Dù
bị hạn chế nhiều sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, nhưng Lực lượng
Phòng vệ mặt biển Nhật Bản (JMSDF) vẫn được đánh giá là đứng thứ hai
châu Á và là một trong những lực lượng đáng gờm trên thế giới.
Trước năm 1945, Hải quân Đế quốc Nhật Bản là lực lượng hùng mạnh trên thế giới, không thua kém các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên, sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Quân đội Nhật Bản nói chung, Hải quân Nhật Bản nói riêng đã bị thiệt hại nặng nề.
Đó là chưa kể, Nhật Bản sau chiến tranh nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Mỹ. Các vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang bị hạn chế nhiều. Theo đó, Nhật Bản chỉ được phép duy trì lực lượng phòng vệ, giới hạn hoạt động trong lãnh thổ Nhật, không tổ chức Bộ Quốc phòng.
Dù vậy, Nhật Bản vẫn nỗ lực phát triển đưa quân phòng vệ trở thành lực lượng hùng hậu không thua kém quân đội các nước thế giới. Đặc biệt, Lực lượng Phòng vệ Mặt biển Nhật Bản (JMSDF) được đánh giá là một trong những lực lượng hải quân lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 ở châu Á.
JMSDF có quân số thường trực khoảng 45.800 người, trang bị hàng chục tàu chiến mặt nước, tàu ngầm, tàu đổ bộ đủ kích cỡ.
Dưới đây là một vài hình ảnh về những tàu chiến mạnh nhất của JMSDF:
Trước năm 1945, Hải quân Đế quốc Nhật Bản là lực lượng hùng mạnh trên thế giới, không thua kém các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên, sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Quân đội Nhật Bản nói chung, Hải quân Nhật Bản nói riêng đã bị thiệt hại nặng nề.
Đó là chưa kể, Nhật Bản sau chiến tranh nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Mỹ. Các vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang bị hạn chế nhiều. Theo đó, Nhật Bản chỉ được phép duy trì lực lượng phòng vệ, giới hạn hoạt động trong lãnh thổ Nhật, không tổ chức Bộ Quốc phòng.
Dù vậy, Nhật Bản vẫn nỗ lực phát triển đưa quân phòng vệ trở thành lực lượng hùng hậu không thua kém quân đội các nước thế giới. Đặc biệt, Lực lượng Phòng vệ Mặt biển Nhật Bản (JMSDF) được đánh giá là một trong những lực lượng hải quân lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 ở châu Á.
JMSDF có quân số thường trực khoảng 45.800 người, trang bị hàng chục tàu chiến mặt nước, tàu ngầm, tàu đổ bộ đủ kích cỡ.
Dưới đây là một vài hình ảnh về những tàu chiến mạnh nhất của JMSDF:
Tàu
chở trực thăng lớp Hyuga (2 tàu), đây là con tàu lớn nhất mà Nhật Bản
đóng kể từ sau năm 1945. Hyuga có lượng giãn nước 19.000 tấn, dài 197m.
Tàu trang bị hỏa lực phòng không, chống ngầm tương đối mạnh với: tổ hợp
tên lửa đối không tầm trung RIM-162 ESSM, tên lửa chống ngầm RUM-139.
Tàu có thể chở 11 trực thăng hạng trung, hạng nặng các loại.
Tàu
chở trực thăng lớp Shirane (2 chiếc) có lượng giãn nước 7.500 tấn, dài
159m. Tàu có hỏa lực phòng không và chống ngầm khá mạnh: tổ hợp tên lửa
đối không tầm trung RIM-7, tên lửa chống ngầm RUR-5, ngư lôi 324mm. Tàu
thiết kế chở tới 3 trực thăng săn ngầm SH-60.
Khu
trục hạm tên lửa lớp Atago (2 tàu) có lượng giãn nước 10.000 tấn, dài
170m. Con tàu được xem như là biến thể khu trục hạm lớp Arleigh Burke
của Mỹ. Vì thế, Mỹ trang bị cho Atago hệ thống chiến đấu Aegis cực kỳ
hiện đại, biến nó trở thành một trong những tàu chiến có năng lực phòng
không mạnh nhất châu Á. Hỏa lực tàu gồm: tổ hợp tên lửa đối hạm RGM-84
Harpoon (tầm bắn 130km), tên lửa đối không tầm xa SM-2MR/SM-3 Block IA
(chứa trong 98 ống phóng thẳng đứng), tên lửa chống ngầm tầm xa RUM-139,
ngư lôi hạng nặng.
Khu
trục hạm tên lửa lớp Kongo (4 tàu), được xem là một biến thể của lớp
Arleigh Burke. Kongo có lượng giãn nước 9.500 tấn, dài 161m. Tàu cũng
trang bị hệ thống chiến đấu tiên tiến Aegis của Mỹ. Hỏa lực tàu tương tự
lớp Atago, nhưng ống phóng thẳng đứng chứa đạn tên lửa đối không tầm xa
SM-2MR/SM-3 ít hơn, 90 ống.
Khu
trục hạm lớp Hatakaze (2 tàu) có lượng giãn nước 4.650 tấn, dài 150m.
Tàu trang bị tổ hợp tên lửa đối hạm RGM-84 Harpoon, tên lửa đối không
tầm xa RIM-66, tên lửa chống ngầm tầm ngắn RUR-5, ngư lôi và pháo hạm.
Khu
trục hạm lớp Akizuki (1 tàu) có lượng giãn nước 6.800 tấn, dài 150,5m.
Tàu vũ trang hỏa lực mạnh: tên lửa hành trình đối hạm Type 90 (tầm bắn
200km), tên lửa đối không tầm trung RIM-162, tên lửa chống ngầm RUM-139
(chứa trong 32 ống phóng thẳng đứng), ngư lôi 324mm và pháo hạm.
Khu trục hạm lớp Takanami (4 tàu) có lượng giãn nước 6.300 tấn, dài 151m. Hệ thống vũ khí trên tàu tương tự lớp Akizuki.
Khu trục hạm lớp Murasame (9 tàu) có lượng giãn nước 6.100 tấn, dài 151m. Vũ khí trang bị tương tự 2 lớp Akizuki và Takanami.
Khu trục hạm lớp Murasame (9 tàu) có lượng giãn nước 6.100 tấn, dài 151m. Vũ khí trang bị tương tự 2 lớp Akizuki và Takanami.
Khu
trục hạm lớp Asagiri (8 tàu) có lượng giãn nước 4.900 tấn, dài 137m.
Tàu trang bị các loại vũ khí: tên lửa hành trình đối hạm RGM-84, tên lửa
đối không tầm trung RIM-7, tên lửa chống ngầm RUM-139, ngư lôi và pháo
hạm.
Khu
trục hạm cỡ nhỏ lớp Hatsuyuki (10 tàu) có lượng giãn nước 3.050 tấn,
dài 130m. Lớp Hatsuyuki trang bị hỏa lực giống với Asagiri. Với lượng
giãn nước như vậy, Hatsuyuki chỉ thuộc phân loại khinh hạm. Tuy nhiên,
JMSDF không sử dụng kiểu phân loại khinh hạm, thay vào đó họ gọi những
con tàu dưới 4.000 tấn là khu trục hạm cỡ nhỏ hoặc khu trục hạm hộ tống.
Khu
trục hạm hộ tống lớp Abukuma (6 tàu), lượng giãn nước 2.550 tấn, dài
109m. Tàu trang bị vũ khí: tên lửa đối hạm RGM-84, tên lửa chống ngầm
RUR-5, ngư lôi 324mm và pháo hạm.
Do
chịu sự hạn chế từ Mỹ, Nhật Bản không được phép sở hữu tàu ngầm chạy
bằng năng lượng hạt nhân. Vì vậy, họ chỉ duy trì tàu ngầm tấn công chạy
động cơ điện - diesel. Trong ảnh, tàu ngầm tấn công mới nhất của JMSDF,
lớp Soryu (4 chiếc) có lượng giãn nước 4.200 tấn, dài 84m. Tàu trang bị 6
máy phóng ngư lôi cỡ 533mm, tên lửa hành trình đối hạm phóng từ tàu
ngầm UGM-84.
Tàu
ngầm tấn công chạy động cơ điện - diesel lớp Oyashio (11 tàu) có lượng
giãn nước 4.000 tấn, dài 81,7m. Vũ khí trên tàu tương tự lớp Soryu.
Tàu ngầm tấn công lớp Harushio (3 chiếc), lượng giãn nước 2.700-2.900 tấn, dài 77-87m. Vũ khí trang bị tương tự 2 lớp tàu trên
Tàu ngầm tấn công lớp Harushio (3 chiếc), lượng giãn nước 2.700-2.900 tấn, dài 77-87m. Vũ khí trang bị tương tự 2 lớp tàu trên
Duy Quan ( Sacto)chuyển
No comments:
Post a Comment