Chính phủ Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo Đại thành lập sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp và chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945
Chính phủ Trần Trọng Kim
Chính phủ Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo
Đại thành lập sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp và
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm
1945 đến ngày 25 tháng 8 năm 1945 kể cả thời gian xử lý thường vụ.Tổng
cộng hơn bốn tháng. Chính phủ này thường bị những người Cộng Sản và
luôn cả các tác giả các sách giáo khoa hay những nhà nghiên cứu chuyên
môn ở miền Bắc thời trước và sau năm 1975 trực tiếp hay gián tiếp gọi
là bù nhìn, là Việt gian, là tay sai của Nhật (4). Nhiều học giả ngoại
quốc cũng gọi theo như vậy hay cố tình không nói tới. Các tác giả của
miền Nam và ở hải ngoại, trái lại, đã tỏ ra thận trọng và có cảm tình
hơn. Vũ Ngự Chiêu, một tiến sĩ sử học được huấn luyện ở Hoa Kỳ, tác giả
của nhiều công trình nghiên cứu quan trọng về lịch sử Việt Nam hiện
đại, qua tác phẩm song ngữ Anh Việt: The Other Side of the 1945
Revolution: The Empire of Viet-Nam (3-8/1945), A new Interpretation –
Phía Bên Kia Cuộc Cách Mạng 1945: Đế Quốc Việt-Nam (3-8/1945), (5) và Lê
Xuân Khoa, một cựu giáo sư triết học thuộc Viện Đại Học Saigon và một
chuyên gia về người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ sau này, qua Việt Nam,
1945-1995: Chiến Tranh, Tị Nạn, Bài Học Lịch Sử, Tập I (6), là hai
trường hợp điển hình cần được ghi nhận. Sáu mươi năm đã trôi qua, đã đến
lúc người ta phải nhận định lại bản chất và vai trò của chính phủ này
và người đứng đầu nó cho chân thật và rõ ràng hơn, đồng thời những
thành quả, dầu cho là giới hạn của nó. Đây là một nhận thức căn bản
trước khi người ta nói tới Cách Mạng Tháng Tám hay Việt Minh Cướp Chính
Quyền của năm 1945.
Tai nạn lịch sử hay cái thế “chẳng đặng đừng”
“Tai nạn lịch sử“ là chữ của Vũ Ngự Chiêu (7). Vũ Ngự Chiêu dùng chữ này để gọi chính phủ Trần Trọng Kim vì theo ông nó “được khai sinh do nhu cầu quân sự của Nhật”.
Nhận định này không chỉ đúng với hoàn cảnh đương thời mà đúng luôn cả
cho hoàn cảnh, tâm tư của chính Trần Trọng Kim và luôn cả vị hoàng đế
đương thời là vua Bảo Đại. Cả hai đều bị đặt vào thế “chẳng đặng đừng”,
nói theo lối của người Miền Nam. Cả hai đều không trông đợi, nói theo
ngôn ngự bình thường. Riêng Trần Trọng Kim, với bản chất là một nhà
giáo, một tác giả của bộ sách Giáo Khoa Thư cho đến hiện tại người ta
vẫn còn in lại và vẫn còn ưa đọc và viết nhiều về nó, với bản chất là
một nhà nghiên cứu về lịch sử, triết học, một dịch giả của thơ Đường,
đặc biệt là Việt Nam Sử Lược, một tác phẩm vừa là giáo khoa, vừa là
nghiên cứu phổ thông cho đến những ngày hiện tại vẫn còn được nhiều
người tin cậy và cẩn trọng giữ gìn, đã tỏ ra chẳng bao giờ mong đợi, với
tuổi ngoài sáu mươi của thời đó, ít nhất đã hai lần từ chối để nhường
chỗ cho Ngô Đình Diệm và một lần từ chức nhưng luôn luôn ở vào thế
“chẵng đặng đừng” phải chấp nhận đứng ra lập chính phủ hay ở lại để xử
lý thường vụ trong tất cả mọi giới hạn của nó. Bảo Đại cũng vậy. Sau này
trong hồi ký của ông, vị thủ tướng bất đắc dĩ này đã kể lại rằng sau
gần mười ngày chờ đợi và cứ cách ba bốn hôm ông lại đến gặp cố vấn tối
cao Nhật để hỏi tin tức vê ông Diệm để được trả lời là “chưa biết ông
Diệm ở đâu” sau là “ông Diệm đau chưa về được”, rồi vì Bảo Đại “sốt
ruột, triệu tôi vào bảo chịu khó lập chính phủ mới”. Tâm sự của hai
người đã được giãi bầy qua lời kể lại sau đây:
“Ngài nói:- Trước kia người mình chưa độc
lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ
ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo
mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho
nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc
nước.Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu
rằng:- Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong Ngài
nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin
Ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu
lại.” (8)
Và Trần Trọng Kim đã thành lập được một
chính phủ với danh sách các bộ trưởng được đệ trình lên nhà vua vào sáng
ngày 17 tháng 4 năm 1945.
Học thức, tư tưởng và đức hạnh
Là một nhà giáo và một nhà nghiên cứu không
đảng phái, không bè đảng, không có sẵn người, Trần Trọng Kim đã dựa
theo tiêu chuẩn nào để lựa chọn người cho nội các của mình? Cũng trong
hồi ký của ông, nhà chính trị gia bất đắc dĩ này đã cho biết là phải có
đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, phải có đức hạnh chắc chắn
để dân chúng kính phục. Nhận xét về danh sách này, Bảo Đại phê là
“Được”, còn Tối Cao Cố Vấn Nhật Yokohama thì chúc mừng là “cụ đã chọn
được người rất đứng đắn.” (6) Cũng cần phải để ý là trong những ngày đầu
này, người đã cộng tác chặt chẽ với Trần Trọng Kim là Hoàng Xuân Hãn,
thạc sĩ toán học (9) và cũng là một nhà giáo được sự kính mến của hầu
hết các nhà trí thức trẻ đương thời. Điều này tất nhiên là dễ hiểu. Hai
nhà giáo bất đắc dĩ phải làm chính trị, vốn quen nhau từ trước, cộng
tác chặt chẽ với nhau là một chuyện tự nhiên. Nó cũng là một dữ kiện
cần thiết giúp ta giải thích tại sao chính phủ Trần Trong Kim lại chú
trọng nhiều đến các công tác văn hóa và giáo dục, nhất là giáo dục mà
thành quả đã tồn tại đến tận ngày nay và có thể rất lâu sau này.
Chính phủ đầu tiên của một nước Việt Nam
độc lập này gồm có một thủ tướng với danh xưng nội các tổng trưởng và
mười bộ trưởng với hai người là giáo sư, bốn người là y sĩ, bốn người là
luật sư và một ngươi là kỹ sư. Đây là lần đầu danh xưng bộ trưởng đã
dùng thay cho danh xưng thượng thư, cùng với sự xuất hiện của nhiều bộ
mới như ngoại giao, thanh niên, y tế, tiếp tế… nhằm đáp ứng nhu cầu của
thời cuộc, thay vì chỉ có lục bộ như thời trước. Trong số các bộ, không
bộ quốc phòng. Trần Trọng Kim trong hồi ký của ông có giải thích điều
này bằng nhiều lý lẽ, nhưng sự thiếu vắng bộ quốc phòng đã gây ra cho
chính phủ của ông nhiều trở ngại khi tình thế thay đổi và nhất là khi
quân Nhật bị giải giáp và Việt Minh cướp chính quyền.
Bốn tháng đầy rẫy những khó khăn nhưng những thành quả đạt được không phải là không đáng ghi nhận
Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại có hơn
bốn tháng kể cả thời gian xử lý thường vụ, và đã gặp rất nhiều trở
ngại do hoàn cảnh của đất nước đương thời gây ra trong đó có nạn đói, có
chiến tranh, có quân đội Nhật chiếm đóng và chiếm đóng vào lúc họ gần
bị thất trận, có sự thiếu thật tình của người Nhật, có kinh tế khó
khăn, có những sự chống đối trong nội bộ, có sự chỉ trích của dư luận
do trình độ hiểu biết còn thấp kém, do sự nông nổi nhất thời hay bị
tuyên truyền sai lạc, doạt nạt bằng bạo lực và ghen tị, có sự thiếu các
phương tiện truyền thông và di chuyển, quan trọng nhất là thiếu nhân
sự nhất là ở các địa phương (10) và các phương tiện để duy trì an ninh.
Nhưng nguy hiểm nhất là sự phá hoại của Cộng Sản được người Mỹ nhất
thời giúp đỡ, hoạt động ngụy trang dưới danh hiệu Việt Minh với mục duy
nhất là cướp chính quyền và cướp chính quyền bằng đủ mọi cách. Từ ngữ
bù nhìn đã được họ sử dụng để chỉ cả Bảo Đại lẫn nội các Trần Trong
Kim. Điển hình là qua tờ Cờ Giải Phóng thời đó tác giả Tân Trào đã viết
“Thân phận bù nhìn nó (chính phủ Trần Trọng Kim) chỉ có thể giữ
việc bù nhìn… nhiệm vụ cuả nó là bọc nhung vào cái ách của Nhật, đầu
độc đồng bào, thái độ của nó là ca ngợi Nhật, vào hùa với Nhật áp bức
bóc lột nhân dân”. Đây là đoạn văn đã được Dương Trung Quốc trích
dẫn trong tác phẩm của ông với lời ghi chú tiếp theo về thái độ của
những người cách mạng: “Thái độ của những người cách mạng là cương
quyết vạch trần bản chất của nội các Trần Trọng Kim, thức tỉnh những
người có ảo tưởng về “bánh vẽ độc lập” của Nhật và vạch rõ chỉ có một
con đường duy nhất là tiến tới thành lập một chính quyền cách mạng của
nhân dân như chỉ thị của Tổng Bộ Việt Minh đã đưa ra ngay trước ngày
nội các này thành lập” (11). Xin đọc kỹ tám chữ sau cùng: ngay
trước khi nội các này thành lập, không để cho nó có thì giờ hoạt động.
Nói theo ngôn ngữ thông thường, họ đã đánh phủ đầu ngay từ rất sớm. Sau
đó đã từ chối mọi sự cộng tác dù cho Trần Trọng Kim qua Phan Kế Toại,
cho người móc nối và đề nghị gặp và đề nghị mà người viết sẽ trình bày
chi tiết hơn ở phần dưới bài này. Một điều tất nhiên và dễ nhiểu: Đảng Cộng Sản phải là đảng cầm quyền và duy nhất cầm quyền.
Vượt qua tất cả mọi khó khăn, Trần Trọng
Kim và các cộng sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương
trình hành động cụ thể và thực tế, từ những việc làm có tính các tương
trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca…
đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải
trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam và cấm họ liên lạc trực tiếp
với người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam
hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má, tư pháp, vận động thanh niên sinh viên
và cả quần chúng nói chung tham gia sinh hoạt chánh trị, xã hội, lập
các hội đồng tư vấn địa phương và vận dụng mọi khả năng để thực hiện.
Những thành quả này đã được các sách vở của phía những người không Cộng
Sản nói tới và đặc biệt Vũ Ngự Chiêu, người đầu tiên nghiên cứu tương
đối kỹ càng và có phương pháp dựa trên các tài liệu đủ loại nhất là các
tài liệu lấy từ văn khố Pháp hay các sách báo đương thời, thay vì chỉ
sử dụng những tài liệu mang nặng tính cách tuyên truyền. Theo ông “Tài
liệu chính thức của Cộng sản Việt Nam và các học giả thường hạ thấp
giá trị nhhững kế hoạch của chính phủ Kim như “cải cách giấy”, hay độ
lượng hơn, chỉ thuần là những tuyên cáo về ý định của chính phủ. Từ
thời điểm này của lich sử nhìn lại, trong bốn tháng cầm quyền, chính
phủ Kim chỉ có thì giờ ban hành hết dụ này qua sắc luật khác, và những
cuộc cải cách ấy có rất ít ảnh hưởng đến đám đông. Tuy nhiên, các kế
hoạch của Kim xứng đáng được nghiên cứu đầy đủ hơn những lời nhận định
sơ sài trên. Các kế hoạch của chính phủ Kim phản ảnh quan điểm tổng
quát của giới thượng lưu và trí thức về một nước Việt Nam
không-ảnh-hưởng Pháp ở cao điểm của chủ thuyết Đại Á và tinh thần quốc
gia Việt Nam. Hơn nữa, trái ngược với niềm tin phổ quát, Kim và các
cộng sự viên phần nào thực hiện những chương trình trên. Bởi thế các kế
hoạch của Kim xứng đáng được nghiên cứu vào sâu chi tiết, và trên vị
thế lịch sử của chúng” (12). Đi xa hơn, Lê Xuân Khoa đã khẳng định là không riêng Trần Trọng Kim mà luôn cả Bảo Đại “không
phải là “bù nhìn” cuả Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa hoàn
toàn, vẫn là một thưc tại chứ không phải “bánh vẽ”, nhất là so với những
điều kiện của một “quốc gia tự do” và viễn tượng thống nhất mơ hồ như
trong hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946 mà Chủ tich Hồ Chí Minh phải ký
kết với Cao Ủy Bollaert” (13).
Nổi bật nhất và tồn tại lâu dài nhất là chủ
trương và nỗ lực Việt hóa giáo dục của chính phủ Trần Trọng Kim qua
chương trình Hoàng Xuân Hãn, một chủ trương đã được thực hiện ngay từ
những tháng cuối cùng của năm học 1944-1945 đầy những biến cố khủng
khiếp với một kỳ thi tiểu học thành công như một bằng chứng cụ thể không
thể chối cãi được của Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn và các phụ huynh
và các nhà giáo đương thời. Chủ trương có tính cách cấp thời mang nặng
tinh thần quốc gia độc lập này đã mở đầu cho một bước ngoặt mới trong
lịch sử giáo dục Việt Nam. Nó đã tồn tại và phát triển liên tục trên
toàn quốc Việt Nam bất kể là quốc gia hay cộng sản cho đến tận ngày nay
nhưng rất ít được người ta chú ý tới, y hệt như những nỗ lực âm thầm
của các nhà giáo ở bất cứ thời nào, bất cứ địa phương nào trên lãnh thổ
Việt Nam và bây giờ là ở hải ngoại. Kèm theo với giáo dục là sự vận
dụng và tổ chức hàng ngũ thanh thiếu niên thời này hướng tới ý thức
trách nhiệm và những hành động cụ thể để đáp ứng những nhu cầu cấp bách
của xã hội và của dân tộc đương thời như cứu đói, chống nạn mù chữ…
Năm lần tiếp xúc và mời Việt Minh hợp tác đều bị chối từ
Trước ngày 19 tháng 8, có ít nhất năm lần
chính phủ Trần Trọng Kim đã tiếp xúc với đại diện Việt Minh mời hợp
tác. Những chi tiết liên quan tới các cuộc tiếp xúc này đã được những
nhân vật chính trong các biến cố này là Trần Trọng Kim (14) và Nguyễn
Xuân Chữ (15) thuộc chính phủ của nhà vua đương thời và Lê Trọng Nghĩa,
tự xưng tên là giáo sư Lê Ngọc trong thời gian tiếp xúc, người đại diện
cho Việt Minh trong tất cả các buổi họp mặt kể lại trong hồi ký của
mình (16).
Trần Trọng Kim hồi đầu tháng 8 ra Bắc với
mục đích đòi trả lại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và xứ Nam
Bộ cùng các cơ sở mà người Nhật còn chiếm giữ cho chính phủ Việt Nam,
hủy bỏ chế độ phủ toàn quyền vốn có từ trước, từ thời Pháp thuộc, đồng
thời đòi trả tự do cho các thanh niên theo Việt Minh đi tuyên truyền bị
Nhật bắt rất nhiều ở Hà Nội. Phan Kế Toại là Khâm Sai Bắc Bộ lúc đó.
Ông vốn là một tổng đốc có tiếng là thanh liêm trước khi được Trần
Trọng Kim chỉ định vào chức vụ này. Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ là chủ tịch
của Ủy Ban Giám Đốc Chính Trị Miền Bắc. Ủy ban này gồm có năm người,
bốn người kia là Phan Kế Toại, Trần Văn Lai (lúc đó là thị trưởng Hà
Nội), Đặng Thai Mai, nhà giáo và Nguyễn Tường Long tức nhà văn Hoàng
Đạo. Lê Trọng Nghĩa, không ró lẽ là đảng viên đảng Dân Chủ của Dương
Đức Hiền và Vũ Đình Hòe, lúc đó đã là đảng viên Đảng Cộng Sản, mới vượt
nhà pha Hỏa Lò ra và được Trung Ương của Đảng Cộng Sản điều về công tác
Mặt Trận và được giao cho phụ trách khối Dân Chủ trong Mặt Trận Việt
Minh ở Hà Nội và một số thành phố miền Bắc, trên lý thuyết dưới quyền
Tổng Thư Ký Dương Đức Hiền nhưng trên thực tế là dưới quyền của Lê Đức
Thọ, người vừa thay mặt Trung Ương Cộng Sản vừa thay mặt Tổng Bộ Việt
Minh. Cả hai người này lúc đó đều đi họp ở Tân Trào nên không có mặt ở
Hà Nột trong thời gian tiếp xúc.
Cuộc họp thứ nhất có tính cách bí mật được
thực hiện vào một buối sáng không rõ ngày nào nhưng có lẽ vào cuối
tháng bảy vì theo Lê Tọng Nghĩa, nó chỉ cách buổi móc nối tiếp theo nhằm
dẫn tới cuộc tiếp xúc của ông với Thủ Tưởng Trần Trong Kim ít ngày và
Trần Trọng Kim thì có mặt ở Hà Nội vào đầu tháng 8. Địa điểm là tại
dinh Khâm sai, trong giờ làm việc. Trong buổi họp này đại diện Việt
Minh Lê Trọng Nghĩa đã trình bày chủ trương và hoạt động chống Nhật của
bên mình và cục diện chiến tranh, chuyện Hoa quân nhập Việt và đồng
minh có thể đổ bộ. Phan Kế Toại thi lắng nghe, hỏi và đề nghị “tiếp tục giữ mối quan hệ, liên lạc nhưng chú ý giữ kín đáo…” Bốn chữ “chú ý giữ kín đáo” cho phép người ta nghi rằng cuộc tiếp xúc này của Phan Kế Toại là của riêng cá nhân ông.
Cuộc tiếp xúc lần thứ hai quan trọng hơn,
nếu không nói là quan trọng nhất vì đó là do sáng kiến của chính Thủ
Tướng Trần trọng Kim khi ông ra Bắc để như đã nói ở trên điều đình với
người Nhật về việc thâu hồi toằn bộ lãnh thổ, các cơ sở hành chánh cũ
của Pháp, xin tha và trả lại hết các các binh sĩ và sĩ quan Việt Nam mà
quân Nhật còn giam giữ ở khắp nơi để chức đội quân bảo an cùng súng
ống để võ trang cho đội quân này, đồng thời can thiệp cho các thanh niên
bị người Nhật bắt giữ. Cả hai nhân vật chủ cốt trong trong cuộc gặp gỡ
này là Thủ Tướng Trần Trọng Kim và đại diện Việt Minh đều đã kể lại
trong các hồi ký của minh. Thời gian gặp gỡ là đầu tháng 8, người móc
nối cho cuộc gặp gỡ là Phan Kế Toại và địa điểm là phòng khách Phủ Khâm
Sai Bắc Bộ. Vì đây là một cuộc tiếp xúc quan trọng, nó phản ảnh quan
điểm cuả cả hai phía, có những chi tiết trùng hợp và những chi tiết khác
biệt nên người viết thấy cần phải ghi lại đầy đủ, kể cả lý do của cuộc
tiếp xúc để người đọc có thể đối chiếu và thấy rõ nột dung của cuộc
trao đổi như thế nào.
Trần Trọng Kim viết trong hồi ký “Một cơn gió bụi”:“Đảng Việt Minh lúc ây rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia, lính Bảo An ở các nơi, phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Nhân dân bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng vì thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt gì cả, công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh nói họ đã có các nước đồng minh giúp đỡ cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói như thế, ai nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do Bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ý ngả về Việt Minh. “Tôi thấy tình thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi tìm một vài người Việt Minh đến nói chuyện, vì lúc ấy tôi còn tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói ‘chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng của các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng cùng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài để cứu nước được không? “Người ấy nói: – Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trì nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được. - Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn, nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn. - Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng để đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai. - Theo như ý của các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được. - Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù trong nước mười phần chết chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại còn hơn với chín phần kia. “Rồi người ấy đọc một bài hình như đã học thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được. “Tôi nói: – Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân? - Chúng tôi sẽ cướp quyền để tỏ cho cả nước đồng minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu cho ai nhường. - Các ông chắc là các nước đồng minh tin ở sức mạnh của các ông không? - Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm. - Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử”. (17)
Đại diện Việt Minh Lê Trọng Nghĩa cũng mở
đầu bẵng chuyến ra Bắc của Thủ Tướng Trần Trọng Kim với những mục tiêu
tương tự nhưng thêm mục tiêu là để xem xét tình hình sau vụ Việt Minh
đánh đồn Bần Yên Nhân. Ông viết: trong hồi ký của mình:
“Ngay từ phút đầu, qua thái độ và vẻ mệt nhọc, hơi khô khan của ông Kim, khi nghe ông Toại giới thiệu, tôi linh cảm thấy như cuộc gặp gỡ và cá nhân tôi không được coi trọng đúng mức. Phải chăng vì mình quá trẻ và lại chỉ đến đây có một mình, đã không có được những hình ảnh như ý ông Thủ Tướng trông đợi.“Với ý thức là một cán bộ của Mặt Trận VM, tôi đàng hoàng trình bày ngắn gọn chương trình hành động của Mặt trận, nêu lên cái ưu thế của VM là đã cùng đứng về phía Đồng Minh chống lại phát xít Nhật ngay từ nhiều năm.. Ông nghe, tôi thấy cũng có vẻ chú ý nhưng không hỏi gì thêm. Rồi đến lượt ông phác ra điều mà chính phủ ông chủ trương, đã và đang làm: chương trình xây dựng một nước Việt Nam mới, chống thực dân và thống nhất… Đoạn, không đi xa thêm như lúc đầu tôi tưởng, ông lại lạnh lùng nói một cách trống không nhưng mà là để kết luận: ’Lịch sử sẽ phán xét cộng việc của chúng tôi!’ (Những câu nói này đã gợi cho tôi nhớ ngay đến quyển Việt Nam sử lược Trần Trọng Kim thời đi học. ” (18)
So sánh các chi tiết được hai bên kể lại,
người ta thấy phần quan trọng nhất của buổi họp với những lời lẽ được
trao đổi liên quan tới lập luận cuả hai bên về đường lối đi tới hoàn
toàn độc lập, những tai hại mà người dân phải lãnh chịu, đăc biệt gợi ý
của Trần Trọng Kim mời Việt Minh vào chính phủ làm việc đã được Trần
Trọng Kim tường thuật đầy đủ, trong khi Lê Trong Nghĩa thì hoàn toàn
không nói tới. Trái lại, người đại diện Việt Minh này lại khẳng định là
Trần Trọng Kim đã không đề nghị gì cả qua câu ông viết: “Đoạn,
không đi xa thêm như lúc dầu tôi tưởng, ông lại lạnh lùng nói một cách
trống không nhưng là để kết luận: ’Lịch sử sẽ phán xét công việc của
chúng tô!”
Giữa hai tường thuật này, người viết nghĩ
rẳng Trần Trọng Kim đã nói thật vì bản chất của ông là một nhà giáo,
một sử gia, lại chịu ảnh hưởng của Khổng Mạnh và phần nào Phật Giáo,
đồng thời ông viết hồi ký của mình vào lúc về già, chưa kể tới sự mệt
mỏi muốn rút lui của ông vào lúc đó. Chính người đại diện cho Việt Minh
cũng nhận thấy sự mệt mỏi này của vị thủ tướng ngay lúc mới vào họp.
Không những thế, mục tiêu chính yếu của Trần Trọng Kim khi yêu cầu Phan
Kế Toại móc nối và cho mời đại diện Việt Minh vào gặp ông ở Dinh Khâm
Sai trong chuyến ra Bắc với rất nhiều việc phải làm không thể chỉ là để
tìm hiểu suông. Cuối cùng là trong câu “Lịch sử sẽ phán xét công việc
của chúng tôi!” hai chữ chúng tôi hoàn toàn lạc lõng không hợp với toàn
thể mạch văn. Chúng phải là các ông như trong câu của Trần Trọng Kim
và cả phần đối thoại với những lời căn vặn được lập đi, lập lại như
Trần Trọng Kim thuật lại mới hợp lý.
Nếu ta tin rằng Trần Trọng Kim đã nhớ đầy
đủ và đã tường trình trung thực về cuộc gặp gời này thì câu tiếp theo
sẽ là tại sao Lê Trọng Nghĩa lại nói ngược lại: Trần Trọng Kim đã không
đi xa hơn nữa? Ta có thể có hai giải thích. Thứ nhất, Trần Trọng Nghĩa
sống trong chế độ cộng sản khi viết hồi ký này, do đó đã bị cấm hay
không dán viết hết sự thực, nhất là sự thực về bản chất chiếm lãnh độc
quyền lãnh đạo đất nước bằng mọi giá, mọi phương tiện kể cả phững
phương tiện bất nhân tàn bạo nhất qua câu nói “mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.”,
một câu nói không một nhân vật nào dám nói trong suốt lịch sử dân tộc
kể cả vào những lúc nguy nan nhất. Một câu nói ông có thể đã được học
trong khi được các lãnh tụ cộng sản huấn luyện. Giải thích thứ hai là Lê
Trọng Nghĩa mang mặc cảm bị coi thường vì còn quá trẻ. Sự kiện còn quá
trẻ của người đại diện Việt Minh được cả hai bên ghi nhận. Trần Trọng
Kim gọi Lê Trọng Nghĩa là thiếu niên (ông Toại đưa một thiếu niên đến),
còn chính đương sự thì dùng chữ quá trẻ (phải chăng vì mình quá trẻ).
Trần Trọng Kim chỉ kể như vậy thôi, không nói thêm gì về yếu tố này mà
chuyển ngay sang phần nội dung của cuộc trao đổi. Còn Lê Trọng Nghĩa
thì ngay từ lúc đầu đã cho biết là ông “linh cảm thấy như cuộc gặp
gỡ và cá nhân tôi không được coi trọng đúng mức. Phải chăng vì mình quá
trẻ và lại đến đây có một mình, đã không có được những hình ảnh như ý
ông thủ tướng trông đợi….. Lúc ấy, tôi đã cảm thấy hơi nóng nóng mặt.”
Những chi tiết này cho phép ta đặt giả
thuyết rằng phải chăng ngay từ phút đầu tiên, người thiếu niên đại diện
cho Mặt Trận Việt Minh đã bị mặc ảm quá trẻ, bị coi thường, từ đó mất
hết bình tĩnh, không còn nghe rõ và nghe hết những gì người mà ông có
dịp gặp gỡ đã đề nghị hay vặn hỏi, để chỉ còn trả lời ngang bướng như
một thiếu niên cờn nông nổi, ở tuổi trên dưới hai mươi mà thôi. Cuối
cùng với tâm trạng đầy bất mãn, bực tức và mặc cảm, ông đã kết luận rằng
“từ đó tôi cảm thấy không hào hứng và quan tâm nhiều lắm nữa đến
mối liên lạc với các lãnh đạo cao cấp chóp bu của chính quyền để dồn hết
tâm sức đẩy nhanh việc xây dựng lực lượng – mà tôi thấy rõ lúc đó còn
đuối – để chuẩn bị gấp cho cuộc võ trang khởi nghĩa như chỉ thị của
trung ương đã nêu và tình hình đang thôi thúc…” và tất cả những gì
ông nói với hay trả lời Trần Trọng Kim đều là dựa theo chỉ thị của Trung
Ương Đảng Cộng Sản và những gì ông được học tập trước đó. Điều này
cũng cho thấy là trong thời gian này ông hoạt động một mình; các người
trực tiếp lãnh đạo của ông như Lê Đức Thọ, Dương Đức Hiền đều đi họp ở
Tân Trào. Những người khác đứng sau lưng ông lúc đó cũng chưa nhận được
chỉ thị nào rõ rệt.
Cuộc họp thứ ba xảy ra vào buổi sáng ngày
16 tháng 8 tại Dinh Khâm Sai và cũng do Phan Kế Toại đứng ra móc nối.
Người được tìm kiếm cũng là “Giáo Sư Lê Ngọc” bí danh của Lê Trọng
Nghĩa. Về chi tiết của cuộc tiếp xúc này, ta chỉ có bài hồi ký của ông
này. Phan Kế Toại không để lại hồi ký và luôn cả truyện kể cho người thứ
ba. Viên chánh văn phòng và hai hay ba cộng sự viên của ông cũng như
các nhân vật mang tên Khang và Trần Đình Long cũng vậy. Ông Khang lúc ấy
đã đã chính thức trở thành Chủ Tịch Ủy Ban Quân Sự Cách Mạng Hà Nội
(điều này có thể cho phép các sử gia ở trong nước tìm hiểu xem nhân vật
tên Khang này là ai) , còn Trần Đình Long là một thứ cố vấn mới được xứ
ủy Đảng Cộng Sản cử đến. Lần này có lẽ vì tình hình khẩn trương hơn
trước và vì tổ chức của Việt Minh và Đảng Cộng Sản ở Hà Nội đã ró hẳn
hoi, kèm theo với các nhân sự với những chức vu đứng đầu, đồng thời rút
kinh nghiệm lần trước, bên phía Việt Minh có tới ba đại diện, thay vì
một người. Nội dung của cuộc trao đổi cũng đã được Lê Trọng Nghĩa tường
thuật rõ ràng đầy đủ hơn như sau:
“Hai bên đều nhấn mạnh đến tình hình
khẩn cấp, lợi ích cao cả của đất, vận mệnh dân tộc… Ông Khâm sai chính
thức mời Mặt trận Việt Minh cộng tác với Chính phủ cụ Trần và vui lòng
chờ Mặt trận cử người tham gia Chính phủ. Từ tốn, lịch sự, anh Khang đã
thẳng thắn đáp lại là tốt nhất ông Toại nên từ chức, trao chính quyền
lại cho VM, chúng tôi đã đủ danh nghĩa và đã sẵn sàng. Anh còn đề xuất
thêm việc chuyển số vũ khí nghe nói Nhật sắp giao cho Phủ Khâm sai… để
chống thực dân đang lăm le đe dọa.”
Phát biểu của đại diện Việt Minh cho ta
thấy rõ chủ tâm từ đầu đến cuối trong thời gian này là phải cướp trọn
vẹn quyền hành thay vì chỉ tham gia chính phủ, đúng với chủ trương căn
bản của họ: Đảng Cộng Sản phải là đảng cầm quyền và duy nhất cầm quyền.
Cuộc tiếp xúc lần thứ tư xảy ra vào lúc 8
giờ sáng ngày 18 tháng 8 và đại diện cho phía chính phủ là Bộ Trưiởng
Giáo Dục Hoàng Xuân Hãn, một nhà giáo, đồng thời cũng là một nhà nghiên
cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam có uy tín, một “học giả lỗi lạc, bậc
thày đáng kính” (lời của Lê Trọng Nghĩa) nhất đương thời. Vào lúc này
tình thế đã không còn như trước nữa vì từ ngày hôm trước, ngày 17, Việt
Minh đã cướp ngang được cuộc biểu tình của Tổng Hội Công Chức để mừng
đất nước được hoàn toàn độc lập sau khi Nhật Bản đã đầu hàng và để ủng
hộ nhà vua và chính phủ Trần Trọng Kim. Chi tiết về cuộc biểu tình và
chuyện Việt Minh cướp máy vi âm để biến tất cả thành của Việt Minh đều
đã được các sách giáo khoa cũng như các sách khác ở trong vùng Quốc Gia
hay ở Miền Nam nói tới đầy đủ, còn các sách ở miền Bắc trước kia và
luôn cả hiện tại đã nói rất sơ lược hay không hề nói tới. Đồng thời
Việt Minh cũa đột nhập vào tòa soạn báo Tin Mới, dùng võ lực bắt ép các
báo này phải loan những tin tức có lợi cho họ. Khâm Sai Phan Kế Toại
thì đã bỏ nhiệm sở. Địa điểm của cuộc tiếp xúc lần này tại ngôi nhà số
101 đường Gambetta, nay là đường Trần Hưng Đạo, một biệt thự của một
công chức cao cấp, thân thuộc của Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Bá
Chính, từ lâu đã để cho Việt Minh sử dụng như trụ sở chính của họ ngay
tại Hà Nội. Lê Trọng Nghĩa, tác giả của hồi ký duy nhất có nói về cuộc
gặp gỡ này và cũng là người duy nhất đã tiếp chuyện Hoàng Xuân Hãn vì
hai thượng cấp của ông Nghĩa, người mang tên Khang bận ở phòng bên cạnh
(hay không muốn tiếp, hay thấy không cần tiếp nữa) đã kể lại như sau:
“Đúng hẹn 8 giờ sáng, ông Hãn một mình đến, được mời vào phòng giữa, phòng khách của gia đình trước bố trí bộ xa lông gụ đen, nửa cổ nửa kim mà ông chủ nhà tốt bụng còn để nguyên lại đó. Ông ăn mặc chỉnh tề (so với chúng tôi quần dài, sơ mi vắn tay) trông vẻ hiền lành nhưng không giấu được những cử chỉ hấp tấp của người đang xúc động. Tôi trịnh trọng mời. Ông cũng không chờ thêm, tự giới thiệu ngay là người đại diện cao cấp nhất của Thủ tướng Chính phủ tại Hà Nội lúc đó, đến để thông báo một tin, đúng hơn là những tin thục hết sức bất ngờ:“Ông cho biết ông Khâm sai Phan Kế Toại ngay từ đêm 17 (!) đã từ bỏ nhiệm vụ và rời nhiệm sở (Dinh Khâm sai).. Chính phủ Nhà Vua hôm nay, 18, đã cử bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Chủ tịch UB Chính trị kiêm nhiệm thay… Tôi nghe mà giật mình. Ông lại chầm chậm tiếp, đại ý nói Việt Minh các ông chắc đã kiểm soát được tất cả thôi. Nhưng chúng tôi biết chắc chắn có tin quân đội Đồng minh đã bắt đầu lên đường chia nhau vào chiếm nam, bắc vỹ tuyến 16 nước ta rồi. Ông ngừng lấy hơi rồi rồi như tự than: đất nước đang có nguy cơ đe dọa lại bị xâm chiếm và chia cắt một lần nữa thôi! Tôi như ù tai, nhưng cũng còn nghe ông nói: Chúng ta hãy tiếp tục thương thảo, nói chuyện với nhau. Ông gợi ý luôn: Việt Minh các ông cứ nắm tất cả các vùng nông thôn nhưng để cho Chính phủ quản lý một số thành phố lớn, cốt để có danh nghĩa mà nói chuyện với Đồng Minh trong lúc này, không thì nguy cả…”
Cuộc tiếp xúc lần thứ năm tức là lần cuối
cùng, trước khi xảy ra cuộc cướp chính quyền, chữ Lê Trọng Nghĩa dùng
trong hồi ký của ông, cũng xảy ra vào ngày 18 tháng 8, vào lúc 2 giờ
chiều. Người đại diện cho Chính Phủ là Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ và cho
Việt Minh vẫn là Lê Trọng Nghĩa và địa điểm là Dinh Khâm Sai. Lần này
sáng kiến đã đến bất ngờ và từ phía Việt Minh và nhằm do thám tình hình
chứ không phải là để đối thoại hợp tác. Theo Lê Trọng Ngĩa, sau khi gặp
Hoàng Xuân Hãn, ông này đã sang phòng bên gặp thượng cấp của mình để
tường trình thì …”Ai đó lại lên tiếng ngay: Này, cậu phải nhanh chân
nữa lên, vào ngay Dinh Khâm sai xem sao đi, khéo mà họ – tôi nắm bắt
được ý là nói đến Đại Việt – ‘nẫng tay trên’ mất thì toi cả nút đấy!”
Cuộc gặp gỡ lần chót này được cả hai phía là Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ và
đại diện Việt Minh Lê Trọng Nghĩa kể lại qua hồi ký của hai người.
Điều cần biết là Bác Sĩ Chũ lúc này là Chủ Tịch Ủy Ban Giám Độc Chính
Trị Miền Bắc. Ủy Ban này gồm có năm ủy viên là Phan Kế Toại, Trần Văn
Lai, lúc đó là Thị Trưởng Hà Nội, Đặng Thai Mai và ông. Nhưng vào thời
điểm này Phan Kế Toại đã từ bỏ nhiệm sở, Đặng Thai Mai thi tản cư vào
Thanh Hóa chưa về, Nguyễn Tường Long thì bị bịnh thương hàn phải vào
nằm bệnh viện, còn Trần Văn Lai thì bận việc bên tòa thị chính nên chỉ
có một mình Bác Sĩ Chữ với vị thế không rõ ràng, khâm sai không ra khâm
sai, chủ tịch không ra chủ tịch, đảm đương mọi chuyện, ra lệnh không
ai thi hành. Về buổi họp này, hai hồi ký đã kể lai khác nhau.
Theo Lê Trọng Nghĩa thì “Mười bốn giờ
ngày 18, một tôi mình đạp xe đạp tới Dinh Khâm Sai. Ông Chữ, ông
Chương, ông Chánh văn phòng và một số người nữa đã thấy tề tựu, có vẻ
nôn nóng chờ.” Còn theo Bác Sĩ Chữ thì “Tối thứ Bẩy, thanh niên Việt Minh, lần này đến có một người, gặp lại mỗ y sĩ. (19)”
Tại sao lại có sự sai biệt về giờ giấc như vậy và tại sao không hẹn
trước khi đến mà khi Lê Trọng Nghĩa tới nơi thi toàn bộ ban tham mưu của
Bác Sĩ Chữ đã tề tưu và nôn nóng chờ? Riêng Bác Sĩ Chũ đã dùng hai chữ
lần này trong lời tường thuật và trong phần trước còn cho biết thêm là
trước đó ông đã có dịp gặp người thanh niên ở Phủ Khâm Sai do Phan Kế
Toại mời cả hài bên tới. Nhưng dù được tường thuật khác nhau, cuộc gặp
gỡ lần cuối này cũng đã không mang lai kết quả gì vì một bên đã có mục
tiêu tối hậu, có đến chỉ là để do thám tình hình và rất vôi vã vì sợ
“Đại Việt nẫng tay trên thì toi cả nút”, còn một bên thì vừa mới lãnh
trách nhiệm trong cùng ngày, còn rất nhiều do dự lại biết rõ kẻ địch là
Cộng Sản và chỉ muốn cướp chính quyền. Có họp cũng vô ích.
Trong năm lần gặp gỡ kể trên, ngoại trừ
cuộc gặp gỡ lần thứ năm, bốn lần đầu lần nào phía chính phủ cũng đưa ra
những đề nghị mời Việt Minh vào chính phủ làm việc để cứu nước nhưng
tất cả đều bị từ chối. Lý do là Việt Minh với Đảng Cộng Sản đứng đằng
sau đã chủ trương cướp chính quyền từ đó một mình lãnh đạo đất để thực
hiện cuộc cách mạng riêng của mình bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy ra
cho dân tộc, phản ảnh qua những câu trả lời của người đại diện Việt
Minh cho những câu hỏi do chính Thủ Tướng Trần Trọng Kim đặt ra và kể
lại. Biến cố 19 tháng 8 do đó đã xảy ra.
Cách Mạng hay Cướp Chính Quyền
Từ ngữ cách Mạng trong lịch sử Việt Nam
hiện đại là một từ ngữ mới nhưng là một từ ngữ đẹp. Nó liên hệ chặt chẽ
với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc, sự hy sinh và lòng ái
quốc. Điển hình là trường hợp của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân
Đảng mà chính những người Cộng Sản cũng phải công nhận và nể sợ. “Cách
Mạng” là đánh đuổi người Pháp, giành độc lập cho Việt Nam dù phải hy
sinh, kể cả hy sinh chính mạng sống của mình. “Cướp”, trái lại, là một
từ ngữ xấu, là dùng bạo lực và công khai hay bằng mưu mô lừa lọc trước
đó để giật từ tay người khác cái gì không phải của mình, đặc biệt là vào
những lúc tình hình hỗn loạn, an ninh không được bảo đảm. Hai danh từ
hoàn toàn không giống nhau nhưng đã được những người tạo ra biến cố 19
tháng 8 năm 1945 dùng để chỉ việc làm của mình và đã chấp nhận sự
nghịch lý này cho đến tận ngày nay. Về phía những người chống lại,
dường như thái độ cũng chưa dứt khoát. Mặc dầu đa số và trong các lớp
học, từ ngữ “Cướp” được dùng nhiều hơn nhưng đôi khi người ta cũng dùng
hai chữ “Cách Mạng” và gọi biến cố này là Cách Mạng Tháng Tám và thêm
vô năm chữ Việt Minh cướp chính quyền. Điều này dễ hiểu vì việc sử dụng
những từ ngữ này buổi đầu là do những người đương thời có dịp tham gia
hay chứng kiến biến cố 19/8/1945 lúc khởi đầu. Họ có thể là những
người chống đối ngay từ đầu nhưng cũng có thể là những người đã vì lý
do này hay lý do khác theo và ủng hộ Việt Minh trong buổi đầu rồi sau
đó chuyển hướng. Điều cần được ghi nhớ là những người Cộng Sản trong
thời gian trước biền cố này đã quyết tâm và dùng đủ mọi thủ đoạn để lôi
cuốn quần chúng theo mình trong đó có tuyên truyền, dọa dẫm xuyên qua
những đội võ trang tuyên truyền của họ. Điều này đã được Trần Trọng Kim
và Nguyễn Xuân Chữ nói rõ trong các hồi ký của hai nhân vật chính yếu
này. Riêng Nguyễn Tường Bách, một lãnh tụ Đại Việt Dân Chính đương thời
đã kể lại kinh nghiệm cá nhân của ông khi ông cùng với nhà văn Khái
Hưng đến gặp Dương Đức Hiền, lãnh đạo Đảng Dân Chủ, lúc đó đã gia nhập
Việt Minh. “Nếu các anh cứ lừng khừng nhừ thế mãi, thì có ngày Nhật sẽ beng đầu các anh, mà nếu không thì cách mạng sẽ beng đầu các anh!”
(20) là câu nói nguyên văn của Dương Đức Hiền với Nguyễn Tường Bách và
Khái Hưng nhằm thuyết phục hai người này phải dứt khoát gia nhập Việt
Minh. Tất nhiên là hai người không sợ, nhưng với những người khác thì
sợ nhất là những người có dính dáng với chính quyền Pháp và quân đôi
Nhật trước và trong thới đó, đúng như phân tích của Nguyễn Xuân Chữ về
thành phần của những người theo Việt Minh trong hồi ký của ông. Không
sợ sao được khi mình có quá khứ thân hay đã cộng tác với Pháp hay Nhật,
khi “Báo chí bí mật không ngớt nhấn mạnh đến tinh thần triệt để
cách mạng và phải thẳng tay trừng trị bọn ‘bù nhìn tay sai bán nước’
một cách có phân biệt. Công tác trừ gian, trừng trị một cách đích đáng,
chính xác có chọn lọc một số tên đầu sỏ như trùm mật thám ác ôn (Phán
Sinh, Võ Văn Cầm…) đang được đầu óc giầu tưởng tượng của quần chúng
thổi phồng lên như những câu chuyện thần thoại…” Các đội tuyên
truyền võ trang do Võ Nguyên Giáp chỉ huy được thành lập chắc chắn là
để làm những công tác này chứ không phải chỉ là để đánh mấy đồn Nhật.
Một trong số những người đã tham gia các đội này là Nhạc Sĩ Văn Cao.
Người ta khó mà hiểu được trường hợp hoàn toàn nghịch lý trong con
người của Văn Cao khi đối chiếu những bài hát mang mầu sách hoài cổ,
hoàn toàn đẹp và lãng mạn ông làm trước đó với thái độ cuả ông khi ông
chờ đợi lãnh súng và tham gia đội vũ trang: “Hôm nay phố đông người hơn và tôi thấy lòng vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang.”(21).
Không chỉ dùng thủ đoạn với người khác, các người chủ động còn dùng
thủ đoạn với chính mình. Lê Trọng Nghĩa khi kể lại hoạt động của ông
trong ngày 19/8 đã cho biết ông luôn luôn dẫn đầu và những nhân vật
lãnh đạo ông mang tên Khang, tên Bình theo sau cả chục mét. Để làm gi?
Ai cũng có thể đoán được. y hệt sự kiện xua đàn bà, trẻ con đi trước
trong các cuộc biểu tình chống chính quyền ở miền Nam mà báo hay nhiều
người đã thuật lại.
Danh từ cách mạng còn được hiểu là thay thế
cái cũ tệ hại bằng một cái mới tốt hơn, trong chính trị là thay một
chế độ với những nhân vật tồi tệ, bất nhân bằng một chế độ với những
nhân vật tốt hơn, đạo đức hơn, đặc biệt là trong một xã hội chịu ảnh
hưởng của học thuyết Khổng Mạnh. Áp dụng nhận định này vào biến cố 19
tháng 8, bình thường người ta phải suy luận là chính phủ Trần Trọng Kim
phải là một chính phủ tệ hại là Việt gian, bù nhìn, tay sai, thân Nhật.
Điều này như người viết đã trình bày ở trên là hoàn toàn không đúng.
Ngoài những lý do đã được nêu, ngay chính người đại diện Việt Minh, Lê
Trọng Nghĩa, cũng phải công nhận là chính phủ này còn có sức thu hút
trong những ngày cuối của nó, khi ông nói tới một buổi họp đầy xúc động
của nhiều nhân vật thuộc nhóm Thanh Nghị, có lẽ là buổi họp cuối cùng
để chia tay, trong đó Vũ Đình Hòe và Đỗ Đức Dục dứt khoát ra chiến khu
với Việt Minh. Nhóm Thanh Nghị, đúng hơn là Hội Tân Việt Nam được thành
lập theo Dụ số 7 của Bảo Đại, đã thu hút được rất đông trí thức tên
tuổi đương thời và dùng tờ Thanh Nhị làm cơ quan ngôn luận để phổ biến
tư tưởng trong giới trí thức, thanh niên, sinh viên. Các nhân vật tham
gia vận động thành lập nhóm này gồm có: Đào Duy Anh, Phan Anh, Phạm Đỗ
Bình (tức Nhật Trương), Đỗ Đức Dục, Ngô Thúc Địch, Trần Khánh Giư (tức
Khái Hưng), Ngô Tử Hạ, Vũ Văn Hiền, Vũ Đình Hòe,, Nguyễn Văn Huyên,
Trần Duy Hưng, Ngụy Như Kontum, Nguyễn Lân, Vũ Đình Liên, Phạm Lợi,
Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Quang Oánh, Tôn Quang Phiệt, Phạm Khắc Quảng,
Phạm Huy Quát, Ngô Bích San, Nguyễn Hữu Tảo, Hoàng Thúc Tấn, Nguyễn
Đình Thụ, Hoàng Phạm Trân (tức Nhượng Tống), Bùi Như Uyên, Lê Huy Vận,
Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm, và do Vũ Đình Hòe làm tổng thư ký. Danh
sách này cho thấy nhóm này bao gồm các trí thức chuyên gia nổi tiếng
nhất đương thời. Cả một nhóm đông như vậy mà chỉ có hai người quyết
định đi theo Việt Minh chứng tỏ đa số đứng về phía chính phủ, đặc biệt
nếu ta để ý tới chủ trương cuả hội này như giữ vững nền độc lập và
thống nhất quốc gia Việt Nam trong phạm vi ‘Đại Đông Á’, đoàn kết hết
thảy các giới trong xã hội và các khuynh hướng chính trị…, những chủ
trương phù hợp với chủ trương của chính phủ Trần Trọng Kim. Hai chữ
cách mạng trong trường hợp này do đó cần phải được xét lại, ít nhất là
bởi các sử gia, những người tìm sự thực của quá khứ, nhất là sự thức
liên hệ tới hai nhà nghiên cứu sử học tiền phong của thời hiện đại,
đồng thời cũng là hai nhà giáo dục lớn, những người đã đặt những viên
đá đầu tiên cho nền giáo dục bằng tiếng Việt Nam của một nước Việt Nam
độc lập.
Bây giờ nói tới bản tuyên ngôn độc lập của
Hồ Chí Minh. Bản tuyên ngôn này cũng bị nhiều người coi là không cần
thiết vì từ ngày 11/3 trước đó, Hoàng Đế Bảo Đại, với tư cách nguyên
thủ quốc gia và là người kế vị vua Tự Đức đã tuyên bố hủy bỏ hết các hòa
ước bảo hộ mà Tự Đức đã kết với người Pháp rồi và Hồ Chí Minh đã làm
một việc thừa, không cần thiết. Đi sâu hơn vào chi tiết, người ta thấy
Bảo Đại và những vị thượng thư của ông đã tỏ ra rất thận trọng và cân
nhắc từng câu, từng chữ để chỉ nói lên những gì cần phải nói và nói một
cách rõ ràng, còn bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh thì dài lòng thòng,
mang nặng tính cách xách động quần chúng. Ngay cả những tư tưởng chủ cột
liên hệ tới độc lập, tự do cũng phải đi vay mượn của người Mỹ hay
người Pháp. Có điều là tác giả có những chủ trương riêng của mình.
Nhưng đây chỉ là nhận định tổng quát, người học sử cần phải đọc kỹ hơn
trước khi đối chiếu hai văn bản.
Riêng về từ ngữ cướp, một tác giả người
Việt ở hải ngoại có uy tín, ông Minh Võ, tác giả của tác phẩm mới nhất
và cũng là đầy đủ nhất về Hồ Chí Minh, trong một bài viết đăng trên Nhật
Báo Người Việt ở Quận Cam, California, vào trung tuần tháng 8 vừa qua
đã vượt ra khỏi ngày này (19/8/45) và đã cung cấp rất nhiều chi tiết
liên hệ. Người đọc có thể tìm đọc sách hay bài viết của ông để tìm hiểu
rõ hơn về vấn đề này.
---------------------
Chú thích:
(1) Saigon: Vĩnh Sơn, 1969.
(2) “Các cuộc tiếp xúc giữa Việt Minh
với chính phủ Trần Trọng Kim”, trong Xưa và Nay, số 5 (6), VIII, 1994,
tr. 4 – 6; số 6 (7), IX, 1994, tr. 9 – 11.
(3) Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ, Những Bài
Học Quí Báu của Một Nhà Ái Quốc Liêm Chính, Nhưng Bất Phùng Thời.
Houston, TX: Văn Hóa, 1996.
(4) Điển hình, người viết xin đơn cử ba
tác phẩm sau đây: Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Công Bình, Văn Tạo, Phạm
Xuân Nam, Bùi Đình Thanh. Lịch Sử Việt Nam, tập II. Hà Nội: Nhà Xuất
Bản Khoa Học Xã Hội, 1989. Lương Minh, Nguyễn Cảnh Minh, Nguyễn Ngọc Cơ,
Trần Bá Đệ, Trịnh Vương Hồng, Chương Thâu. Lịch Sử Việt Nam Giản Yếu.
Hà Nội: Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2000. Dương Trung Quốc. Việt
Nam: Những Sự Kiện Lịch Sử (1919 – 1945). Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục
(Tái bản lần thứ hai), 2002. Ba tác phẩm này đều được xuất bản sau năm
1975, trước đó là các tác phẩm của Trần Huy Liệu, nguyên bộ trưởng
tuyên truyền trong chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh. Các tác giả của
hai tác phẩm trên đã trực tiếp dùng hai chữ bù nhìn để chỉ nội các Trần
Trọng Kim. Trần Huy Liệu thì dùng hai chữ này ngay trong nhan đề của
một bài viết của ông. Riêng Giáo Sư Dương Trung Quốc thì tỏ vẻ thận
trọng vàdè dặt hơn khi đưa ra nhận xét: “Nội các Trần Trọng Kim với
thành phần là những trí thức tên tuổi, lại chưa hề làm quan, cùng với
hứa hẹn ‘phấn đấu cho Việt Nam thành một quốc gia độc lập’, ‘giải quyết
nạn đói’, thống nhất chủ quyền lãnh thổ’ v..v… phần nào có làm cho một
bộ phận dân chúng bị ảo tưởng về nền độc lập trao trả cho Bảo Đại.
Nhưng ông vẫn dùng hai chữ bù nhìn và thêm vào hai chữ thân Nhật, tr.
394.
(5) Houston: Văn Hóa, 1996. Tiến Sĩ Vũ
Ngự Chiêu cũng là người chủ trương dùng sự thực sử như một con đường
ngắn nhất dẫn tới đoàn kết dân tộc.. Xin xem “Sự thực sử học : một con
đường ngắn nhất dẫn tới đoàn kết dân tộc”, trong Văn Học, số 225, tháng 5
& 6, 2005, tr. 164 – 194, xuất bản tại Hoa Kỳ.
(6) Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004.
(7) The other Side…. Phía Bên Kia….., đã dẫn-, tr. 29 và 82.
(8) Một Cơn Gió Bụi, đã dẫn, tr. 50 – 51.
(9) chữ dành riêng để gọi một văn bằng của Pháp nổi tiếng là khó, không giống với những bằng được gọi là thạc sĩ bây giờ.
(10) Trần Trong Kim, đã dẫn -, tr. 57
(11) Việt Nam: Những Sự Kiện Lịch Sử, đã dẫn, tr. 394.
(12) The Other Side… Phía Bên Kia, đã dẫn, tr. 87.
(13) Việt Nam: 1945 – 1995…., đã dẫn, tr.59. Thực ra là Sainteny chứ không phải Bollaert.
(14) -đã dẫn-
(15) Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ: Những Bai
Học Quí Báu Của Một Nhà Ái Quốc Liêm Chính, Nhưng Bất Phùng Thời.
Houston, TX: Văn Hóa, 1996.
(16) Lê Trọng Nghĩa, “Các Cuộc Tiếp Xúc
Giữa Đại Diện Việt Minh Với Chính Phụ Trần Trọng Kim”, trong Xưa và
Nay, số 5 (06), VIII,. 1994, tr. 4 6 và số 6 (07), IX, 1994, tr. 9 -.
(17) – sách đã dẫn -, tr. 86 – 87.
(18) Lê Trọng Nghĩa, Hồi ký đã dẫn.
(19) đã dẫn, tr. 283
(20) Hồi ký đã dẫn, tr. 154.
(21) Xin xem hồi ký của nhạc sĩ này
trong Một Chặng Đường Văn Hóa, Tập Hồi Ức và Tư Liệu Về Đề Cương Văn Hóa
của Đảng và Đời Sống Tư Tưởng Văn Nghệ, 1943 -, tr. 110
Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Chính phủ của hai ông
Cũng cần phải để ý là trong thời gian được
gọi là cách mạng này, người cộng sản đã triệt để sử dụng đường lối
tuyên truyền kèm theo với bạo lực để đạt mục tiêu. Từ ngữ võ trang tuyên
truyền đã nói lên sự hiện diện của bạo lực này. Sau đó khi chính phủ
lâm thời Hồ Chí Minh được thành lập, người ta thấy có Bộ Tuyên truyền
với Trần Huy Liệu làm Bộ trưởng mà Trần Huy Liệu thì là người đã ngụy
tạo ra anh hùng Lê Văn Tám theo như tiết lộ của một giáo sư sử học nổi
tiếng và uy tín nhất trong giới sử học ở trong nước hiện tại. Cũng chính
Trần Huy Liệu sau này đã trở thành Viện trưởng Viện Sử học Hà Nội và
là giáo sư sử học.
Trước hết là về con người của Bảo Đại. Ai
cũng biết là ông này đã được cho sang Pháp du học, nhưng bình thường
người ta vẫn nghĩ rằng một hoàng tử, sau này bị coi là ham ăn chơi, vô
trách nhiệm, thì học hành chỉ là để lấy lệ. Nhưng Hoàng Xuân Hãn lúc đó
vì cũng du học ở Pháp và ở gần nhà Bảo Đại nên “thỉnh thoảng được
mời lên chơi, gặp để khuyến khích ông Bảo Đại học lúc ấy. Tôi còn nhớ,
nhiều khi lên ông ấy hỏi một bài toán gì đấy. Tôi giúp ông ấy như thế.
Ông ấy rất dễ thương, lúc ấy là một người con giai còn trẻ đẹp, học hành
cũng không phải là dốt đâu; qua những câu hỏi tôi biết rằng là người
có học cả.” [5] Điều nên để ý là Hoàng Xuân Hãn giúp Bảo Đại về
toán, còn Bảo Đại sau này học về chính trị học để về nước làm vua. Đó
là thời đi học. Đến thời Bảo Đại làm vua, Hoàng Xuân Hãn lại có dịp gặp
Bảo Đại hai lần nữa trước khi được tiếp xúc và tham gia chính phủ Trần
Trọng Kim. Lần đầu vào năm 1934, tức hai năm sau khi Bảo Đại lên ngôi
và thực hiện một số cải cách nhưng bị người Pháp ngăn cản và bị thất
bại, để đưa quà của ông Charles cho Bảo Đại. Lần thứ hai vào khoảng năm
1942, 43 để tặng sách, cuốn Danh từ khoa học.
Lần thứ nhất “ông tiếp tôi. Ông ấy ngồi ì
không nói một tiếng nào, hay cứ nói tiếng một như thế. Sau rồi tôi nói
với ông: Tôi ở Pháp về, chưa chắc đã ở lại được đâu. Ông hỏi tại sao,
tôi cũng nói: Bên này, chính người Pháp nói với tôi: Về đây ông bị đè
nén, không có thể làm việc được. Nhưng mà người thanh niên Việt Nam,
nhiều người nhìn vào ngài, về cải cách này, cải cách kia, thì phải làm
cái gì, chứ mà ai cũng để ý tới tới nhất là thanh niên Việt Nam. Ông ấy
chỉ giả nhời tôi một câu, lúc ấy ông chỉ nói: Làm thì làm với ai? Làm với ai? Tôi
cũng nói qua là hiện bây giờ họ có đưa ông Phạm Quỳnh, ông Ngô Đình
Diệm về đấy. Ông ấy cũng cười. Ông cười. Ông ấy lắc đầu rồi thôi. Ông
không nói câu nào nữa cả.” Lần thứ hai, “Thấy bộ ông ấy buồn
lắm. Trông ông ấy buồn lắm và ông ấy không dám nói một cái gì hết cả. Mà
hồi ấy, người Nhật đã ở đấy nhiều rồi đấy. ông ấy chỉ cám ơn, thế
thôi.” [6]
Im lặng, không nói gì, buồn lắm, Làm thì
làm với ai? Làm với ai? Đây là tâm sự của một vị vua muốn làm nhưng
không ai là người cộng sự và cộng sự tốt, luôn luôn bị bao vây bởi người
Pháp sau thêm người Nhật và phải đề phòng những kẻ gần gũi với mình.
Người viết bài này không hiểu Bảo Đại có dịp đọc Lão Tử hay không, nhưng
thái độ này là một cách sinh tồn tốt nhất. Nó phù hợp với câu nói của
Trần Trọng Kim về vị vua này với Hoàng Xuân Hãn và được Hoàng Xuân Hãn
kể lại: “Cái thằng Bảo Đại nó ngốc lắm, gặp nó làm gì?” và Hoàng Xuân Hãn trả lời: “Mình nghe tiếng thì thế, mà sự thực chưa chắc đã thế đâu. Cụ có thì giờ thì cụ cứ gặp đi, rồi cụ hãy nói sau.” Kết quả của cuộc gặp mặt là khi ra Trần Trọng Kim đã nói với Hoàng Xuân Hãn rằng: “Lạ lắm!“… “Tôi vào gặp ông Bảo Đại, nghĩa là ông ấy biết hết cả các chuyện chứ không phải ngốc như người ta nói.” [7] Còn chính Trần Trọng Kim thì viết rằng “Từ
trước tôi không biết vua Bảo-Đại là người như thế nào. Vì trong thời
bảo hộ của nước Pháp hình như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn
và tập thể thao. Hôm mùng bảy tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ
trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.” [8] Những điều đúng đắn đó là gì? Trần Trọng Kim kể tiếp: “Trước
kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn,
Nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có
chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo
thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ lập thành
một chính phủ để lo việc nước.” [9]
Nhận định này của Bảo Đại phản ảnh rõ rệt
quan điểm của ông và việc ông làm để đối phó với tình hình lúc bấy giờ.
Nó là quan điểm của đa số những trí thức nổi tiếng đương thời trong đó
có Phan Anh mà ta sẽ xét tới trong phần sau.
Để hiểu đầy đủ nhận xét này, ta cần nhớ là
Trần Trọng Kim mới ở Tân Gia Ba [Singapore] về và chắc chắn biết rõ
những gì đang xảy ra trên thế giới vào thời điểm này. Cũng vậy với sự
kiện Bảo Đại gửi thư cho các vị lãnh đạo của Mỹ và của Pháp. Câu hỏi
được đặt ra là làm sao Bảo Đại ở trong cung mà lại có thể biết hết các
chuyện như vậy được? Một giả thuyết đương nhiên phải được đặt ra. Đó là
qua người Nhật. Người viết sẽ trở lại vấn đề này trong một bài khác.
Bây giờ ta xét tới trường hợp Phan Anh. Vị
Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong chính phủ Trần Trọng Kim và sau là bộ
trưởng Bộ Quốc phòng trong chính phủ liên hiệp của Hồ Chí Minh này xuất
thân là một luật sư hành nghề ở Hà Nội và là một trong những trí thức
chủ trương Nguyệt san Thanh nghị, thường được gọi là Nhóm Thanh nghị.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho sử gia Na Uy Stein Tonnesson, để đáp lại câu hỏi “các ông nghĩ thế nào mà lại nhận lời mời của Bảo Đại“,
Phan Anh cho biết có hai mục tiêu. Thứ nhất là để đuổi người Pháp vẫn
còn được người Nhật giữ trong bộ máy hành chánh thời đó ra khỏi bộ máy
này và thứ hai, tạm thời làm việc với người Nhật nhưng giữ trung lập,
không là “đồng tác giả” (co-auteurs), không là “kẻ hợp tác.” Đây là
nguyên văn câu trả lời của ông:
“Lúc ấy, những công chức người Pháp vẫn tiếp tục làm việc. Nhưng họ có mưu mô. Ngoan ngoãn cúi đầu trước Nhật. Thâm ý là chờ đợi xem thế nào? Chờ đợi một cách tích cực. Cụ thể là: Chịu sự sai bảo của ông chủ mới để được ngồi lỳ trong bộ máy hành chánh. Trong phủ Toàn quyền, trong phủ Thống sứ: toàn là người Pháp. Họ đã mất con bài chính trị, thì phải giữ con bài hành chính. Để làm gì? Thế đấy! Hai khả năng: Hoặc Nhật sẽ bại trận, thì người Pháp cần giữ bộ máy hành chính để rồi đặt lại nền thống trị; hoặc trái lại người Nhật còn ở lại, thì ổn rồi người Pháp cứ tiếp tục, với sự giúp đỡ của chính quốc, tiếp tục nắm một mảnh nhỏ quyền hành. Trong hai khả năng ấy thì khả năng thứ nhất hiện thực hơn. Chắc chắn Nhật chóng hay chầy sẽ đầu hàng. Giữ chặt các chức vụ hành chánh để còn có vai trò trong tương lai. Bên cạnh trận địa hành chánh, lại còn trận địa kín nữa chứ.“Tôi với tư cách người yêu nước, tôi đã quan sát tình hình ấy. Chúng tôi không muốn bị cả người Pháp lẫn người Nhật đánh lừa mình. Nhóm trí thức chúng tôi không phải một đảng mà là một nhóm, chúng tôi nghĩ rằng nhiệm vụ cấp bách là phải đuổi bọn Pháp ra khỏi bộ máy hành chính. Chúng tôi huy động sinh viên, thanh niên công chức làm việc đó.“Khẩu hiệu thứ hai của chúng tôi là tạm thời ngồi làm việc với người Nhật, nhưng không là “đồng tác giả” (co-auteurs), không phải là “kẻ hợp tác” với họ; phải giữ thế trung lập.” [10]
Về bản chất của chính phủ Trần Trọng Kim, khi được hỏi là “chính phủ này có phải là chính phủ bù nhìn không“, Phan Anh đã khẳng định: ”Lấy
tư cách là thành viên của chính phủ Trần Trọng Kim, tôi nói với ông
rằng chúng tôi tuyệt đối không có ảo vọng gì về người Nhật. Tình thế đã
dứt khoát rồi. Phải là kẻ điên mới đi hợp tác với Nhật. Có những người
điên, nhưng chúng tôi là trí thức, chúng tôi tham gia chính phủ là để
phụng sự. Chính với chính sách ấy mà chúng tôi đã thành lập chính phủ
với khẩu hiệu như vừa nói là: Đuổi cổ bọn Pháp và nắm lấy độc lập.”
[11] Với nhận định này và để giữ thế trung lập, trong chính phủ Trần
Trọng Kim đã không có Bộ Quốc phòng. Phan Anh giải thích: “Trong
chính phủ Trần Trọng Kim có một bộ mà chúng tôi phải suy nghĩ nhiều: Bộ
“Quốc phòng” hay Bộ “Quân lực” hoặc Bộ “Chiến tranh”. Chính vì muốn giữ
thế trung lập mà chúng tôi đã quyết định không có Bộ Quốc phòng. Người
Nhật muốn có bộ ấy để lôi chúng tôi đi với họ. Thay bộ ấy, chúng tôi
lập Bộ Thanh niên.” [12] Cần để ý là trong suốt cuộc phỏng vấn,
Phan Anh luôn luôn dùng nhân xưng đại danh từ chúng tôi và để chỉ mình
ông dùng tiến tôi. Cách thức làm việc quan niệm và tư cách của Phan Anh
được biểu lộ qua chi tiết này. Phan Anh đã không đặt cái tôi lên trên
tập thể trí thức mà ông chỉ là một.
Về những ngày cuối của chính phủ Trần Trọng Kim và những nỗ lực của chính phủ này cũng như của Hoàng đế Bảo Đại, Phan Anh đã nhận định và kể lại:
“Chính phủ Trần Trọng Kim với tất cả bộ trưởng cùng theo đuổi một mục đích như tôi; đã tự vạch ra đường lối chung cho mình mà tôi vừa phác lại để ông thấy rõ. Chính phủ ấy khi ra đời đã tự coi như một mắt xích lâm thời, tôi có thể nói hẳn ra là, theo tôi nhận định, như một công cụ phục vụ cho sự nghiệp giành độc lập. Chúng tôi đã tự coi không phải là những người ‘lãnh đạo phong trào, lãnh đạo đất nước’, mà là những công cụ, những tay chân của công cuộc đấu tranh dân tộc. Và do đó sự chuyển tiếp từ chính phủ Trần Trọng Kim đến nền cộng hòa trong Cách mạng tháng Tám diễn ra một cách tự nhiên suôn sẻ nữa cơ. Tôi có thể nói với ông rằng với tư cách bộ trưởng, chúng tôi trăm phần trăm ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất cả, kể cả Thủ tướng Trần Trọng Kim. Đã có sự nhất trí toàn vẹn, sâu sắc về sự chuyển tiếp ấy. Đấy tôi khẳng định như vậy đấy. Nhưng cũng phải có chứng cớ. Đây chứng cớ: Ngay ngày hôm sau mà chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng thì chính phủ Trần Trọng Kim đệ đơn từ chức lên nhà vua và thông báo tin ấy cho tất cả các tỉnh, đồng thời nói ý định của mình nói sẵn sàng giao quyền cho quốc dân [người viết bài này đánh máy đậm]. Cụ thể hơn nữa, Chính phủ gửi thông điệp cho các nhân vật ghi trong thông điệp cho các nhân vật đại diện cho tất cả các giới và các địa phương, mời đi Huế để nghiên cứu vấn đề thành lập một chính phủ mới. Trong số các nhân vật ghi trong thông điệp, tôi nhờ có hai vị mà ai cũng biết thuộc tổ chức Việt Minh. Đó là hai bạn tôi, anh Bùi Công Trừng một nhà cách mạng và cộng sản trứ danh và anh Lê Văn Hiến, sau này trở thành Bộ trưởng Tài chính. Hai nhân vật thuộc miền Nam. Lẽ dĩ nhiên thông điệp trên đã không có thể chấp hành được, bởi vì Việt Minh chủ trương khác. Phong trào do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã khởi động (người viết bài này dành chữ đậm).” [13]
Nhưng ít nhất Phan Anh cũng là một trong
những người mang thông điệp này ra Bắc và nửa đường thì ông đã bị Việt
Minh bắt, theo báo cáo của những người bắt ông, như là một đại Việt
gian.
Trên đây là một số chi tiết liên hệ tới một
biến cố vô cùng lớn lao và vô cùng quan trọng. Biến cố này đã làm thay
đổi hoàn toàn sự diễn tiến của lịch sử dân tộc Việt Nam về đủ mọi
phương diện. Đường lối được gọi là cách mạng hiểu theo nghĩa đơn giản
ban đầu bởi người dân bình thường và ngay cả những trí thức yêu nước và
luôn cả Bảo Đại khi ông thoái vị, đã không được giữ như mọi người mong
muốn. Mặt trận Việt Minh ngay từ đầu đã chủ trương cướp chính quyền để
thực hiện cách mạng theo đường lối riêng của họ. Họ “có chủ trương khác”
theo Phan Anh. Đó không phải là chủ trương và đường lối của Hoàng đế
Bảo Đại khi còn ở ngôi cũng như của đa số các trí thức và những người
trẻ đương thời, điển hình là những người tham gia chính phủ Trần Trọng
Kim, những người không phải chỉ là xu thời mà có những cái nhìn rất rõ
rệt và thực tế về tình hình Việt Nanh ở thời điểm đương thời đã suy nghĩ
và hành động nhất trí từ đầu cho đến chót, đã thực hiện được những
thành quả vô cùng quan trọng trong phạm vi nội trị và luôn cả đã giữ cho
người Việt và nhất là giới thanh niên đứng ngoài cuộc chiến đã đến
ngày tàn của người Nhật, khỏi phải chết oan uổng và mang tiếng là theo
phe bại trận. Đây không phải là một việc làm đơn giản và dễ dàng. Những
cố gắng của Trần Trọng Kim, Phan Anh, nói riêng và cả chính phủ đương
thời, đứng sau là Hoàng đế Bảo Đại phải được ghi nhận khi người ta nói
tới những thành quả họ đã đạt được trong một thời gian ngắn ngủi kỷ lục
mà họ lãnh trách nhiệm lèo lái đất nước vào thời điểm vô cùng khó khăn
tế nhị đó. Sự tế nhị này có thể được thấy rõ một phần nào nếu người ta
để ý tới cuộc tiếp kiến Tsuchihashi Yuichi của Bảo Đại vào cuối tháng
5.1945, khi viên tướng Tổng Tư lệnh quân đội Nhật ghé qua Huế, ở hoàng
cung và yêu cầu nhà vua hạ lệnh động viên, coi như một hành động biểu
lộ sự hỗ trợ Thiên hoàng với chủ trương Đại Đông Á cùng cách trả lời
vừa khéo léo vừa khẳng định quyền tự do nhận định về quyền lợi của đất
nước và dân tộc mình. [14]
Phạm Cao Dương
__________________
(1/9/2005)
Chú Thích:
[1] Phạm Cao Dương, “Sau 60 năm nhìn
lại: 19/8/1945 – 2/9/1945 – Cách mạng hay cướp chính quyền? – Lịch sử
nào cho tuổi trẻ học đường Việt Nam?” http://danluan.org/node/2269(BT)
[2] Tr. 443-445; tái bản bổ sung năm
2000, NXB Văn học, Hà Nội, đổi tên là Hồi ký Thanh Nghị, bài này bị bỏ
(chú thích của Thụy Khuê).
[3] Califomia: Văn Nghệ, 2002, tr. 125-169 và 171-182.[4] Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục, 1998, tr. 370-378.
[5] Thụy Khuê, sđd, tr. 126.
[6] Thụy Khuê, sđd, tr. 128.
[7] Thụy Khuê, sđd, tr. 133.
[8] Một cơn gió bụi, sđd, tr. 49.
[9] Một cơn gió bụi, sđd, tr. 51.
[10] Thụy Khuê, sđd, tr. 178-174.
[11] Thụy Khuê, sđd, tr. 174.
[12] Thụy Khuê, sđd, tr. 174 – 175.
[13] Thụy Khuê, sđd, tr. 180 – 181.
[14] S.M. Bao Dai. Le Dragon d’annam. Paris, Plon, 1980. tr. 108-109.
Nguồn: Tạp chí Khởi Hành số 129, tháng 7.2007, tr. 26-28.
Trích HNPD
No comments:
Post a Comment