HoangsaParacelsblogspot: Cộng Sản Hà Nội nuôi ong Ngô Viễn Phú trong tay áo, ông ta đã biết tường tận gan ruột bản Công Hàm cuả Phạm Văn Đồng. Một người đứng đầu nội các cuả nước VNDCCH, không đại diện cho toàn dân Việt từ Nam đến Bắc. Đảng Cộng Sản Hà Nội trước đầu sóng ngọn gió hiện nay, một mình sẽ không thể đấu lý với Bắc Kinh vì họ đã là đồng phạm với bản Công Hàm, chỉ có một cuộc trưng cầu dân ý từ trong nước ra đến hải ngoại là sẽ vô hiệu hoá Công Hàm" bán nước" này.
Dân News
29-5-14
*Bài này Dân News tổng hợp trên các trang mạng. Được biết ông Ngô Viễn Phú hiện là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam (Đại học Dân tộc Quảng Tây), từng là du học sinh của Đại học Quốc gia Việt Nam. Ngô Viễn Phú cho biết ông từng theo học chương trình tiến sĩ luật học tại Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Việt Nam, từ năm 2001 đến năm 2006.
1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công
hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lí của Trung Quốc, mà
không hề thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ
Trung Quốc. Bời vậy, về cơ bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh
thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam Sa.
Phản luận của Ngô: Đoạn
thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố
vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải
lí của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung
Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Công
hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành” với tuyên bố
về lãnh
hải của chính phủ
Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về
lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ
quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn
cứ.
Công
hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo
lưu nào về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo
lô-gich, là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung
của Tuyên bố Lãnh hải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao
gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ
Trung Quốc”
2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào
thập niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mĩ là xấu, hạm đội 7
của hải quân Mĩ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của
Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước
Mĩ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công hàm Phạm Văn Đồng
là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên
tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến
lãnh thổ.
Phản luận của Ngô: Vào
thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung
tốt đẹp là sự thực, nước Mĩ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt –
Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là
lí do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao
thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế
kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành” rành rành trên giấy
trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ
không được người ta tin tưởng và công nhận đâu !
3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính
cho Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc.
Phản luận của Ngô: Cách
biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu
không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận
Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm
Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại
một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu
lực của công hàm Phạm Văn Đồng.
Thêm
nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi
dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung
Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa
nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho
chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết
định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.
Nói
ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ
Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của
người Việt Nam, chính
phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít
thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên
ngoài.
Lại
thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường
hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo
khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa
thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận
trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa
thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở
thời điểm đó (1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo
Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lí của nước Việt Nam
Cộng hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và
chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở
ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có
quyền xử lí đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm
Phạm Văn Đồng không có giá trị.
Phản luận của
Ngô: Trước năm 1975,
tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất
hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại
diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù
nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm
đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc,
trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy
nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể
theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao
chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc
Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao
với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể
chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống
nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan
hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ
vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi
ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa ? !
Nếu
theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền
Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như
vậy, sẽ có nghĩa là
thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những
cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc
“giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm
lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế
thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì,
chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc
trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền
miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần
đảo Nam Sa.
5. Luận điểm 5 của
phía
Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc
và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc
tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp
pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng
tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định
vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng
không có giá trị.
Phản luận của Ngô: Tháng
7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình
chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng
“thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền
Nam Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này
được kí kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến
lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho
nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về
sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam
đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn
quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa
thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính
thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà
không phải
là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn
chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.
Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.
6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo
nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà
chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu
lực. Công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn,
cho nên không có hiệu lực về pháp
luật.
Phản luận của Ngô: Có
học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công
hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do không thể bác bỏ.
Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh
đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich
pháp luật, sự thực lịch sử.
Thứ
nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng
không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không
cần sự phê chuẩn
của quốc hội. Năm
1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó
không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho
một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công
hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ
của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán
thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần
đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về cơ bản, không có
vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình.
Vào
thời điểm đó,
giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh
thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa
ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không
cần có sự phê chuẩn của quốc hội.
Thứ
hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến
pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc
lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu
cử toàn dân tại vùng mà
mình quản lí được,
đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm
thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải
Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị
phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã
được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến
pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội
chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường
của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc
hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến
pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960.
Sau này,
phía Việt Nam xác định nhiệm kì của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến
năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất
thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực
hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu
tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.
Thông
qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể
nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui
định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được
quyền
lập pháp, điều đó
có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc
chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc
là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.
Ngô Viễn Phú
No comments:
Post a Comment