Trần Bình Nam
Ngày 1/1/2013 tờ Tuổi Trẻ, một tờ báo do đảng kiểm soát phỏng vấn Thượng Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng về tình hình Biển Đông và quan hệ Trung quốc, Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á châu và hệ lụy đối với Việt Nam.
Qua cuộc phỏng vấn nhiều câu hỏi tướng Nguyễn Chí Vịnh trả lời khúc chiết và
có tầm nhìn chiến lược về tình hình tranh chấp Hoa Kỳ và Trung quốc và các khó
khăn của Việt Nam. Tuy nhiên về phần chính sách đáp ứng của Việt Nam thì tướng
Nguyễn Chí Vịnh đã đưa ra những phương sách đáp ứng có tính lý thuyết. Ông Vịnh
quên rằng quyền lợi của mỗi quốc gia chỉ có thể bảo đảm bằng chính nội lực kinh
tế, quân sự và quyết tâm của nhân dân.
Tướng Nguyễn Chí Vịnh cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung quốc là quan hệ
“vừa hợp tác vừa cạnh tranh, hay nói nôm na là nước nào cũng muốn vượt nhau
nhưng lại cần nhau, dù cạnh tranh gay gắt nhưng buộc phải hợp tác chặt chẽ, chia
sẻ lợi ích với nhau để cùng tồn tại và vươn lên”
Và ông cho rằng: “Nếu mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác này được tăng
cường, đem lại lợi ích cho Mỹ và Trung Quốc, đồng thời đem lại lợi ích chung cho
tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần duy trì hòa bình ổn
định thì chắc chắn sẽ được hoan nghênh. Tuy nhiên nếu mối quan hệ này phát triển
theo hướng thỏa hiệp và nhằm can dự, xâm phạm, làm tổn hại đến lợi ích các quốc
gia khác, gây mất ổn định cho khu vực thì các nước xung quanh sẽ gặp rất nhiều
khó khăn và chắc chắn không thể hoan nghênh cách hành xử như vậy của các cường
quốc”
Quay qua cách hành xử của Việt Nam ông Vịnh xác định Việt Nam sẽ không ngồi
yên để gió chiều nào xoay chiều đó một cách tiêu cực. Việt Nam sẽ phản ứng với
mọi động thái của nước lớn “ … một cách chủ động, tích cực – đó là đường lối độc
lập tự chủ trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế; tăng cường mối quan hệ liên
kết với các quốc gia trong khu vực hoặc ở phạm vi toàn cầu có cùng nhu cầu ổn
định và phát triển, cùng phải ứng phó với các thách thức giống nhau”
Điểm qua cách hành xử hiện nay của Hoa Kỳ và Trung quốc tại Á Châu Thái Bình
Dương, ông dùng lối phát biểu có tính chỉ trích cả hai nước. Ông cho rằng Hoa Kỳ
đã quá vội vàng. Ông nói:
“Chỉ trong vài năm qua, Hoa Kỳ bày tỏ tham vọng và trên thực tế họ đã can
dự, đã hiện diện rất ồ ạt vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương (có thể thấy rõ
nhất qua một số hiệp ước mà Mỹ đã ký với Nhật, Hàn Quốc, Úc, Philippines… gần
đây). Như vậy ở đây ai là người đã cho Mỹ có một lý do để can dự vào khu
vực?”
Và tướng Nguyễn Chí Vịnh cảnh giác mặt trái chính sách của Hoa Kỳ, dù ông
không xác định mặt trái đó là gì. Ông nói:
“Cách can dự của Mỹ, như họ tuyên bố là ủng hộ các giải pháp hòa bình và
luật pháp quốc tế, làm cho một số nước đồng tình mà có thể không lưu tâm đúng
mức đến mặt trái của nó”
Đối với Trung quốc lời lẽ của ông nặng nề hơn. Ông tố cáo:
“Trong thực tế, dù chỉ trong một thời gian rất ngắn, vài năm gần đây đã có
những tham vọng được bộc lộ, những tuyên bố và cả những hành động trên thực tế
khiến các nước trong khu vực cảm thấy lo lắng. Có nước lo xa, có nước lo rất
gần.
Đơn cử như việc một số nước tuyên bố về chủ quyền, không hiểu họ dựa vào đâu,
cơ sở pháp lý nào? Nay đưa ra bản đồ này đã rất tham vọng rồi, mai lại đưa ra
bản đồ khác tham vọng hơn nữa thì sao?
Một vấn đề rất cụ thể là chủ quyền trên biển Đông không chỉ có những nước
liên quan trực tiếp, mà cả cộng đồng thế giới đều không thể chấp nhận việc bất
kỳ một quốc gia nào đó muốn độc chiếm biển Đông, muốn biến đường vận tải quốc tế
thành ao nhà của mình.”
Nhưng phần quan trọng trong cuộc phỏng vấn của tướng Nguyễn Chí Vịnh là kế
hoạch Việt Nam đương đầu với khó khăn trước mặt. Về mặt này ông Nguyễn Chí Vịnh
không làm cho nhân dân Việt Nam yên tâm. Những chuẩn bị và kế hoạch của Việt Nam
có tính lý thuyết, không có khả năng đáp ứng những gì sẽ xảy ra trên hiện
trường. Trung quốc vừa có lãnh đạo mới, và đã hé lộ kế hoạch phát triển thế lực
trong vùng trong 10 năm tới. Những gì đã xẩy ra trên Biển Đông trong những năm
qua báo hiệu những cơn bão tố có thể tới trong năm 2013 trong quan hệ Trung quốc
và Việt Nam.
Trước hết một quốc gia muốn có một chính sách bảo vệ nền độc lập tự chủ thì
quốc gia đó phải có khả năng tự lập về phương diện kinh tế và quân sự và trên
hết là sự đoàn kết của toàn dân sau lưng chính quyền và tính chính thống của
chính quyền dựa trên Hiến Pháp được nhân dân công nhận.
Trong suốt lịch sử chống xâm lăng, tiền nhân trước khi xuất quân chống giặc
đều chuẩn bị lòng dân và phương tiện vật chất một cách đầy đủ và tự lực. Các vua
Trần từng chăn dắc thương yêu nhân dân như con qua bao triều đại, và trước khi
hạ quyết tâm xuất quân chống giặc Nguyên đã chuẩn bị lương thực, vũ khí cho binh
sĩ, và trang bị ý chí toàn dân toàn quân với hội nghị Diên Hồng.
Vua Quang Trung, trước khi xuất quân ra Bắc đã ban hành chính sách an lòng
dân bằng cách lên ngôi Hoàng Đế, và nức lòng quân bằng cách cho quân ăn Tết
trước để ngày đêm thần tốc bôn tập ra Bắc đánh úp quân Thanh khi chúng đang còn
uống rượu vui Xuân.
Trước cơn bão táp chờ đợi trước mắt đảng Cộng sản Việt Nam qua chương trình
tướng Nguyễn Chí Vịnh tiết lộ đã chuẩn bị những gì? Không có gì ngoài các chính
sách có tính phô trương.
Về vật chất Việt Nam ngoài lúa gạo, không có khả năng sản xuất quân trang
quân cụ. Một chiếc máy bay chiến đấu, một chiếc tàu chiến, một chiếc tăng, một
khẩu súng lớn đều lệ thuộc vào nước ngoài. Lịch sử tiếp cận với các nước Tây
phương trong gần 2 thế kỷ qua cho thấy chính vì không tự lực về mặt quân sự mà
Việt Nam phải bị Pháp thuộc gần 100 năm. Và sau đó những biến cố quân sự như
trận Điện Biên Phủ, và cuộc tiến quân 55 ngày chiếm miền Nam năm 1975 có đưa
đảng Cộng sản Việt Nam lên đài vinh quang trước dư luận thế giới, nhưng không
che dấu được sự thật phủ phàng là thực chất chỉ là một cuộc chiến tranh nhiệm
chức giữa các ý thức hệ mà sau lưng là Pháp, Mỹ, Nga, Tàu. Việt Nam chỉ đóng góp
bằng máu. Kết quả của hai cuộc chiến là sự sắp xếp sau lưng bởi các thế lực quốc
tế. Hiệp định Geneva chia đôi đất nước năm 1954 do Trung quốc ép ông Hồ Chí
Minh. Và Hà Nội đã thắng miền Nam Việt Nam với vũ khí của Liên bang Xô viết và
Trung quốc, và nhất là do sự chuyển đổi chính sách tòan cầu của Hoa Kỳ. Thay vì
ngăn chận sự lan tràn ảnh hưởng của Trung quốc, Hoa Kỳ hợp tác với Trung quốc
trong một kế hoạch chống Nga xô viết. Cái giá của vinh quang (1954, 1975) cho
Việt Nam là những hệ lụy đang đe dọa sự tồn tại của đất nước.
Về lòng dân, cái Việt Nam có thể có là quyết tâm của toàn dân nếu đảng Cộng
sản Việt Nam biết vận dụng thành một khối sau lưng chính quyền.
Về mặt này đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn thất bại. Trong khi Trung quốc áp
lực trên Biển Đông, ban hành biện pháp mạnh trong vùng Hoàng Sa, Trường Sa chung
quanh các hải đảo họ đang chiếm đóng thì đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra tòa xử
các công dân yêu nước, các nhà trí thức, nhà báo từng lên tiếng cảnh gíac sự đe
dọa của Trung quốc với những bản án nặng nề. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đàn
áp dân oan kiện chính quyền vì mất đất đai canh tác mà không đưọc đền bù tương
xứng do tệ nạn cửa quyền và tham nhũng.
Ngay cả nhân dân muốn biểu tình bày tỏ tình cảm đối với biển đảo đang bị
Trung quốc đe dọa cũng bị chính quyền cấm. Tướng Nguyễn Chí Vịnh nói:
“Biểu tình bây giờ sẽ gây mất ổn định. Trong khi đó đất nước ta đang hơn
bao giờ hết cần ổn định, cần sự đồng thuận để phát triển, để bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ.”
Và ông giải thích thêm: “Chúng ta trân trọng tình cảm, ý chí của những
người thật sự biểu tình vì yêu nước. Nhưng cũng phải thấy rằng với những ai (ông
Nguyễn Chí Vịnh ám chỉ Trung quốc) có dã tâm độc chiếm biển Đông thì họ sẽ viện
cớ biểu tình để xuyên tạc thiện chí của Việt Nam, xuyên tạc chủ trương giải
quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình của Việt Nam”
Lý luận của tướng Nguyễn Chí Vịnh là một thứ lý luận của con đà điểu chui đầu
vào cát. Nếu đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng tình cảm của những người biểu
tình chống Trung quốc vì yêu nước, tại sao đảng không tạo cơ hội cho họ lên
tiếng trong cung cách không cho họ lợi dụng lật đổ chính quyền như biểu tình hạn
chế số người, hạn chế đường tuần hành, hội thảo tại các đại học, hay ý kiến của
nhân dân được bày tỏ công khai trên báo chí. Và tại sao không công khai đưa vấn
đề Biển Đông ra trước Liên Hiệp quốc?
Trả lời một câu hỏi của báo Tuổi Trẻ về ý thức hệ giữa Trung quốc và Việt Nam
có giúp gì trong sự tranh chấp hiện nay không, tướng Nguyễn Chí Vịnh
nói:
“Tôi nghĩ rằng khi đã là người cộng sản với nhau, để giải quyết bất cứ vấn đề nào đó mà gọi nhau là đồng chí, còn hơn là quay lưng không nhìn nhau hoặc đập bàn đập ghế “ngài” và ‘tôi’.”
“Tôi nghĩ rằng khi đã là người cộng sản với nhau, để giải quyết bất cứ vấn đề nào đó mà gọi nhau là đồng chí, còn hơn là quay lưng không nhìn nhau hoặc đập bàn đập ghế “ngài” và ‘tôi’.”
Tướng Nguyễn Chí Vịnh đang nằm mơ giữa ban ngày. Tình đồng chi’ “xã hội chủ
nghĩa” đã chết từ lâu. Không cần phải nhẹ nhàng như ‘ngài và ‘tôi’ mà đại pháo
đã nổ qua biên giới Nga – Hoa trên sông Amur năm 1969, đã nổ qua biên giới Việt
Miên năm 1978, đã nổ trên biên giới miền Bắc Việt Nam năm 1979, đã nổ ngoài biển
Trường Sa năm 1988 …
Ông Nguyễn Chí Vịnh bày tỏ sự lo ngại Hoa Kỳ và Trung quốc trong tương lai có
thể thi hành chính sách chia vùng ảnh hưởng và quyền lợi. Nhưng nếu quả có thế
thì Việt Nam làm gì để thoát khỏi sự chia chác đó? Việt Nam không có đủ lực để
vượt ra. Hãy đặt một giả thuyết. Ngoài bờ biển miền Trung Trung quốc vẽ đường
lưỡi bò chồng lên vùng “đặc quyền kinh tế 200 hải lý” của Việt Nam theo luật
quốc tế. Trong vùng chập nhau đó Trung quốc từng cho thuyền tàu đến gây trở ngại
cho việc dò tìm dầu khí của Việt Nam. Nếu Trung quốc kéo dàn khoan tới trong
vùng chập nhau với sự bảo vệ của tàu chiến để khoan dầu thì Việt Nam sẽ hành xử
ra sao? Đánh nhau thì Hải quân Việt Nam sẽ không đủ sức đối chọi với Hải quân
Trung quốc. Dùng đường lối ngoại giao thì Việt Nam có gì sau lưng để du thuyết
?
Trong năm 2012 sau khi Việt Nam ban hành Luật Biển xác định chủ quyền trong
vùng biển chung quanh Hoàng Sa và Trường Sa và thủ tục bảo vệ kể từ ngày
1/1/2013 thì để đáp ứng lại tỉnh Hải Nam (của Trung quốc) ban hành văn kiện hành
chánh xác định vùng biển chung quanh Hoàng Sa của họ và ấn định biện pháp bảo vệ
cũng có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Vào những ngày đầu năm 2013 Trung quốc đã lên
tiếng cảnh cáo Việt Nam chớ thi hành Luật Biển mà có chuyện. Đó là một điểm nóng
khác sẽ trở thành tia lửa. Việt Nam đã chuẩn bị chưa?
Trong khung cảnh dầu sôi lửa bỏng như vậy qua lời tướng Nguyễn Chí Vịnh, nhà
nước bình chân như vại tin tưởng vào đường lối hòa bình của mình, tin tưởng vào
thiện chí của Trung quốc, tin tưởng vào sự phát triển kinh tế, tin tưởng một năm
2013 tốt đẹp.
Nghe tướng Nguyễn Chí Vịnh nói, ước vọng của ông: “Không có gì khác ngoài
ước vọng chung của mọi người Việt Nam là đất nước ta tiếp tục ổn định, nền kinh
tế ấm lên, đời sống khá hơn. Tôi mong đất nước ta tiếp tục mở rộng quan hệ với
tất cả các nước trên thế giới, vị thế quốc tế của đất nước ta ngày càng được
nâng cao, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc có bước phát triển tốt đẹp hơn, thúc đẩy
hợp tác về kinh tế trên cơ sở hợp tác tốt về chính trị, từng bước giải quyết vấn
đề biển Đông” mà lo .
Nếu những gì tướng Nguyễn Chí Vịnh trả lời báo Tuổi Trẻ ngày 1/1/2103 phản
ánh não trạng của Bộ chính trị đảng Cộng sản Việt Nam thì mối nguy mất nước
không còn xa.
Trần Bình Nam
Jan . 5, 2013
No comments:
Post a Comment