Tờ báo này cũng
cảnh báo về sai lầm to lớn nếu ai đó quyết định ngả theo Trung Quốc trong các
vấn đề Biển Đông.
Ngày 1/6, trên
trang mạng của tờ báo Nga “Gazeta.ru” có đăng
bài bình luận – phân tích của nhà báo Vladimir Koriaghin về những diễn biến
căng thẳng trên Biển Đông sau khi Trung Quốc tiến hành việc hạ đặt giàn khoan
Hải Dương 981 tại Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam.
Bài báo có nhan đề
“Người Việt Nam không bao giờ chấp nhận”, với hơn 2.500 từ, phân tích khá chi
tiết từ cứ liệu lịch sử đến những hành động của Trung Quốc trong nhiều năm trở
lại đây... để khẳng định tính phi lý của Trung Quốc đối với khu vực Biển
Đông.
Mở đầu, bài báo
nêu vấn đề: Bất đồng giữa các quốc gia trong vùng Biển Đông đang gây ra những
xung đột về lãnh thổ, trong đó một bên là CHND Trung Hoa. Và “Gazeta.Ru” tìm
ra lịch sử các xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam khi lý giải vì sao quần
đảo Hoàng Sa là của Việt Nam.
Với đề mục “400
năm không Trung Quốc”, bài báo đã dẫn ra một số cứ liệu địa lý, lịch sử để
khẳng định rằng, quần đảo Hoàng Sa trong mấy thế kỷ gần đây không có trong bản
đồ của Trung Hoa thời cổ lẫn kim. Tác giả nêu vị trí kinh độ, vĩ độ, rồi nêu
một điểm đáng ghi nhận trong tập bản đồ cổ của Việt Nam từ Thế kỷ thứ 17,
khẳng định trong đó lần đầu tiên nhắc đến tên “Cát Vàng” (tức “Hoàng Sa”) và
quần đảo “Spratli”.
Theo các cứ liệu
lịch sử, vào năm 1721, một Công ty của Việt Nam mang tên “Công ty Hoàng Sa” đã
được thành lập nhằm khai thác các đảo trong vùng Biển Đông cũng như cử các đội
tàu tới đó. Trong khi đó thì trong tất cả các tư liệu cùng thời của Trung
Quốc, không hề có chữ nào nhắc tới Spratli hay Paraseli.
Bài báo còn đưa ra
những tư liệu lịch sử nói về sự có mặt liên tục của Việt Nam qua các thời kỳ
và đến tận đầu thế kỷ 19, khi Thực dân Pháp đô hộ và lập từ điển Latin – An
Nam thì quần đảo Hoàng Sa vẫn được lấy theo tên gọi “Cát vàng” của Việt Nam.
Một câu chuyện được dẫn ra để chứng minh việc Trung Quốc không hề có vai trò
gì ở đây là vào cuối thế kỷ 19, trong khu vực Hoàng Sa xảy ra tai nạn với 2
chiếc tàu của Vương Quốc Anh chở nhiều tài sản quý. Người dân Trung Quốc thuộc
tỉnh Hải Nam đã chiếm hết số tài sản này, khiến người Anh nổi giận. Nhưng khi
đó, người Trung Quốc đã trả lời rằng, Hoàng Sa không phải là lãnh thổ của
Trung Quốc, bởi thế Chính quyền nước này không chịu trách nhiệm gì về những
việc xảy ra trên quần đảo này.
Sau những phân
tích đó, tác giả bài báo cho rằng, những hành động của Trung Quốc gây mâu
thuẫn và tranh chấp trong khu vực Hoàng Sa là do tư tưởng bá quyền của Trung
Quốc. Tác giả tiếp tục đưa ra những cứ liệu lịch sử để vạch ra những hành động
sai trái của Trung Quốc khi từng bước “Hán hóa” quần đảo Hoàng
Sa.
Từ chỗ cho ra bản
đồ hành chính mới của Trung Quốc năm 1933 gọi quần đảo Spratli và Parasel là
Nam Sa và Tây Sa... rồi đến việc vào năm 1947 Trung Quốc chính thức tuyên bố
các tên gọi Nam Sa và Tây Sa cho các quần đảo mà Trung Quốc chiếm trước khi
người Pháp cùng người Việt Nam ra giải giáp vũ khí của quân Nhật sau khi Chiến
tranh Thế giới thứ hai kết thúc.
Tiếp đó là nhiều
sự kiện khác nữa, trong đó có việc Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm hoàn toàn được
tác giả bài báo nhắc lại thông qua sự kiện xảy ra vào tháng 1/1974. Khi đó
Trung Quốc đã dùng vũ lực để nắm quyền kiểm soát và bắt đầu chuẩn bị khai thác
trong khu vực Spratli.
Tác giả bài báo
dùng cụm từ “Bắc Kinh đốn củi” để nói về quan điểm không thay đổi của Trung
Quốc đối với vùng Biển Đông. Thời gian đó, khi dầu mỏ và khí đốt được tìm thấy
vào đầu những năm 1990 cách không xa quần đảo Hoàng Sa, Bắc Kinh đứng ngồi
không yên.
Đã xảy ra những va
chạm ở phạm vi cục bộ trên vùng Biển Đông trong nhiều năm, nhưng không dẫn đến
đụng độ quân sự.
Rồi đến sự kiện
giàn khoan Hải Dương – 981. Tác giả bài báo, Vladimir Kuriaghin khẳng định
Trung Quốc đã để xảy ra xung đột trong vùng đặc quyền kinh tế không phải của
Trung Quốc. Tác giả dẫn ra những hành động, lời phát biểu của cộng đồng quốc
tế cũng như của người dân Việt Nam phản đối việc làm của Trung Quốc và cho
rằng, Trung Quốc đã không đưa ra những phản hồi xây dựng đối với những đòi hỏi
hợp pháp từ phía các đại diện của cộng đồng thế giới.
Cũng trong bài báo
của mình, tác giả Kuriaghin trích dẫn ý kiến của các chuyên gia có uy tín nhất
trong lĩnh vực nghiên cứu Biển Đông và quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, thông
qua cuộc trao đổi của họ với “Gazeta.Ru”, để lý giải về bản chất của những gì
đang diễn ra và triển vọng giải quyết xung đột. Đó là Grigori Locshin, Tiến sỹ
Khoa học Lịch sử, chuyên viên Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN của Viện
Viễn Đông – Viện Hàn lâm Khoa học Nga; Ivan Melnikov, Phó Chủ tịch Thứ Nhất
BCH Trung ương Đảng Cộng sản LB Nga, Phó Chủ tịch Thứ Nhất Duma Quốc gia Nga
(tức Hạ Viện); Giáo sư Viện Hàn lâm Quốc phòng Australia Carl Thayer, một
trong những chuyên gia uy tín nhất trong nghiên cứu Biển Đông; Nicolai
Kolesnic, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tổ chức Xã hội liên vùng các cựu chiến binh
Nga tại Việt Nam; Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Saint Peterburg
Vladimir Kolotov và nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Nghiên cứu Chiến lược Nga
Ilya Usov....
Qua các ý kiến
này, việc làm của Trung Quốc càng bị khẳng định là sai trái, gây bất ổn trong
khu vực. Dư luận chung đều lo ngại diễn biến căng thẳng này và bày tỏ mong
muốn các bên giải quyết xung đột bằng thương lượng hòa bình.
Đặc biệt, trong ý
kiến của mình, nhà nghiên cứu Ilya Usov nêu: “Trung Quốc và Việt Nam là những
đối tác chiến lược duy nhất của Nga ở Đông Á. Trước đây đất nước chúng ta giữ
quan điểm trung lập trong những tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Với sự thay
đổi trong đường lối chiến lược của Nga xuất hiện một mối nguy hiểm (đây quả
thực là nguy hiểm), rằng Moscow có thể xem xét lại quan hệ của mình trước
những quan điểm của các bên trong vùng Biển Đông, thay đổi quan điểm trung lập
hoàn toàn bằng ngả về phía Trung Quốc. Tuy nhiên, tôi cho rằng, nếu điều đó
xảy ra thì sẽ là sai lầm”./.
No comments:
Post a Comment