Photo Trần Hoài Việt ...một thời trai trẻ
Những ngày cuối năm, khi mùa đông giá lạnh của Đà lạt bắt đầu thì trường Võ Bị lại có thêm chừng 250 người trai tráng ưu tú, của cả miền Nam được tuyển chọn vào để được huấn luyện thành Sinh Viên Đà Lạt.
Họ có đến 2 tháng trui luyện trong sự nhọc nhằn để làm hành trang cho suốt 4 năm đại học quân sự. Ngày thứ nhất các anh lớn làm quen với họ, bằng cách cho họ chạy nhảy, bò trong những giao thông hào, sình bùn ướt lạnh và kèm theo những tiếng la hét đến bàng hoàng. Đêm đầu tiên đó, đi ngủ lúc nào, đố mấy ai còn nhớ. Có nhớ chăng là nhớ tiếng kèn dậy sáng. Tiếng kèn mở đầu một ngày kinh khủng khác.
Năm 1966, một toán Thiếu sinh quân Vũng Tàu ghé thăm trường Đà Lạt, tôi được tháp tùng theo mấy anh lớn lớp 11, 12. Năm ấy tôi vừa mới học đệ ngũ, tuổi chừng 13, 14 thế mà đã quyết định vào Võ Bị từ đó. Nếu giả thử không vào thì có lẽ cả đời ấm ức, không biết Dalat Tân khoá sinh như thế nào. Như thế tôi đã là người độc nhất vào Võ Bị Đà Lạt từ trường Thiếu Sinh Quân năm 1971.
Điều lạ lùng hi hữu là năm 1971, tôi ở ngay cái phòng mà tôi đã ở vào năm 1966 và nằm ở cùng cái giường . Cái hi hữu rợn người, rợn người như tiếng nói của Trung đội Trưởng 13 Huỳnh Thương. Âm thanh gì, mà cứ như là tiếng của hai thanh nứa cứa kèn kẹt vào nhau. Nghe da gà nổi lên chạy trong người. Trần Tường E28, vừa chạy vừa thì thầm với tôi:
- Chắc chỉ 1, 2 tuần thôi chứ kéo dài, làm sao mình chịu nổi
Có Tân khoá sinh nào ngờ đâu, lột xác gì kéo dài cả hai tháng.
Ông Nảng, ông Nang ông ra đầu đình, ông gặp cô Nỉnh cô Ninh. Cô Nỉnh cô Ninh, cô ra đầu đàng cô gặp ông Nảng ông Nang
Thế rồi:
Khớp con ngựa, ngựa ô ngựa ô ăn khớp, ăn khớp kiệu giang.. là đưa, ý a đưa nàng, đưa nàng, anh đưa nàng dìa dinh
Thuở đó, NT Lý Công Pẩu K26, xếp đặt huấn luyện và văn nghệ cho K28. Một người tài hoa nhưng vận số ngắn ngủi.
“Hồng hà, bao la sông nước, chưá muôn phù sa Hồng hà, bao la nước phù sa.”
“Đất cho ta sống, quê hương ta bồng. Đất cho ta chết, quê hương ta về. Rồi ngày mai nước ta vươn lên màu đất mới, rồi ngày mai nước ta tươm lên hồng môi cười, rồi ngày mai quê hương xanh lên màu sông núi, và ngày mai dân ta quyết sống vì đất này.”
Ba của Phạm Văn Hùng K28, thương tôi và Lưu Đức Sơn lắm. Ông đã thường xuyên thăm hỏi và viết thơ cho cả hai đứa chúng tôi. Sau này, vào năm 1976. Lưu Đức Sơn bị mất trong lúc trốn ra khỏi trại giam Đơn Dương. Phạm Văn Hùng, còn gọi là ông Cố Lội, vì tính Hùng ngang bướng và hay nói 'nộn' chữ L ra chữ N. Khi về Sàigòn, học nhảy dù, một vài chúng tôi đã ghé nhà Hùng. Trong hình ảnh tâm khảm của cả gia đình này, họ đã in hằn một cảm tình tốt đẹp về Võ Bị Đà Lạt. Về sau có đổi đời, cực kỳ hàn vi, miếng cơm chỗ ngủ không có, khi tôi cùng kiệt ghé thăm, họ vẫn đối với những người bạn của con trai mình như những chàng trai Sinh Viên má đỏ, môi cười ngày nào.
Huấn luyện TKS K28 đợt 1 ở đại đội E:
- Đỗ Viết Toán, Đại đôi Trưởng
- Huỳnh Thương, Trung đôi Trưởng trung đội 13
- Đào Công Một, Trung đội Trưởng trung đội 14
- Nghiêm như Cẩu, Trung đội Trưởng trung đội 15
- Ngô Đề Chiến, Đại đội phó
Không biết có phải là người ta nhìn sang bãi cỏ của nhà hàng xóm thường xanh tươi hơn bên nhà mình không chứ đại đội E rất thấy toàn là Hung thần còn đại đội F sao toàn là những hiền thần. Huấn luyện TKS K28 đợt 1 ở đại đội F:
- Đinh Văn Quế (SVSQ cán bộ DDT/TKS-DDF)
- Hà Quốc Hùng (SVSQ cán bộ DDP/TKS-DDF)
- Đỗ Văn Điền (SVSQ cán bộ TrDT/TKS-TrD16)
- Ngô Đức Khoa (SVSQ cán bộ TrDT/TKS-TrD17)
- Lương Vinh (SVSQ cán bộ TrDT/TrD18)
Còn Huấn luyện TKS K28 đợt 2 đại đội E, thì có:
- Trần Kiến Võ, Đại đội trưởng
- Lê Quang Bình, Đại đội phó,
- Trần Việt Doanh, Trung đội Trưởng trung đội 15
- Cao Văn Thi
Tay còn tay có, tay vó tay không, sông đời ngũ thập, ai còn ai mất, ai nhớ ai không?
Người huấn luyện mà chúng tôi, khoá 28 đại đội E, kính mến nhất là NT Trần Việt Doanh. Ông ta huấn luyện TKS với cả tấm lòng của người đàn anh.
Niccolo Machiavelli trong cuốn Quân Vương có nói: 'Thưa đức ngài, một chính quyền lý tưởng là một chính quyền làm cho dân thương và sợ, nhưng nếu phải chọn lựa giữa thương và sợ thì nên chọn làm cho dân sợ , chính quyền đó cai trị lâu dài hơn... so benefits should be granted little by little, so that they may be better enjoyed.'
Có lẽ, với khoá 25, chúng tôi có kính và sợ thì đúng nhất, còn thương và kính thì chỉ có dành cho một số NT như Trần Việt Doanh. Vào những ngày cuối tuần, trong những tuần lễ cuối cùng của huấn luyện, chỉ còn Trần Việt Doanh vẫn còn gắn bó, chạy bộ với chúng tôi vòng này sang vòng khác, ngay cả những lúc thực tập tác chiến ban đêm hoặc những ngày cuối tuần. Khi chạy với nhau, đếm mãi thấm mệt, ông ta mới cho chúng tôi bài học rằng, TKS chính là bài học đầu đời về đời lính. Lính nhà nghề phải là những người lính biết tuân lịnh thi hành, còn bản thân những người huấn luyện cũng phải chạy bộ, thức đêm thức khuya để huấn luyện như thể trải qua thêm một mùa TKS thôi.
Khi đầu mùa hè đỏ lửa năm 1972. Trung Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan đã nghe tin ông tử trận ở Chu Pao. Chúng tôi lặng người đứng mặc niệm. Khi có dịp đi ngang ở ranh giới KonTum và Pleiku, Tôi vừa chạy, vừa leo, băng vượt lên đồi cao, như thời kỳ huấn luyện mà nhớ đến ông. Tôi không phải là người mê tín dị đoan, nhưng sao tôi có cảm giác, như có bao nhiêu người quen bên cạnh, cái cảm giác cực kỳ mạnh và rùng rợn như lúc tôi lên Chuà Cọp, ở Khánh Dương. Nơi mà bộ chỉ huy lữ đoàn 6 nhảy dù làm cứ điểm, vì vừa gần đường lộ, vừa có khoảng trống để tiếp vận trực thăng, nhưng không ngờ là điểm tập trung tác xạ tiên liệu của Cộng Sản. Cả tiểu đoàn mất liên lạc từ đó. Tôi thầm hưá sẽ có ngày nào tôi mang rượu và bánh đến thăm thêm một lần nữa.
Có nhiều người rất hiền hoà, như NT Cao Văn Thi K25 có thế đời mới đỡ khốn khó. Đời sống như những dòng sông chia thành nhiều nhánh mà trí nhớ càng ngày càng mất. Tôi nghe tên nhiều NT khác thân quen lắm, không biết sau này chén tạc chén thù, có còn nhớ đến nhau?
Thuở đó, đâu đã có đào người yêu gì. Sau này đi ra công tác miền Trung mới bắt đầu có vớ va vớ vẩn. Thế mà mấy NT trong đội thiện xạ như NT Hồ Ngọc Hiệp K25, Trưởng khoa Thiện xạ bắt lên coi bia xem có trúng được viên nào không, cứ đổ thừa là chúng tôi đạn bắn gởi đào hết trơn vì có người bắn 3 viên để điều chỉnh tầm tác xạ mà chẳng trúng được một viên. Lờ quờ nhất là Nguyễn Thế Hân, đang nằm tác xạ, cầm ngay khẩu súng đứng lên đưa qua, đưa lại ngó phát gớm.
- Thưa cán bộ, tại sao súng của 'em' bắn không được. Đây nè ! bóp nó không nổ.
- ??!!
Nguyễn Thế Hân xưng 'Em' giọng Bình Định quê ta thế là hôm đó buổi trưa, bị Đại đội trưởng lên bục gầm lên:
- Đại đội E, thậm chí, có người đã xưng em.
Lập tức các Trung đội trưởng của 10 đại đội, 30 tiếng cùng gào lên cùng một lượt, nghe sao muốn xón ra quần.
- Trời ơi, xưng em !
- Em nào thế? mang em lên bục cho tôi.
Em ơi là em. Chết đại đội E đã đành, chết rụm luôn cả khoá 28. Em Nguyễn Thế Hân ơi, chết mấy anh rồi, Thế Hân em ôi !
- Bắn súng gởi đào, lại tình tứ xưng em đó, Đại đội trưởng.
Đại đội E bị phạt tưng bừng ở dốc B52. Trời ơi, 45 độ, còn cách nói khác là độ dốc 100%, cứ phải tấn công lên rồi lăn xuống. Khi lăn rồi, muốn stop cũng không được. Có hết đâu, về lại doanh trại, mệt muốn chết đi không nổi, rồi cũng lại Nguyễn Thế Hân lên tiếng:
- Thưa cán bộ, lau cầu tiêu xong có được bấm nút không?
Thế là cả bọn bị bò từ cầu tiêu về phòng, vì câu hỏi lờ quờ. Phía bên này phòng vệ sinh, xưng danh hỏi:
- Thưa cán bộ, vòi nước bị hư.
Phía bên kia phòng vệ sinh, lại có người xưng danh hỏi
- Thưa cán bộ, xin phép được giật nước.
Sau này mới biết, nếu không vừa chỉ cho cách làm, vừa phạt cả lũ thì chắc Cán bộ bị Tân khoá sinh quay tới, quay lui như dế.
Chẳng trách được, hồi đó ai cũng sợ Nguyễn Thế Hân mở miệng thế không biết. Cũng từ đó đã sinh ra cái tên 'Phong Càm Ràm', Lương Đình Phong đứng trong hàng cằn nhẳn, cằn nhằn:
'Giời ạ ! Sao mà có người ngu thế không biết, ngu mà không để đại đội khác ngu bớt, bao nhiêu cái ngu, đại đội mình cứ lấy hết mẻ nó rồi, thì chả trách sao không bị bò miết!'
Phong hay nấu Hà Thủ ô mùi nực mũi. Bây giờ Phong ở đâu? Chỉ biết là đơn vị cuối cùng của Phong cùng với lữ đoàn 258 Thuỷ quân lục chiến (Tqlc) với tôi. 8 giờ sáng, tháng 4 ngày 30 vẫn còn trong hàng ngũ nghiêm chỉnh ở ngã 3 Long Thành.
Luờ quờ cùng với Nguyễn Thế Hân E28 là Võ Hữu Lợi E28 và Trần Thái Lập E28. Cả ba cùng có cái tật là đi chân nào, đánh tay nấy, thế là thêm một một màn, đi ve vẩy cho cả làng coi. Trần Thái Lập vừa đi vừa run lập cập, đánh luôn hai tay ra phía trước cho chắc cú. Ai nhìn ba ông đi thì cũng bật cười liền.
- Kìa kìa, Đại đội E, cơ bản thao diễn đi như ve vẩy trong chợ Hoà Bình. - Đi như vậy có đẹp không?
Bị mồi là phải binh vực cho bạn mình, do đó khi trả lời cho Đại đội trưởng, cả đại đội E, phải rống lên:
- Đẹp!
- Chời chời ! Mấy ông đi, như đi bán dép, mà đẹp hả chời? muốn bò tới phạn xá phải không?
Đại đội trưởng lên bục lại gầm lên hỏi:
- Đi như vậy có đẹp không?
- Không !
Trần Thái Lập cập đã mất vào năm 1998. Anh bị đau tim (chắc là vì khoá 25 quá). Chị Lãm Thuý, vợ một người khoá đàn anh, lên tiếng xin những người bạn khoá 28 dùm cho Lập, mổ tim một lần, sống thêm được vài năm. Bạn bè K28 đã giúp thêm lần nữa cho gia đình Lập. Thôi sống chết là số mạng nhé Trần Thái Lập.
Nói là không ai có người yêu là không đúng hẳn. Thực ra Nguyễn Đức Nhâm người nhỏ con, có bờ vai bị tật đi hơi lệch, ai để ý lắm mới nhận ra. Nhâm còn có vết thẹo trên thái dương trái, là người độc nhất có người yêu đến thăm mỗi tuần. Chàng Nhâm và nàng Hoa yêu nhau thắm thiết. Nguyễn Đức Nhâm hay chạy đến tôi nói những chuyện mà anh đã khám phá ra, từ phương trình đến kết quả của bài tập kéo thước tính. Những chuyện mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy hữu dụng. Chẳng hạn như nếu mình mang giầy và đừng để cơ thể chạm đất, thì cho dù mình có chạm dòng điện dương xoay chiều thì cũng không bị giật. Tôi thí nghiệm và đúng như Nhâm nói, sau này mới biết trong trường hợp này thì cơ thể mình không bị giật vì đã trở thành vật sợi dây nóng. Tương tự như các con chim trời bay đậu lên dây điện cao thế.
Nhâm khắc tên nàng Hoa cùng với tên cuả mình khắp bàn học. Có một hai thằng quỷ nào muốn ghẹo, bèn bảo nhau khắc dùm thêm hai chữ “made in” Nhâm Hoa khắp mọi nơi, mọi chốn. Từ khe cửa ở Khu văn hoá vụ đến Khu tác xạ đều có hai chữ Nhâm Hoa. Thậm chí cánh cửa cầu tiêu cũng made in Nhâm Hoa.
Như đã nói, Đại đội E là nơi quan khách hay ghé, nên bị phạt kỹ lưỡng đã đành mà địa thế chẳng có ngon chút nào, toàn là đứng đằng sau người ta thì làm sao mà chạy về nhất được. Từ tấn công hai apartments, đến tấn công về Phạn xá toàn là về hạng ruồi bu, tức là chẳng ai thèm chạy nữa thì mình mới về được trong số 10 người chạy về đầu.
Ấy thế mà Vũ Quang Phát E28 lại ngon lành hơn cả thảy. Cái giò nó dài, quê nó ở ngay Đà Lạt, nên chạy như gió. Chả hiểu thế nào, mà Vũ Quang Phát len làm sao qua được cả 250 người đứng đằng trước mà cứ về được trong số 10 người chạy về nhất mới lạ. Phạm Ngọc Châu E28 chạy cũng rất khá. Theo lời của Minh F28 thì Châu trong đơn vị nhảy dù, tử trận ngay tại ngã Tư Bảy Hiền, Sàigòn trong ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Chạy thì phải thở, tội nghiệp Phạm Kim Sơn cứ phải đeo núm vú mà chạy, cho nên cả đời có bao giờ chạy được hạng nào đâu. Mấy chàng tèng tèng trong đại đội E như Nguyễn Hữu Nhẫn (đá banh), Nguyễn văn Sáng (mất tích khi trốn trại học tập ở Tây Ninh), Nguyễn Hữu Thạnh, Hồ Hữu Trí (Judo), Phạm Văn Trường, Nguyễn Hữu Dụng cuả đại đội E28, thì coi như ẩn được trong đám đông.
Huỳnh Văn Châu K25, dạy coi phương giác, chấm điểm đứng. Có 3 cách chấm điểm đứng căn bản. Bài học cần thiết nhứt của đời lính mà lại dạy vào buổi trưa buồn ngủ muốn lịm người đi. Mắt vẫn mở nhưng mờ đục. Bài học chưa xong, mấy ông kiến càng đã đợi để a lê hấp ra bò bò cho tôi, bò hết nổi thì lăn, nên có nhớ gì đâu.
Về sau tôi được một niên trưởng khoá 27, ở lữ đoàn 258 Thủy quân lục chiến (Tqlc), thẩy cho cuốn cẩm nang. Tôi học lại từ đầu:
- Tìm 3 điểm đặc biệt ngoài địa thế bằng mắt thường có thể nhìn thấy, lấy phương giác nghịch, giao điểm của 3 điểm đó trên bản đồ là điểm đứng của mình.
- Tìm 1 điểm đặc biệt như ngọn núi và ước chừng khoảng cách, từ đó phỏng chừng điểm đứng. Dùng con đường hay con sông để kiểm soát lại điểm đứng.
- Vào ban đêm, nhờ pháo binh bắn đạn khói hoặc trái sáng ở một toạ độ chuẩn, từ đó tìm ra phương giác và điểm đứng.
Trong thời kỳ TKS nhiều người đã luyện được môn tà công gọi là Ngủ Trong Hàng. Ngủ khi đang chạy bộ, ngủ trong khi đang ngồi học, ngủ khi gác, ngủ trong xe khi chở vợ con đi shopping, ngủ bất cứ chỗ nào cũng được. Thậm chí khi ngủ gục còn ngáy ù ù được nữa. Nguyễn Thành Hướng E28 (làm nghề họa sĩ sau này), đã ngủ gục khi đang ngồi học mà còn ngáy. Bạn bè ngồi bên cạnh bèn cùng ngáy phụ cho lớn. Giáo sư văn hoá vụ, đưa hai tay lên trời than:
- Úi mẹ ơi ! cha sinh viên này siêu quá rồi! Ngủ gục mà còn ngáy nữa.
Sau này, khi vào đại học bên xứ người, nhiều người chứ không hẳn riêng một mình tôi, đã phát huy được khả năng ngủ trong hàng của thời kỳ huấn luyện là ngồi mắt mở to nhìn giảng viên mà hồn người thì đã siêu thoát trong cơn mộng du.
Ấy, giảng viên, dạy thì thì cứ dạy, giảng gì thì cứ giảng, chỉ cần biết có mỗi topic thôi, còn bao nhiêu để đó về ban đêm đọc sách, cần quái gì lắng nghe cho đầy óc. Vả lại ai mà có thể dạy được hai ba chương sách trong vòng 1, 2 tiếng. Chỉ cần biết được đúng chỗ giảng đường để vào ngồi, biết được tên người dạy là thằng Bâu thì đã khoẻ rồi, thế là áp dụng ngay môn công phu Ngủ Trong Hàng. Phải trầy da, tróc vẩy mới biết người dạy tên Bâu, tiếng Anh nó là Paul. Còn phải tìm cách thân thiết cái thằng nhỏ người Việt nói tiếng Anh nhanh như vẹt, tên nó là Lóc Lóc, tiếng Việt vỡ lẽ ra là Lộc! ối ối ! chữ nghĩa lờ quờ thế mà cũng qua được cầu văn hoá xứ người. Tân Khoá Sinh mà còn qua được thì cái Diploma, cái Bachelor này làm gì mà không qua.
Kể đến người bạn Thái Văn Ngộ E28. Khi ra đơn vị, tôi cùng đại đội với Thái Văn Ngộ nhưng khác trung đội. Chỉ trong vòng 1 tuần, một buổi trưa nắng vào hè, nghe nói có 3 đưá lính đánh bài, ở tiền đồn, có lẽ lấy mìn chống chiến xa ngồi đánh bài, bị kích hoả, bay mất xác. Thật hư chưa biết, trưa hôm sau, lại nghe nói trung đội khác, có người lính gác hồi đêm đánh bạc thắng, gác ngủ gục, bị cắt cổ khi đang gác giữa ban ngày.
Tin chưa nguội, thì Thái Văn Ngộ, tội nghiệp anh là người bị phạt nhiều nhất trong đại đội E vì ánh mắt cận thị của Ngộ rất ăn khách với hai chữ tiểu xảo. Ba khoá ra trường, cách nhau chỉ mấy tháng. Khoá 28, 29 ra vào tháng 4 năm 1975. Khoá 27 ra tháng 12 năm 1974, cách nhau vài tháng, tất cả đều đeo lon thiếu uý, cho nên cách hay nhất về xưng hô, mà không cần ai dạy ai là gọi nhau là niên trưởng như cách đó vài tháng còn ở trong trường Võ Bị. Ban trưa, Thái Văn Ngộ xách xẻng đi vào bụi, rồi đủng đỉnh về, để cái xẻng nhỏ xuống như cơ bản thao diễn, rồi nghiêm trang báo cáo với NT Khoá 27, Trung đội trưởng là 'Thưa Niên trưởng, tụi nó là ai mà đang đào gần mình lắm, mà nhìn thì nón hổng phải của mình'.
Đang ngồi chơi với ông, người NT K27 nhìn qua tôi và nói trống không 'Về lại trung đội đi'. Người tôi bốc lên, chân cơ hồ không chạm đất, khi về lại trung đội, thì đã nghe tiếng đạn vang rền. Một đêm hôm trước, đứng nhìn xem trận đánh ở trường Thiết giáp, có chiếc máy bay thả trái sáng, đuôi bị dính hoả châu. Nay ban trưa chỗ mình, trận đánh cận chiến đã mở màn cuộc đời binh nghiệp.
Cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi như ánh lửa cuả cái nến chưa thắp sáng đã tắt, trong đêm trao nón và cầu vai An Pha đỏ ở lầu 3 đại đội E. Hỡi Phạm công Thành B52, đọc đến đây, ngươi có nhớ đêm hôm đó không?
Trung đội 1, đánh sát nách, đánh xáp lá cà. Tôi nghe trong PRC25 điều chỉnh đạn pháo binh kéo gần lại 200 mét rồi kéo gần lại 100 mét, rồi gần 50 mét sát tuyến của Trung đội1. Trung đội 2 cuả tôi, đóng cách xa 100 mét, cũng bắt đầu bị ghẻ. Một người khoá 29 cùng trung đội bị mảnh sướt nhẹ ở cổ, chảy máu, tôi cho phép anh đi theo trực thăng tải thương. Bấy giờ, tôi thầm lo cho Thái Văn Ngộ và người NT Khoá 27 tốt bụng này vô cùng. Chừng 3 giờ chiều, viên Đại đội phó, dẫn quân còn lại dàn hàng ngang xung phong lấy lại mục tiêu. Trung đội tôi bắn yểm trợ. Tôi nghe lính nói lại là Thái Văn Ngộ không bị trầy sứt gì, còn người NT K27 kia, từ đó không nghe nhắc đến nữa nhưng từ đó đến 30 năm sau, không hề ai gặp lại Thái Văn Ngộ. Ba đêm sau đó, tiểu đoàn Ó Biển cùng với Lữ đoàn 258, rút theo thế chân vạc về lại ngã 3 Long Thành.
Buổi trưa TKS, bị phạt tơi tả nhưng chẳng hề thấy đói. Vào Phạn xá là đã nghe trăm tiếng, tiếng hò, tiếng chỉ dạy: chỉ dạy cách ăn vuông góc, ngồi cho vuông góc, chân vuông góc, không vừa nhai vừa nói, không ngó ngang ngó dọc, không gãi không cạy mũi. Vừa ăn vừa phải bật nhạc để nghe cho nó ra vẻ lịch lãm, nhưng nhạc quân hành thì không cho nghe, chỉ nghe thấy toàn nhạc điệu Bolero,
chách chách chách, chách chùm, chách chum: '...Trời đêm dần tàn, tôi tới sân ga đưa tiễn người trai đi về làng, cầm chắc đôi tay, tôi hỏi nàng đêm nay lạnh không, chuyến xe đêm lạnh không, để người yêu vừa lòng....' chách chách chách, chách chùm, chách chum.
Trời thì lạnh, xác thì chỉ có chạy, chẳng bao giờ biết đi. Nghe nhạc thì âm thanh muốn não cả ruột, cái bà Thanh Thuý, giọng sao mà khàn khàn khiếp đảm đến thế. Chẳng biết từ khoá nào, ai là người chủ trương những bài hát không có một chút quân hành này. Từ đó, cứ từ khoá này sang khoá khác, ai cũng phải nghe cho nhớ nỗi khổ cuộc đời. Mà kỳ cục, nghe hoài cũng không thuộc hết bài hát.
Tôi phải để ít dòng kể về một người bạn tên là Trần văn Sự, đại đội E năm thứ nhất. Là một người rất nhỏ bé hiền lành, không đẹp trai, ốm lắm, được cái hay nhăn răng ra cười. Dẫu TKS, trong tuần lễ huấn nhục, bị phạt tơi bời, gìờ ăn mà cứ phải, chạy vòng quanh, vì cái miệng cứ như là cười. Vừa bị chạy vừa phải rống to "Đời có gì vui đâu mà cười".
No comments:
Post a Comment