng Việt Nam đã có những hành động tượng trưng để thiết lập chủ quyền trên các đảo đầu thế kỷ 19, theo sau là sự quản trị hòa bình, hiệu quả, và liên tục của chính quyền Việt Nam rồi đến chính quyền Pháp trên các đảo. Ông cũng nhắc lại nhận định của Giáo sư Pedrozo, “hành động đầu tiên của Trung Hoa để tuyên bố chủ quyền không hề có cho tới năm 1909.” Ông cũng nhắc lại rằng việc Trung Cộng chiếm đóng Hoàng Sa, một số đảo, đá ở Trường Sa, và một vài địa điểm khác trên Biển Đông, là dùng võ lực để đánh chiếm. ⁷
Cuốn sách của ông được nhiều người biết tới (Giáo sư Cole từng được bầu là “Author of the Year” tại Naval Institute Press năm 2014) nên những điều ông viết chắc chắn sẽ có ảnh hưởng rộng lớn hơn. Ông cũng viết về việc Trung Cộng bồi đắp nên các đảo nhân tạo rồi biến các đảo ấy thành những căn cứ quân sự trên Biển Đông.
Cuốn sách thứ ba đáng được chú ý tới là cuốn The South China Sea (SCS) Territorial Disputes : Catalyst for a United States – Vietnamese Security Partnership (Những tranh chấp lãnh thổ trong Biển Nam Trung Hoa : Chất xúc tác cho một sự hợp tác Hoa Kỳ - Việt Nam) của Thiếu tá Jared Wayne Britz thuộc Quân lực Hoa Kỳ. Phía sau nhan đề còn ghi thêm: Strategy, Policy, Provocations and Challenges—Role of Philippines, Malaysia, Brunei.
Đây nguyên là bản tiểu luận Cao học về Khoa học Quân sự (Master of Military Art and Science), chuyên ngành Nghiên cứu Chiến lược (Strategic Studies), do Thiếu tá Britz đệ trình tại U.S. Army Command and General Staff College tại Fort Leavenworth, Kansas năm 2015. Đây là một Đại học Quân sự ở cấp cao của Hoa Kỳ, nơi nhiều danh tướng của nước Mỹ như Tổng thống Đại tướng Dwight D. Eisenhower, các Đại tướng nổi danh Douglas MacArthur và George S. Patton từng theo học. Điều đáng chú ý là sau khi Thiếu tá Britz được chấm đậu Cao học, Bộ Quốc phòng Mỹ đã cho một cơ sở xuất bản là Progressive Management Publications ấn hành bản tiểu luận ấy với danh nghĩa một tài liệu của chính phủ và bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (U.S. Government, U.S. Military, Department of Defense). Những ý kiến trong tiểu luận không còn là riêng của Thiếu tá Britz, mà phần nào cũng phản ảnh quan niệm của một số giới chức cao cấp hơn.
Trong phần tóm lược, Thiếu tá Britz cho biết: Do những hành động quyết liệt của Bắc Kinh, Việt Nam đang tìm cách tăng cường các hợp tác quân sự và an ninh hầu tạo đối trọng trước ưu thế quân sự của Trung Hoa. Bản tiểu luận phân tích xem chuyện có những quyền lợi tương đồng có thể giúp cho việc hợp tác quân sự tới mức nào. Mục đích của việc nghiên cứu là tìm xem sự hợp tác ấy có giúp ích cho quyền lợi của nước Mỹ trong vùng biển Nam Trung Hoa hay không. Sau khi phân tích các sự kiện trên nhiều khía cạnh, Thiếu tá Britz đưa ý kiến: Trong hoàn cảnh hiện tại, Hoa Kỳ có bốn lựa chọn khác nhau, và đề nghị Hoa Kỳ nhận lựa chọn thứ ba: Tăng tiến thêm trong hợp tác với Việt Nam về an ninh (Advancement of US - VN security partnership).
Theo bản tiểu luận, Hoa Kỳ có thể tăng thêm những trợ giúp quân sự cho Việt Nam, giúp việc huấn luyện, bán võ khí sát thương, giúp Việt Nam trong việc đóng giữ và kiểm soát những vị trí Việt Nam đang còn giữ được trong quần đảo Trường Sa, để Trung Hoa thấy rằng muốn chiếm đoạt những vị trí ấy sẽ phải tốn kém hơn rất nhiều. Hoa Kỳ cũng có thể giúp Việt Nam tăng cường khả năng hải quân và không quân, để Việt Nam có thể tự bảo vệ một cách hữu hiệu hơn. Nếu Việt Nam không thể giữ những vị trí còn trong tay ở Trường Sa, cả vùng biển ấy sẽ thuộc quyền kiểm soát của Trung Cộng. Nếu khống chế cả vùng biển, Trung Cộng sẽ gây khó khăn cho việc lưu thông của Hoa Kỳ rất nhiều. Bản tiểu luận không đề nghị việc thiết lập căn cứ quân sự một cách vĩnh viễn vì Trung Hoa sẽ phản đối rất mạnh, nhưng tán thành việc được quyền tới sử dụng các phương tiện có ở mỗi căn cứ. Theo bản tiểu luận, tăng cường hợp tác an ninh là việc nên làm: giúp Việt Nam mạnh hơn cũng là giúp quyền lợi của Hoa Kỳ. ⁸
Bản tiểu luận của Thiếu tá Britz có thể đọc dưới dạng PDF tại trạm nối sau đây:
http://www.dtic.mil/dtic/tr/fulltext/u2/a623626.pdf
Kết luận:
Trong bản tóm tắt chiến lược Quốc phòng của Hoa Kỳ trong năm 2018 (Summary of the 2018 National Defense Strategy of the United States of America), một văn kiện chính thức của chính phủ Hoa Kỳ, mang chữ ký của Bộ trưởng Quốc phòng Jim Mattis, các nhà soạn thảo tại Ngũ giác đài nêu đích danh Trung Hoa là quốc gia cạnh tranh về phương diện chiến lược (“China is a strategic competitor”) đang bắt nạt các nước láng giềng trong khi quân sự hóa các thực thể địa dư trong biển Nam Hải (“intimidate its neighbors while militarizing features in the South China Sea”). Theo các nhà soạn thảo, Trung Hoa sẽ tiếp tục theo đuổi chương trình canh tân hóa quân đội để chiếm được vị trí bá quyền trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương trong ngắn hạn, và đánh bật Hoa Kỳ để thay chỗ nhằm đạt tới vị trí ưu thắng toàn cầu trong tương lai (“will continue to pursue a military modernization program that seeks Indo-Pacific regional hegemony in the near-term and displacement of the United States to achieve global preeminence in the future”). ⁹
Để đối phó với hiện trạng ấy, các nhà lãnh đạo tại Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ nêu ra ba việc phải làm. Một trong ba việc ấy là tăng cường các liên minh cũ và tìm cách có thêm những cộng tác mới.
Việc đời vẫn thường thay đổi. Nhận thức của nước Mỹ về Trung Hoa năm 2018 dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình không còn giống như khi đội bóng bàn của Hoa Kỳ sang Trung Hoa thực hiện “ping-pong diplomacy” trong những năm đầu của thập niên 1970.
Trung Hoa không còn là nơi các nhà doanh nghiệp Mỹ tung vốn đầu tư một cách thật thoải mái, chỉ cần biết đó là một chỗ giá nhân công rẻ mạt. Hiểu biết của học giới và các nhà lãnh đạo quân sự Mỹ về các quần đảo Paracel, Spratly cùng việc tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông năm 2018 cũng khác xa tầm hiểu biết của các vị năm 1974, khi Trung Cộng tung quân đánh chiếm Hoàng Sa. So với các bài thuyết trình của các Đề đốc Michael McDevitt và Eric A. McVadon trong những năm 2007-2011, so với những đề nghị của Trung tá Clarence J. Bouchat trong những năm 2013-2014, thì chiến lược Quốc phòng của Hoa Kỳ năm 2018 như được nêu ra trong bản tóm tắt phía trên quả có những điểm khác, đem tới những thay đổi khá mạnh. Tuy có phần mạnh mẽ, sự thay đổi ấy không đột ngột và vô lý. Với một quốc gia lớn và đã có nền tảng vững chắc như Hoa Kỳ, những thay đổi quan trọng thường không do những ý muốn bốc đồng của một vị Tổng thống hay ý kiến chủ quan của một vị Bộ trưởng, mà là kết quả của những nghiên cứu kỹ lưỡng và phân tích cẩn trọng thu góp từ nhiều năm. Ba tài liệu nghiên cứu được nhắc đến phía trên hẳn cũng có góp phần vào sự thay đổi ấy.
Trần Huy Bích
https://tranhuybich.blogspot.com/
1. Raul (Pete) Pedrozo, China versus Vietnam : An Analysis of the Competing Claims in the South China Sea (Arlington, VA : Center for Naval Analyses, 2014), 130.
2. Pedrozo, op. cit., 130-31.
3. Dieter Heinzig, Disputed Islands in the South China Sea (Wiesbaden : Otto Harrassowitz, 1976), 24.
4. Marwyn S. Samuels, Contest for the South China Sea (New York : Methuen, 1982), 67-68.
5. Greg Austin, China’s Ocean Frontier (Sydney : Allen and Unwin, 1998), 161.
6. Monique Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys (Paris : L’Harmattan, 1996), 78.
7. Bernard D. Cole, China’s Quest for Great Power (Annapolis, MD : Naval Institute Press, 2016), 190.
8. Jared Wayne Britz, The South China Sea (SCS) Territorial Disputes (San Bernardino, CA : Progressive Management, 2017), 68-70.
9. United States. Dept of Defense, “Summary of the 2018 National Defense Strategy of the United States of America” (Washington, DC : The Dept., 2018), 1-2.
ĐML chuyển
No comments:
Post a Comment