LTG: Viết cho ngày họp mặt của các bạn tù “trại cải tạo” Ái Tử-Bình Ðiền. Xin thắp nén hương lòng dành cho các bạn tù đã khuất, những người đã anh dũng đấu tranh đòi hỏi công lý cho người tù chiến sĩ VNCH. Các anh đã chết thật vinh quang, thật hào hùng, thật bất khuất dầu trước bạo lực cường quyền. Chúng tôi, những bạn tù còn sống hôm nay luôn mãi mãi nhớ đến các anh.Trại tù ‘cải tạo’ Ái Tử-Bình Ðiền, Nỗi đau vẫn còn đây!
Phạm Văn Tiền (Cựu TNCT trại Ái Tử, Bình Ðiền)
Tôi không phải nhà văn, tôi chỉ là một người lính tác chiến bình thường, đơn vị bị thượng cấp bỏ rơi và còn kẹt lai vào những ngày tháng cuối cùng của tháng 3 năm 1975 buồn thảm tại cửa biển Thuận An, mặt trận phía Bắc tận cùng đất nước. Tôi cũng như bao đồng đội khác đã sớm trở thành những người tù khổ sai trong cái địa ngục đỏ trần gian dưới mỹ từ “tập trung cải tạo” khi toàn thể miền Nam chưa trọn vẹn nằm trong tay giặc.
Họ, những người Cộng Sản Việt Nam, nhân danh “chánh nghĩa” bằng một thứ bạo quyền, độc tôn lòng yêu nước đã dồn bọn tôi tới bước đường cùng của cuộc đời “khố rách áo ôm.” Tôi thích viết, viết cho tôi và những người bạn đồng hành, về những điều thật sự cay đắng oan nghiệt tưởng như không hề có ở xã hội loài người. Thế mà nó đã xảy ra, xảy ra một cách chua xót, đau lòng ngay trên đất nước của mình.
Tôi muốn làm tròn bổn phận của một chiến hữu may mắn sống còn hôm nay, đối với các bạn tù của tôi đã sớm ngã gục dọc đường, của An, Kế, Giỏ, Cát, Sơn, Nhơn, Báo, Lực, Giang, Sang, Minh, Hồ Lộc,… và còn, còn nhiều nữa. Các bạn đã sống thật hiên ngang và chết vô cùng bất khuất, đã ngẩng cao đầu lên để thách thức trước họng súng bạo quyền dù không còn một mảnh sắt trong tay; các bạn là thứ ngọc quý vô giá được cô đọng lại bởi một quân lực mà chúng ta đã hết lòng phục vụ: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Trước sức tấn công ào ạt mà người Cộng Sản gọi là Mùa Xuân Ðại Thắng 1975, toàn thể lực lượng quân sự Việt Nam Cộng Hòa đã có lệnh co cụm lại và bỏ ngõ ở các điểm chiến lược quan trọng từ tỉnh lỵ Phước Long đến sự lui binh của Quân Ðoàn 2 về thị xã Nha Trang và cuối cùng là Quân Ðoàn 1, nhất là mặt trận phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Là những chiến sĩ QLVNCH chúng tôi chỉ biết tuân lệnh, mặc dầu khả năng và tiềm lực chiến đấu của người lính chúng tôi vẫn còn có thể gìn giữ phần đất nầy. Rõ ràng, chúng tôi đã bị thượng cấp buộc phải thua đau, trong niềm tức tưởi nghẹn ngào cùng với cái đau chung của toàn thể dân tộc.
Hơn 3 ngàn người lính QLVNCH gồm toàn đủ mọi binh chủng đã sớm bắt đầu cuộc đời tù tội của mình vào những ngày cuối Tháng Ba Gãy Súng đau thương đó. Chúng tôi đã được chuyển qua nhiều trại tù khác nhau, từ nơi tạm giam tại căn cứ La Sơn, chúng đã đưa các thành phần hạ sĩ quan, binh sĩ về vùng sương lam chướng khí Nam Ðông, Khe Tre. Thành phần sĩ quan còn lại, chúng lùa anh em chúng tôi vào tận miền đất Hạ Lào rừng rú xa xôi có tên là Buôn Hồ, nơi giam giữ những tù binh mà chúng đã bắt được trong các cuộc giao tranh Mùa Hè đỏ lửa 1972 hay mặt trận Cửa Việt 1973. Chúng tôi đã bắt gặp vô số nghĩa địa nơi chúng đã vùi thây biết bao nhiêu tù binh, chiến sĩ QLVNCH, không mộ bia tên tuổi.
Cuối cùng anh em chúng tôi đã được một dịp may hiếm có, thay vì tiếp tục giam giữ nơi đây hoặc bị đày ra Bắc, bọn chúng đã mang chúng tôi lại vùng đất Cồn Tiên nơi có những căn cứ vững chắc của các tiền đồn QLVNCH của chúng ta trước đây, vào những ngày giữa tháng 6, 1975 khi chúng hoàn toàn cưỡng chiếm miền Nam.
Ở đây chưa đầy một năm, anh em chúng tôi lại có lệnh đi bộ về xây dựng trại Ái Tử nằm về phía Tây của quốc lộ 1 hơn 20km đến khu vực Trà Liên, nơi có căn cứ Phượng Hoàng cũ của QLVNCH, chiến tích một thời lẫy lừng của Tiểu Ðoàn 6 TQLC lần đầu tiên sử dụng hỏa tiễn M-72 để diệt chiến xa địch vào tháng 4, 1972. Ðoàn 76 do quân đội quản lý được thành lập qua công trình xây dựng của người tù chúng tôi, được chia thành 5 phân trại để giam giữ tùy theo cấp bậc lớn nhỏ. Ðây là giai đoạn đầu đầy sóng gió nhất, đã có nhiều toán tổ chức vượt trại sang tận miền biên giới Lào, và bị bắt về giam dưới các hố sâu Conex như các anh Trần Văn Loan, Châu Ðức Thảo, Mai Ðức Hòa thuộc Phân Trại 1.
Ðã có những tấm gương can trường bất khuất như Nguyễn Tiến Mỹ, Ðỗ Bá Niềm (trại 3), Nguyễn Tấn Ngọc (trại 2), Nguyễn Ngọc Thức (trại 1) thà chịu nhịn đói chứ không chấp nhận bị cưỡng bức lao động, để phản đối bọn Cộng Sản không thi hành đúng theo luật tù binh quốc tế của Hiệp Ðịnh Paris về hòa bình và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Ðã có những cái chết vô cùng bí hiểm của các anh Nguyễn Ngọc An, Bửu Kế (trại 1), vô cùng can đảm như Hồ Lộc (trại 3), Bí Thư Chi Bộ Ðảng Ðại Việt sau nhiều ngày bị thẩm vấn hỏi cung, biết không thể nào tránh khỏi sự trả thù đê tiện nên đã treo cổ tự sát trong conex biệt giam để bảo toàn tiết tháo của người chiến sĩ cách mạng. Nhưng vượt lên trên tất cả sự tàn nhẫn vô nhân đạo nhất, là việc chúng ra lệnh dẫn độ hai anh Sang và Minh vào rừng thủ tiêu vào một buổi sáng lao động tại đập Trấm, Quảng Trị, chỉ vì những tư thù cá nhân đối với tên thượng úy trưởng trại. Xác hai anh đã được dân vùng kinh tế mới tìm gặp, và chính họ đã chôn cất bên cạnh một ven rừng.
Sau hơn 3 năm tập trung “cải tạo học tập” theo đường lối chính sách của đảng và nhà nước là tất cả chúng tôi sẽ được tha về, nhưng nhà cầm quyền CS Hà Nội lật lọng đã bội ước bằng chính văn bản mà chính họ đã ký ra. Cuối tháng 12 năm 1978, Ðoàn 76 thuộc trại Ái Tử do quân đội quản lý đã giải tán, sau khi hơn 4 tháng trời anh em tù chúng tôi bị đày ải ra vùng Ðô Lương, tỉnh Thanh Hóa để thi công lòng Hồ Sông Mực. Hơn 3 ngàn tù binh chúng tôi một lần nữa đã bị lùa lên nhiều chiếc xe Molotova bịt bùng có công an và vũ khí yểm trợ xuôi Nam về Huế, để cuối cùng áp tải đến trại tù cải tạo “Bình Ðiền” giao lại cho công an áo vàng quản lý.
Bình Ðiền là một địa danh rất quen thuộc của người lính Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, nơi giao tranh giữa ta và địch vào những tháng ngày giành giật nhau từng tấc đất của mùa Hè đỏ lửa 1972,” nơi có cứ địa Bagstone lẫy lừng với nhiều chiến tích hào hùng của người chiến sĩ VNCH.
Tổng trại tù Bình Ðiền cũng được chia ra thành 5 phân trại và mỗi nơi như vậy được chúng giam giữ bằng nhiều loại tù khác nhau, dựa theo cấp bậc và mức độ tội ác mà chúng gọi là “thành phần ác ôn, có nợ máu nhiều ít với nhân dân.”
Phân trại 1 được coi là trại nghiêm ngặt nhất nằm sát cạnh bộ chỉ huy tổng trại, gồm toàn các nhà gạch được xây cất theo hình thức trại biệt giam cùng vài chục hầm Conex chôn sâu dưới lòng đất, bao quanh bởi nhiều tầng kẽm gai dầy đặc. Tù ở đây được coi là thành phần nguy hiểm nhất, bị cấm lao động bên ngoài vì không biết họ vượt trại bất cứ lúc nào. Ða số thuộc thành phần bất hảo can nhiều tội hình sự của một xã hội đầy nhiễu nhương lúc giao thời, cướp của giết người, hiếp dâm, tổ chức vượt biên vượt biển.
Số còn lại là những tổ chức mà chúng gọi là phản động mới, âm mưu lật đổ chính quyền, hay các thành phần chúng cho là nguy hiểm không chịu cải tạo từ các trại tù khác. Ða số tù ở trại này có án rõ ràng. Hạ Sĩ Nguyễn Văn Mộng, binh chủng Thiết Giáp bị án chung thân vì âm mưu lật đổ chính quyền, Trung Sĩ Nguyễn Văn Nhờ, cảnh sát, bị án 20 năm vì tội tuyên truyền chống phá cách mạng. Sinh viên Luật khoa Trịnh Bích bị án chung thân khổ sai vì cùng người yêu cướp súng vượt biển… Còn, còn rất nhiều những người khác cũng bị chúng kết tội theo một thứ luật rừng theo kiểu Tòa án Nhân dân.
Về sau này có lẽ để dễ bề quản lý hơn, trại nữ “Phục hồi nhân phẩm Tây Lộc Huế” cũng được lệnh sát nhập vào phân trại I. Họ là những cô gái làng chơi còn rất trẻ, can phạm đủ thứ tội. Ða số bị án tập trung cải tạo, một số ít khác nặng hơn vì có tội ác rõ ràng, cô giáo viên cấp I Vân Ánh trẻ đẹp kia bị án tù chung thân vì bóp cổ bà nội mình để cướp 2 chỉ vàng, chị Thu Vân 20 năm tù vì tội mua chuộc cán bộ tổ chức vượt biển đại quy mô.
Việc chuyển trại này đã khởi đầu cho nhiều chuyện tình mây mưa ướt át, không biết phải tốn biết bao nhiêu tờ kiểm điểm và hàng vài chục người phải vào ngồi trong các hầm conex biệt giam. Các sự việc này đa số xảy ra ở các tội phạm hình sự. Có những tình yêu ở mức độ chỉ gỡ gạc nhau bằng lon đậu, bánh đường, điếu thuốc gói mè, nhưng cũng có thứ cao cấp hơn thề sống chết với nhau bằng một cuộc vượt ngục, nguy hiểm hơn đã có người tự tử như cô Hương ở đội “chổi đót.” Thì ra cuộc đời càng khốn khổ tuyệt vọng bao nhiêu thì tình yêu càng mặn nồng bấy nhiêu. Vì con tim cũng có lý lẽ riêng của nó.
Nói tóm lại, đây là trại tù “hầm bà lằng” đủ loại, ngay cả tù chính trị, bọn tôi những người cứng đầu, thách thức, chống đối, vượt ngục hoặc nằm trong các tổ chức chính trị, đảng phái cương quyết không chấp hành nội quy trại cũng đều bị đem về nơi nầy để chúng canh giữ nghiêm nhặt hơn. Ða số đều bị cùm trong các hầm conex biệt giam, cắt bớt khẩu phần lương thực và cấm không cho gia đình thăm viếng.
Phân trại 2 cũng là trại gốc từ Ái Tử chuyển qua, thuộc về nơi giam giữ các thành phần mà chúng coi là cực kỳ nguy hiểm như cảnh sát, an ninh tình báo và hầu hết những người có chức vụ quan trong tham gia chính phủ miền Nam. Các đảng phái mà chúng gọi là phản động như Ðại Việt, Quốc Dân Ðảng. Kể các các vị dân biểu, nghị viên, xã trưởng, chiêu hồi, giáo sư. Người tù ở đây vẫn bị canh giữ rất nghiêm nhặt.
Phân trại 3 và 5 toàn sĩ quan rất trẻ từ cấp chuẩn úy đến trung úy, thêm một ít Nghĩa Quân. Họ sống rất ngang tàng vì chẳng có một quá khứ tội lỗi nào để họ phải sợ.
Còn phân trại 4 thì lại khác, đa số gốc từ trại 1 Ái Tử về, cấp bực từ đại úy đến trung tá, cũng có một số rất ít cấp bậc nhỏ hơn bị nhét tạm vào đây vì không còn chỗ chứa ở các trại khác.
Tất cả trên dưới 400 người được chia thành 11 đội, mỗi đội ở một lán (lán là căn nhà tranh vách đất). Công việc hàng ngày là phát rừng, phá rẫy, cấy lúa, trồng khoai để tự túc lương thực theo kế hoạch nhà nước.
Từ hơn 3 năm, chưa bao giờ người tù chúng tôi bị đói thê thảm và tinh thần xuống dốc như lúc nầy, cái đói xanh rờn cả mặt, héo cả tim gan, bủn rủn tay chân, thể xác rã rời. Hồi còn ở trại cũ do quân đội quản lý có bề lỏng lẻo hơn, cũng bị đói nhưng được cái dễ bề cải thiện linh tinh khi lao động bên ngoài. Còn bây giờ là bọn công an áo vàng thứ thiệt, chúng kềm sát khám xét từng người mỗi lần xuất nhập trại. Xin cám ơn những “nạm” rau má, các đọt tàu bay và bao nhiêu thứ thiên nhiên ưu đãi khác, kể cả rắn rít, ễnh ương, cào cào châu chấu đã góp phần kéo dài thêm sự sống cho người tù. Cũng là Việt Cộng như nhau, cùng ác độc như nhau, nhưng mỗi nơi một khác. Chúng tôi như một chiếc bong bóng được thổi phồng lên rồi bị vỡ tung lên vì cơn gió xoáy, bất mãn chán chường. Biết bao nhiêu hy vọng ở mức án tù tập trung cải tạo 3 năm, giờ thì vỡ mộng vì sự tráo trở gạt lừa của bọn người gian ác.
Buổi sáng một lát bột mì luộc (bánh xe lãng tử), trưa vài củ khoai hay sắn thối, chiều một chén cơm độn. Thức ăn chỉ toàn là nước muối pha loãng, may mắn lắm thì được pha thêm muỗng ruốc rẻ tiền. Thế còn đỡ hơn so với các bạn tù còn đang bị cùm trong các nhà kỷ luật, những người đã vượt trại đến tận miền Savanakhet Lào bị bắt dẫn độ về cùng các thành phần hiên ngang không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực, mà chúng thường gọi là bọn phản động, chống đối. Một bữa sắn, khoai cho mỗi ngày.
Còn gì để mà hy vọng vào sự bội tín của con người CS (đừng tin những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm), họ đã hứa đủ điều khi đẩy cả đoàn tù 76 ra tỉnh Thanh Hóa để làm công trình thủy lợi đại quy mô “Lòng Hồ Sông Mực.” Hàng chục hecta rừng được khai phá cho một công trình dẫn thủy nhập điền, nhiều người đã ngã quỵ vì sốt rét rừng, có người chết vì đói quá ăn nhầm nấm độc hay mật cóc như Ðại Úy Lực SÐ1BB.
“Các anh giải phóng lòng Hồ Sông Mực thì chính lòng Hồ Sông Mực sẽ giải phóng các anh,” được phát ra từ chính mồm của tên trung tá chính ủy Ðoàn 76 lúc khởi công, và khi công tác hoàn thành vượt chỉ tiêu, lời hứa đó đã bị phản bội, họ nhẫn tâm lùa tất cả bọn tôi lên chuyến tàu chợ xe hỏa để về lại trại Ái Tử cùng toa với súc vật.
Chúng tôi đã bị mất tất cả, mất nhà mất cửa, ngay cả vợ lẫn con, thì còn gì đâu để mà sợ. Họ một lớp người nhân danh đạo đức để làm chuyện phi nhân, đã biến đất nước thành nhà tù và biển máu. Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, họ cai trị một đất nước không người, thế mà lại huênh hoang chiến thắng, họ đã đạp anh em chúng tôi xuống hố sâu và giờ đây là lúc phải cùng nhau đứng dậy.
Ðêm qua có nhiều tiếng súng nổ và toàn trại báo động vì Ðại Úy Mai Ðức Hòa đã lợi dụng lúc trực trại điểm danh, anh đã liều chết đánh tên cán bộ Thượng Sĩ Thụ thoát chạy ra ngoài đêm tối bao la. Chúng chẳng làm gì được anh vì đây là vùng đất mà đơn vị anh thường hành quân trú đóng, chỉ hơn 3 tháng sau có tin là anh đã đến Úc. Chuyện trốn trại là chuyện thường xảy ra như cơm bữa trong đời tù, luôn gây căng thẳng thần kinh cho người còn lại. Ðâu phải dễ gì mà trốn thoát vì khắp mọi nơi đều có công an, du kích. Rất nhiều người đã bị dẫn độ về sau nhiều ngày ẩn trốn đâu đó. Tất cả đều bị cùm, giam vào các nhà biệt giam conex trong suốt nhiều năm trời. Thế mà trốn vẫn hoàn trốn.
Họ điểm danh chúng tôi khi ăn, giờ nghỉ, ngay cả lúc đi vệ sinh phía bên ngoài trại, theo sát chúng tôi lúc lao động kềm kẹp tứ bề. Họ mắng nhiếc chúng tôi là đồ phản quốc, ăn bơ sữa đế quốc Mỹ giết hại nhân dân. Còn chúng tôi thì một lòng cương quyết chỉ lao động cầm chừng, chỉ tiêu chẳng có mà năng suất cũng không.
Ðã có những buổi phê bình kiểm thảo hàng tuần, nhưng rồi đâu cũng vào đó. Anh em chúng tôi cứ nhắm mắt mà nói như con vẹt để tạm được an thân. Nhưng rồi cuối cùng việc gì đến rồi cũng phải đến, người tù chúng tôi như chiếc lò xo bị ép hết cỡ đã tới lúc cùng nhau bật dậy để bảo vệ quyền sống cho mình. Chúng tôi đòi hỏi họ phải thi hành đúng theo hiệp định Paris, phải có tòa án xét xử công minh, phải cải tiến chế độ tù theo luật tù binh quốc tế. Ðại Úy BÐQ Nguyễn Thuận Cát, đội trưởng đội 6 sản xuất, phản đối tên quản giáo trong cuộc họp về việc dùng vũ lực đối với đội viên của anh. Trung Úy Giàu, đội trưởng đội 9, đòi hỏi phải thi hành đúng chính sách 10 điểm của chính quyền cách mạng là phải thả chúng tôi ngay tức khắc, vô điều kiện.
Cuộc đấu tranh mãi rồi ra chúng cũng nhượng bộ đôi chút, chế độ thăm gặp được mở lại mỗi hai tháng một lần, chỉ được thăm thân nhân 15 phút ngồi đối diện nhau trên một cái bàn dài, những ánh mắt nhìn nhau tức tưởi nghẹn ngào. Chúng tôi được nhận quà bằng những thức ăn không có tính cách dự trữ lâu dài, vì họ sợ bọn tôi trốn trại. Nhờ vào gói mì, điếu thuốc, viên đường… chúng tôi mua chuộc những tên vệ binh trẻ dẫn giải, vì vậy mà cuộc sống có phần dễ chịu hơn.
Nhiều tin tức thật sôi nổi và hấp dẫn được thu thập đâu đó, được đem ra xì sầm bàn tán nhau trong lúc nầy. Ðại loại đó là những tin làm nức lòng chiến sĩ để an ủi người tù trước tình thế nguy nan vô cùng tuyệt vọng: “Có nhiều Tiểu Ðoàn TQLC chúng ta đang hoạt động vùng núi đồi Hải Vân, có tàu chiến Hoa Kỳ ngoài khơi yểm trợ.” Ðặc biệt các thầy tướng số thì nói tình hình nay đã sáng sủa rồi, thế nào cũng có phe ta đến để giải phóng trại tù.
Chúng tôi đã sống những ngày thật sung sướng mà tâm hồn lúc nào cũng thấy lâng lâng bay bổng, lấm lét nhìn nhau bằng những nụ cười khó hiểu, ngón tay cái của bàn tay cứ chỉa thẳng lên trời làm dấu khi gặp nhau. Xin nghiêng mình biết ơn những huyền thoại sống đã cho chúng tôi những cái “phao” để mà bám lấy giữa đại dương mênh mông, hy vọng một vài tia sáng le lói ở cuối đường hầm tăm tối.
Tết năm đó (1979), tương đối đầy đủ nhờ vào những thức ăn do gia đình mang đến. Từ bấy lâu nay, đó là lúc bọn tôi đoàn kết thương yêu nhau nhất, chúng tôi ăn chung với nhau, chia sẻ nhau những gì có được, vì bao giờ cũng vậy, tình cảm chỉ khắng khít mặn nồng khi mọi người cùng khổ như nhau. Chúng tôi rất vui mừng khi hay tin Bắc Kinh xua quân đánh chiếm các tỉnh biên giới, để giáng trả cho Ðảng CSVN một bài học tự mãn.
Chúng tôi không còn muốn đi lao động ngoài trời nữa, chúng tôi tổ chức đình công, khai bệnh mỗi ngày cả trăm người. Chúng tôi chia nhau đi lao động bên ngoài thừa dịp để cải thiện linh tinh, từ củ sắn, củ khoai đến vài trái ớt, trái cà do chính chúng tôi làm ra. Lẽ dĩ nhiên chỉ là hành động lén lút phải thật nhanh nhẹn kín đáo, nếu chúng phát hiện thì bị phạm trọng tội: “Phá hoại tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa,” sẽ bị nghiêm giam kỷ luật. Buổi tối sau giờ điểm danh của tên trực trại, khi cánh cửa trại giam đã được khép kín là giờ sinh hoạt thoải mái của anh em chúng tôi. Chúng tôi tập họp nhau lại ngoài hiên mỗi lán, ca hát những bản nhạc cũ, nhất là các bài tình ca của lính, gợi nhớ lại một thời liệt oanh, vàng son của Người lính QLVNCH.
Bố Nguyễn Ðình Chi, trung tá già đại diện cho trại trong ban “trật tự thi đua” bị gọi đi làm việc nhiều lần. Ông thường nhắc nhở chúng tôi biết rằng hãy cẩn thận và coi chừng âm mưu thâm độc của chúng. Chúng im lặng không có nghĩa là chúng đã không biết những gì chúng ta đang làm, chúng đang chờ cơ hội để ra tay đàn áp một lần cho tất cả, như các vụ án Nhân Văn Giai Phẩm của miền Bắc trước đây.
Còn chúng tôi như một chiếc xe đang tuột dốc không “phanh,” cứ thế mà lao vào hố. Ngày 27 tháng 3, 1980, để kỷ niệm 5 năm ngày mất Huế và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong trận chiến sau cùng tại cửa biển Thuận An, chúng tôi làm lễ tưởng niệm và thức hát suốt đêm, tiếng hát ngạo nghễ, thách thức như để xé tan bầu không khí xiềng xích nặng nề; phá hết xích xiềng để giành lại áo cơm, “Cờ bay! Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu….” Từ trong xà lim đôi chân bị xích xiềng: Trần Văn Loan, Châu Ðức Thảo, Nguyễn Ngọc Thức, Lê Văn Cang, Mai Ðức Hòa, các bạn tù của chúng tôi cũng đồng thanh hát: “Dậy mà đi hỡi đồng ơi! Bao nhiêu năm dân ta sống không nhà, bao nhiêu năm dân ta chết không hòm. Dậy mà đi!. Dậy mà đi.”
Ngay trong đêm hôm đó chúng đã bắt đi Ðại Úy Báu khi tên trực trại xông vào hàng rào gần cổng trại. Anh đã bị dẫn đi trong đêm và sau này được tin anh đã bị đánh đập cho đến chết. Khoảng 4 giờ sáng bên ngoài có lực lượng công an dầy đặc bao vây, bên trong chúng tôi vẫn hát, mọi người đồng thanh hát, cả trại hát như chưa bao giờ chúng tôi được hát xướng như thế. Sáng sớm hôm sau, họ tấn công vào trại bắt đi một số người trong đó có Thiếu Tá Hồ Văn Vĩnh, người nhạc sĩ tài ba của chúng tôi, một trong những người đứng ra tổ chức “Ðêm không ngủ” này.
Thời gian kế tiếp là thời gian điều tra thẩm vấn, họ gọi hết người nầy đến người kia lên cơ quan làm việc: Cát, Giàu, Quyền,… đã bị bắt còng tay dẫn đi với tội danh “không chịu học tập cải tạo, âm mưu chống phá chính quyền cách mạng.” Nguyễn Thuận Cát, đại úy, tốt nghiệp khóa 24 VBQG Ðà Lạt, anh sống rất cương trực và thường chống lại những bất công mặc dầu anh được chúng giao cho chức đội trưởng. Anh đã đương đầu nhất định không khuất phục trước bạo quyền, và chịu đòn đau cho đến chết. Riêng Giàu, trung úy BÐQ, là một trường hợp hiếm có ngoại lệ, anh từ chối không gặp mặt cha mình trong lúc đang thọ hình, vì cha anh nay là cán bộ VC cao cấp. Anh nhất quyết giữ vững lập trường:
“Cha đi đường cha, tôi đi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.”
Ngọn lửa đang bốc cháy cao cho dù bị dập tắt cũng còn âm ỉ bởi một thứ than hồng. Chúng tôi bắt đầu chuyển sang hình thức đấu tranh mới, dè dặt bãi công, thay phiên nhau nghỉ bệnh, con số xuất trại bao giờ cũng ít hơn số khai bệnh ở nhà. Các anh Vũ Ngọc Tụng, Nguyễn Tri Tấn, Phạm Cang, Lê Quang Liễn, Hoàng Hưng, Bác sĩ Hoàng Thế Ðịnh, Phan Văn Lập đã nhen nhúm hình thành một tổ chức có tên là “Ủy Ban Hành Ðộng.” Theo dự tính giờ G ấn định, toàn thể các đội viên hiện đang lao động ngoài hiện trường cùng nhau nổi dậy cướp súng các tên vệ binh dẫn giải, kéo nhau về giải phóng trại tù. Việc chưa thành đã bị bại lộ, các anh lãnh đạo Tụng, Tấn đã bị chúng bắt đi tra tấn và bị nhục hình. Phần còn lại rơi vào thảm cảnh đẫm máu của một sự trả thù khủng khiếp nhất.
Kẻ thù bất chấp luật lệ, chúng điều động những võ sĩ của Ty Công An Bình Trị Thiên dùng vũ lực thẳng tay đàn áp, chúng cho người đi khắp các lán với sự thỏa thuận chỉ điểm của các tên quản giáo, tập trung tất cả về một góc phân trại đánh đập trả thù, tiếng khóc tiếng la như gầm chuyển một góc trời, nước mắt đã rơi nhiều cùng máu. Ðó là buổi chiều ngày 20 tháng 4 năm 1980 lịch sử đáng ghi nhớ!
Sau này chúng lần lượt thẩm tra bắt hết các anh còn lại của tổ chức trên đem về biệt giam ở đoàn. Thêm các anh Võ Ðằng Phương, Nguyễn Kim Chung, Lê Tự Hào, trong một tổ chức khác có tên là “Phục Hưng nền Cộng Hòa.” Câu nói khẳng khái của Võ Ðằng Phương, người sáng lập ra tổ chức này, tại tòa án nhân dân Thừa Thiên, Huế, năm nào như còn mãi in sâu vào tiềm thức của những người tù tại trại tù “Cải tạo Bình Ðiền”: “Các ông làm gì có luật pháp mà xét xử, luật của các ông là thứ luật rừng. Tôi nay ở trong tay các ông thì do quyền quyết định của các ông, tôi không có gì thắc mắc cả!”
Chúng kêu án anh thêm 10 năm tù sau khi mãn án “tù tập trung cải tạo,” mà án tập trung cải tạo là án dây thun thì biết đến bao giờ! Làm sao quên được hình ảnh hiên ngang của người tù Thiếu Tá Võ Ðằng Phương TQLC, tiến đến chiếc xe bịt bùng đang chờ sẵn, hiên ngang, ngạo nghễ, ngẩng cao đầu thách thức đầy niềm hãnh diện tự hào, một gương can đảm đầy tiết tháo của Người Chiến Sĩ QLVNCH.
Ðây chỉ là khoảng thời gian khởi đầu cho quãng đường dài của cuộc đời tù tội. Cuộc đấu tranh vì chính nghĩa của người tù vẫn còn tiếp diễn vì “nơi nào còn áp bức là nơi đó có đấu tranh.”
Còn nhiều điều đáng viết thêm mà một trí nhớ hạn hẹp không đủ để nhớ hết về sự hy sinh cao cả và lòng dũng cảm của người chiến sĩ VNCH. Xin tri ân những bà mẹ, người vợ, người anh, người chị, người em, người con đã vất vả gian lao tần tảo để giúp cho người tù còn có được ngày hôm nay, trong “Ngày Hội Trại Tù Ái Tử-Bình Ðiền.
Phạm Văn Tiền (Cựu TNCT trại Ái Tử, Bình Ðiền)
Tôi không phải nhà văn, tôi chỉ là một người lính tác chiến bình thường, đơn vị bị thượng cấp bỏ rơi và còn kẹt lai vào những ngày tháng cuối cùng của tháng 3 năm 1975 buồn thảm tại cửa biển Thuận An, mặt trận phía Bắc tận cùng đất nước. Tôi cũng như bao đồng đội khác đã sớm trở thành những người tù khổ sai trong cái địa ngục đỏ trần gian dưới mỹ từ “tập trung cải tạo” khi toàn thể miền Nam chưa trọn vẹn nằm trong tay giặc.
Họ, những người Cộng Sản Việt Nam, nhân danh “chánh nghĩa” bằng một thứ bạo quyền, độc tôn lòng yêu nước đã dồn bọn tôi tới bước đường cùng của cuộc đời “khố rách áo ôm.” Tôi thích viết, viết cho tôi và những người bạn đồng hành, về những điều thật sự cay đắng oan nghiệt tưởng như không hề có ở xã hội loài người. Thế mà nó đã xảy ra, xảy ra một cách chua xót, đau lòng ngay trên đất nước của mình.
Tôi muốn làm tròn bổn phận của một chiến hữu may mắn sống còn hôm nay, đối với các bạn tù của tôi đã sớm ngã gục dọc đường, của An, Kế, Giỏ, Cát, Sơn, Nhơn, Báo, Lực, Giang, Sang, Minh, Hồ Lộc,… và còn, còn nhiều nữa. Các bạn đã sống thật hiên ngang và chết vô cùng bất khuất, đã ngẩng cao đầu lên để thách thức trước họng súng bạo quyền dù không còn một mảnh sắt trong tay; các bạn là thứ ngọc quý vô giá được cô đọng lại bởi một quân lực mà chúng ta đã hết lòng phục vụ: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Trước sức tấn công ào ạt mà người Cộng Sản gọi là Mùa Xuân Ðại Thắng 1975, toàn thể lực lượng quân sự Việt Nam Cộng Hòa đã có lệnh co cụm lại và bỏ ngõ ở các điểm chiến lược quan trọng từ tỉnh lỵ Phước Long đến sự lui binh của Quân Ðoàn 2 về thị xã Nha Trang và cuối cùng là Quân Ðoàn 1, nhất là mặt trận phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Là những chiến sĩ QLVNCH chúng tôi chỉ biết tuân lệnh, mặc dầu khả năng và tiềm lực chiến đấu của người lính chúng tôi vẫn còn có thể gìn giữ phần đất nầy. Rõ ràng, chúng tôi đã bị thượng cấp buộc phải thua đau, trong niềm tức tưởi nghẹn ngào cùng với cái đau chung của toàn thể dân tộc.
Hơn 3 ngàn người lính QLVNCH gồm toàn đủ mọi binh chủng đã sớm bắt đầu cuộc đời tù tội của mình vào những ngày cuối Tháng Ba Gãy Súng đau thương đó. Chúng tôi đã được chuyển qua nhiều trại tù khác nhau, từ nơi tạm giam tại căn cứ La Sơn, chúng đã đưa các thành phần hạ sĩ quan, binh sĩ về vùng sương lam chướng khí Nam Ðông, Khe Tre. Thành phần sĩ quan còn lại, chúng lùa anh em chúng tôi vào tận miền đất Hạ Lào rừng rú xa xôi có tên là Buôn Hồ, nơi giam giữ những tù binh mà chúng đã bắt được trong các cuộc giao tranh Mùa Hè đỏ lửa 1972 hay mặt trận Cửa Việt 1973. Chúng tôi đã bắt gặp vô số nghĩa địa nơi chúng đã vùi thây biết bao nhiêu tù binh, chiến sĩ QLVNCH, không mộ bia tên tuổi.
Cuối cùng anh em chúng tôi đã được một dịp may hiếm có, thay vì tiếp tục giam giữ nơi đây hoặc bị đày ra Bắc, bọn chúng đã mang chúng tôi lại vùng đất Cồn Tiên nơi có những căn cứ vững chắc của các tiền đồn QLVNCH của chúng ta trước đây, vào những ngày giữa tháng 6, 1975 khi chúng hoàn toàn cưỡng chiếm miền Nam.
Ở đây chưa đầy một năm, anh em chúng tôi lại có lệnh đi bộ về xây dựng trại Ái Tử nằm về phía Tây của quốc lộ 1 hơn 20km đến khu vực Trà Liên, nơi có căn cứ Phượng Hoàng cũ của QLVNCH, chiến tích một thời lẫy lừng của Tiểu Ðoàn 6 TQLC lần đầu tiên sử dụng hỏa tiễn M-72 để diệt chiến xa địch vào tháng 4, 1972. Ðoàn 76 do quân đội quản lý được thành lập qua công trình xây dựng của người tù chúng tôi, được chia thành 5 phân trại để giam giữ tùy theo cấp bậc lớn nhỏ. Ðây là giai đoạn đầu đầy sóng gió nhất, đã có nhiều toán tổ chức vượt trại sang tận miền biên giới Lào, và bị bắt về giam dưới các hố sâu Conex như các anh Trần Văn Loan, Châu Ðức Thảo, Mai Ðức Hòa thuộc Phân Trại 1.
Ðã có những tấm gương can trường bất khuất như Nguyễn Tiến Mỹ, Ðỗ Bá Niềm (trại 3), Nguyễn Tấn Ngọc (trại 2), Nguyễn Ngọc Thức (trại 1) thà chịu nhịn đói chứ không chấp nhận bị cưỡng bức lao động, để phản đối bọn Cộng Sản không thi hành đúng theo luật tù binh quốc tế của Hiệp Ðịnh Paris về hòa bình và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Ðã có những cái chết vô cùng bí hiểm của các anh Nguyễn Ngọc An, Bửu Kế (trại 1), vô cùng can đảm như Hồ Lộc (trại 3), Bí Thư Chi Bộ Ðảng Ðại Việt sau nhiều ngày bị thẩm vấn hỏi cung, biết không thể nào tránh khỏi sự trả thù đê tiện nên đã treo cổ tự sát trong conex biệt giam để bảo toàn tiết tháo của người chiến sĩ cách mạng. Nhưng vượt lên trên tất cả sự tàn nhẫn vô nhân đạo nhất, là việc chúng ra lệnh dẫn độ hai anh Sang và Minh vào rừng thủ tiêu vào một buổi sáng lao động tại đập Trấm, Quảng Trị, chỉ vì những tư thù cá nhân đối với tên thượng úy trưởng trại. Xác hai anh đã được dân vùng kinh tế mới tìm gặp, và chính họ đã chôn cất bên cạnh một ven rừng.
Sau hơn 3 năm tập trung “cải tạo học tập” theo đường lối chính sách của đảng và nhà nước là tất cả chúng tôi sẽ được tha về, nhưng nhà cầm quyền CS Hà Nội lật lọng đã bội ước bằng chính văn bản mà chính họ đã ký ra. Cuối tháng 12 năm 1978, Ðoàn 76 thuộc trại Ái Tử do quân đội quản lý đã giải tán, sau khi hơn 4 tháng trời anh em tù chúng tôi bị đày ải ra vùng Ðô Lương, tỉnh Thanh Hóa để thi công lòng Hồ Sông Mực. Hơn 3 ngàn tù binh chúng tôi một lần nữa đã bị lùa lên nhiều chiếc xe Molotova bịt bùng có công an và vũ khí yểm trợ xuôi Nam về Huế, để cuối cùng áp tải đến trại tù cải tạo “Bình Ðiền” giao lại cho công an áo vàng quản lý.
Bình Ðiền là một địa danh rất quen thuộc của người lính Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, nơi giao tranh giữa ta và địch vào những tháng ngày giành giật nhau từng tấc đất của mùa Hè đỏ lửa 1972,” nơi có cứ địa Bagstone lẫy lừng với nhiều chiến tích hào hùng của người chiến sĩ VNCH.
Tổng trại tù Bình Ðiền cũng được chia ra thành 5 phân trại và mỗi nơi như vậy được chúng giam giữ bằng nhiều loại tù khác nhau, dựa theo cấp bậc và mức độ tội ác mà chúng gọi là “thành phần ác ôn, có nợ máu nhiều ít với nhân dân.”
Phân trại 1 được coi là trại nghiêm ngặt nhất nằm sát cạnh bộ chỉ huy tổng trại, gồm toàn các nhà gạch được xây cất theo hình thức trại biệt giam cùng vài chục hầm Conex chôn sâu dưới lòng đất, bao quanh bởi nhiều tầng kẽm gai dầy đặc. Tù ở đây được coi là thành phần nguy hiểm nhất, bị cấm lao động bên ngoài vì không biết họ vượt trại bất cứ lúc nào. Ða số thuộc thành phần bất hảo can nhiều tội hình sự của một xã hội đầy nhiễu nhương lúc giao thời, cướp của giết người, hiếp dâm, tổ chức vượt biên vượt biển.
Số còn lại là những tổ chức mà chúng gọi là phản động mới, âm mưu lật đổ chính quyền, hay các thành phần chúng cho là nguy hiểm không chịu cải tạo từ các trại tù khác. Ða số tù ở trại này có án rõ ràng. Hạ Sĩ Nguyễn Văn Mộng, binh chủng Thiết Giáp bị án chung thân vì âm mưu lật đổ chính quyền, Trung Sĩ Nguyễn Văn Nhờ, cảnh sát, bị án 20 năm vì tội tuyên truyền chống phá cách mạng. Sinh viên Luật khoa Trịnh Bích bị án chung thân khổ sai vì cùng người yêu cướp súng vượt biển… Còn, còn rất nhiều những người khác cũng bị chúng kết tội theo một thứ luật rừng theo kiểu Tòa án Nhân dân.
Về sau này có lẽ để dễ bề quản lý hơn, trại nữ “Phục hồi nhân phẩm Tây Lộc Huế” cũng được lệnh sát nhập vào phân trại I. Họ là những cô gái làng chơi còn rất trẻ, can phạm đủ thứ tội. Ða số bị án tập trung cải tạo, một số ít khác nặng hơn vì có tội ác rõ ràng, cô giáo viên cấp I Vân Ánh trẻ đẹp kia bị án tù chung thân vì bóp cổ bà nội mình để cướp 2 chỉ vàng, chị Thu Vân 20 năm tù vì tội mua chuộc cán bộ tổ chức vượt biển đại quy mô.
Việc chuyển trại này đã khởi đầu cho nhiều chuyện tình mây mưa ướt át, không biết phải tốn biết bao nhiêu tờ kiểm điểm và hàng vài chục người phải vào ngồi trong các hầm conex biệt giam. Các sự việc này đa số xảy ra ở các tội phạm hình sự. Có những tình yêu ở mức độ chỉ gỡ gạc nhau bằng lon đậu, bánh đường, điếu thuốc gói mè, nhưng cũng có thứ cao cấp hơn thề sống chết với nhau bằng một cuộc vượt ngục, nguy hiểm hơn đã có người tự tử như cô Hương ở đội “chổi đót.” Thì ra cuộc đời càng khốn khổ tuyệt vọng bao nhiêu thì tình yêu càng mặn nồng bấy nhiêu. Vì con tim cũng có lý lẽ riêng của nó.
Nói tóm lại, đây là trại tù “hầm bà lằng” đủ loại, ngay cả tù chính trị, bọn tôi những người cứng đầu, thách thức, chống đối, vượt ngục hoặc nằm trong các tổ chức chính trị, đảng phái cương quyết không chấp hành nội quy trại cũng đều bị đem về nơi nầy để chúng canh giữ nghiêm nhặt hơn. Ða số đều bị cùm trong các hầm conex biệt giam, cắt bớt khẩu phần lương thực và cấm không cho gia đình thăm viếng.
Phân trại 2 cũng là trại gốc từ Ái Tử chuyển qua, thuộc về nơi giam giữ các thành phần mà chúng coi là cực kỳ nguy hiểm như cảnh sát, an ninh tình báo và hầu hết những người có chức vụ quan trong tham gia chính phủ miền Nam. Các đảng phái mà chúng gọi là phản động như Ðại Việt, Quốc Dân Ðảng. Kể các các vị dân biểu, nghị viên, xã trưởng, chiêu hồi, giáo sư. Người tù ở đây vẫn bị canh giữ rất nghiêm nhặt.
Phân trại 3 và 5 toàn sĩ quan rất trẻ từ cấp chuẩn úy đến trung úy, thêm một ít Nghĩa Quân. Họ sống rất ngang tàng vì chẳng có một quá khứ tội lỗi nào để họ phải sợ.
Còn phân trại 4 thì lại khác, đa số gốc từ trại 1 Ái Tử về, cấp bực từ đại úy đến trung tá, cũng có một số rất ít cấp bậc nhỏ hơn bị nhét tạm vào đây vì không còn chỗ chứa ở các trại khác.
Tất cả trên dưới 400 người được chia thành 11 đội, mỗi đội ở một lán (lán là căn nhà tranh vách đất). Công việc hàng ngày là phát rừng, phá rẫy, cấy lúa, trồng khoai để tự túc lương thực theo kế hoạch nhà nước.
Từ hơn 3 năm, chưa bao giờ người tù chúng tôi bị đói thê thảm và tinh thần xuống dốc như lúc nầy, cái đói xanh rờn cả mặt, héo cả tim gan, bủn rủn tay chân, thể xác rã rời. Hồi còn ở trại cũ do quân đội quản lý có bề lỏng lẻo hơn, cũng bị đói nhưng được cái dễ bề cải thiện linh tinh khi lao động bên ngoài. Còn bây giờ là bọn công an áo vàng thứ thiệt, chúng kềm sát khám xét từng người mỗi lần xuất nhập trại. Xin cám ơn những “nạm” rau má, các đọt tàu bay và bao nhiêu thứ thiên nhiên ưu đãi khác, kể cả rắn rít, ễnh ương, cào cào châu chấu đã góp phần kéo dài thêm sự sống cho người tù. Cũng là Việt Cộng như nhau, cùng ác độc như nhau, nhưng mỗi nơi một khác. Chúng tôi như một chiếc bong bóng được thổi phồng lên rồi bị vỡ tung lên vì cơn gió xoáy, bất mãn chán chường. Biết bao nhiêu hy vọng ở mức án tù tập trung cải tạo 3 năm, giờ thì vỡ mộng vì sự tráo trở gạt lừa của bọn người gian ác.
Buổi sáng một lát bột mì luộc (bánh xe lãng tử), trưa vài củ khoai hay sắn thối, chiều một chén cơm độn. Thức ăn chỉ toàn là nước muối pha loãng, may mắn lắm thì được pha thêm muỗng ruốc rẻ tiền. Thế còn đỡ hơn so với các bạn tù còn đang bị cùm trong các nhà kỷ luật, những người đã vượt trại đến tận miền Savanakhet Lào bị bắt dẫn độ về cùng các thành phần hiên ngang không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực, mà chúng thường gọi là bọn phản động, chống đối. Một bữa sắn, khoai cho mỗi ngày.
Còn gì để mà hy vọng vào sự bội tín của con người CS (đừng tin những gì CS nói mà hãy nhìn những gì CS làm), họ đã hứa đủ điều khi đẩy cả đoàn tù 76 ra tỉnh Thanh Hóa để làm công trình thủy lợi đại quy mô “Lòng Hồ Sông Mực.” Hàng chục hecta rừng được khai phá cho một công trình dẫn thủy nhập điền, nhiều người đã ngã quỵ vì sốt rét rừng, có người chết vì đói quá ăn nhầm nấm độc hay mật cóc như Ðại Úy Lực SÐ1BB.
“Các anh giải phóng lòng Hồ Sông Mực thì chính lòng Hồ Sông Mực sẽ giải phóng các anh,” được phát ra từ chính mồm của tên trung tá chính ủy Ðoàn 76 lúc khởi công, và khi công tác hoàn thành vượt chỉ tiêu, lời hứa đó đã bị phản bội, họ nhẫn tâm lùa tất cả bọn tôi lên chuyến tàu chợ xe hỏa để về lại trại Ái Tử cùng toa với súc vật.
Chúng tôi đã bị mất tất cả, mất nhà mất cửa, ngay cả vợ lẫn con, thì còn gì đâu để mà sợ. Họ một lớp người nhân danh đạo đức để làm chuyện phi nhân, đã biến đất nước thành nhà tù và biển máu. Hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, họ cai trị một đất nước không người, thế mà lại huênh hoang chiến thắng, họ đã đạp anh em chúng tôi xuống hố sâu và giờ đây là lúc phải cùng nhau đứng dậy.
Ðêm qua có nhiều tiếng súng nổ và toàn trại báo động vì Ðại Úy Mai Ðức Hòa đã lợi dụng lúc trực trại điểm danh, anh đã liều chết đánh tên cán bộ Thượng Sĩ Thụ thoát chạy ra ngoài đêm tối bao la. Chúng chẳng làm gì được anh vì đây là vùng đất mà đơn vị anh thường hành quân trú đóng, chỉ hơn 3 tháng sau có tin là anh đã đến Úc. Chuyện trốn trại là chuyện thường xảy ra như cơm bữa trong đời tù, luôn gây căng thẳng thần kinh cho người còn lại. Ðâu phải dễ gì mà trốn thoát vì khắp mọi nơi đều có công an, du kích. Rất nhiều người đã bị dẫn độ về sau nhiều ngày ẩn trốn đâu đó. Tất cả đều bị cùm, giam vào các nhà biệt giam conex trong suốt nhiều năm trời. Thế mà trốn vẫn hoàn trốn.
Họ điểm danh chúng tôi khi ăn, giờ nghỉ, ngay cả lúc đi vệ sinh phía bên ngoài trại, theo sát chúng tôi lúc lao động kềm kẹp tứ bề. Họ mắng nhiếc chúng tôi là đồ phản quốc, ăn bơ sữa đế quốc Mỹ giết hại nhân dân. Còn chúng tôi thì một lòng cương quyết chỉ lao động cầm chừng, chỉ tiêu chẳng có mà năng suất cũng không.
Ðã có những buổi phê bình kiểm thảo hàng tuần, nhưng rồi đâu cũng vào đó. Anh em chúng tôi cứ nhắm mắt mà nói như con vẹt để tạm được an thân. Nhưng rồi cuối cùng việc gì đến rồi cũng phải đến, người tù chúng tôi như chiếc lò xo bị ép hết cỡ đã tới lúc cùng nhau bật dậy để bảo vệ quyền sống cho mình. Chúng tôi đòi hỏi họ phải thi hành đúng theo hiệp định Paris, phải có tòa án xét xử công minh, phải cải tiến chế độ tù theo luật tù binh quốc tế. Ðại Úy BÐQ Nguyễn Thuận Cát, đội trưởng đội 6 sản xuất, phản đối tên quản giáo trong cuộc họp về việc dùng vũ lực đối với đội viên của anh. Trung Úy Giàu, đội trưởng đội 9, đòi hỏi phải thi hành đúng chính sách 10 điểm của chính quyền cách mạng là phải thả chúng tôi ngay tức khắc, vô điều kiện.
Cuộc đấu tranh mãi rồi ra chúng cũng nhượng bộ đôi chút, chế độ thăm gặp được mở lại mỗi hai tháng một lần, chỉ được thăm thân nhân 15 phút ngồi đối diện nhau trên một cái bàn dài, những ánh mắt nhìn nhau tức tưởi nghẹn ngào. Chúng tôi được nhận quà bằng những thức ăn không có tính cách dự trữ lâu dài, vì họ sợ bọn tôi trốn trại. Nhờ vào gói mì, điếu thuốc, viên đường… chúng tôi mua chuộc những tên vệ binh trẻ dẫn giải, vì vậy mà cuộc sống có phần dễ chịu hơn.
Nhiều tin tức thật sôi nổi và hấp dẫn được thu thập đâu đó, được đem ra xì sầm bàn tán nhau trong lúc nầy. Ðại loại đó là những tin làm nức lòng chiến sĩ để an ủi người tù trước tình thế nguy nan vô cùng tuyệt vọng: “Có nhiều Tiểu Ðoàn TQLC chúng ta đang hoạt động vùng núi đồi Hải Vân, có tàu chiến Hoa Kỳ ngoài khơi yểm trợ.” Ðặc biệt các thầy tướng số thì nói tình hình nay đã sáng sủa rồi, thế nào cũng có phe ta đến để giải phóng trại tù.
Chúng tôi đã sống những ngày thật sung sướng mà tâm hồn lúc nào cũng thấy lâng lâng bay bổng, lấm lét nhìn nhau bằng những nụ cười khó hiểu, ngón tay cái của bàn tay cứ chỉa thẳng lên trời làm dấu khi gặp nhau. Xin nghiêng mình biết ơn những huyền thoại sống đã cho chúng tôi những cái “phao” để mà bám lấy giữa đại dương mênh mông, hy vọng một vài tia sáng le lói ở cuối đường hầm tăm tối.
Tết năm đó (1979), tương đối đầy đủ nhờ vào những thức ăn do gia đình mang đến. Từ bấy lâu nay, đó là lúc bọn tôi đoàn kết thương yêu nhau nhất, chúng tôi ăn chung với nhau, chia sẻ nhau những gì có được, vì bao giờ cũng vậy, tình cảm chỉ khắng khít mặn nồng khi mọi người cùng khổ như nhau. Chúng tôi rất vui mừng khi hay tin Bắc Kinh xua quân đánh chiếm các tỉnh biên giới, để giáng trả cho Ðảng CSVN một bài học tự mãn.
Chúng tôi không còn muốn đi lao động ngoài trời nữa, chúng tôi tổ chức đình công, khai bệnh mỗi ngày cả trăm người. Chúng tôi chia nhau đi lao động bên ngoài thừa dịp để cải thiện linh tinh, từ củ sắn, củ khoai đến vài trái ớt, trái cà do chính chúng tôi làm ra. Lẽ dĩ nhiên chỉ là hành động lén lút phải thật nhanh nhẹn kín đáo, nếu chúng phát hiện thì bị phạm trọng tội: “Phá hoại tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa,” sẽ bị nghiêm giam kỷ luật. Buổi tối sau giờ điểm danh của tên trực trại, khi cánh cửa trại giam đã được khép kín là giờ sinh hoạt thoải mái của anh em chúng tôi. Chúng tôi tập họp nhau lại ngoài hiên mỗi lán, ca hát những bản nhạc cũ, nhất là các bài tình ca của lính, gợi nhớ lại một thời liệt oanh, vàng son của Người lính QLVNCH.
Bố Nguyễn Ðình Chi, trung tá già đại diện cho trại trong ban “trật tự thi đua” bị gọi đi làm việc nhiều lần. Ông thường nhắc nhở chúng tôi biết rằng hãy cẩn thận và coi chừng âm mưu thâm độc của chúng. Chúng im lặng không có nghĩa là chúng đã không biết những gì chúng ta đang làm, chúng đang chờ cơ hội để ra tay đàn áp một lần cho tất cả, như các vụ án Nhân Văn Giai Phẩm của miền Bắc trước đây.
Còn chúng tôi như một chiếc xe đang tuột dốc không “phanh,” cứ thế mà lao vào hố. Ngày 27 tháng 3, 1980, để kỷ niệm 5 năm ngày mất Huế và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong trận chiến sau cùng tại cửa biển Thuận An, chúng tôi làm lễ tưởng niệm và thức hát suốt đêm, tiếng hát ngạo nghễ, thách thức như để xé tan bầu không khí xiềng xích nặng nề; phá hết xích xiềng để giành lại áo cơm, “Cờ bay! Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu….” Từ trong xà lim đôi chân bị xích xiềng: Trần Văn Loan, Châu Ðức Thảo, Nguyễn Ngọc Thức, Lê Văn Cang, Mai Ðức Hòa, các bạn tù của chúng tôi cũng đồng thanh hát: “Dậy mà đi hỡi đồng ơi! Bao nhiêu năm dân ta sống không nhà, bao nhiêu năm dân ta chết không hòm. Dậy mà đi!. Dậy mà đi.”
Ngay trong đêm hôm đó chúng đã bắt đi Ðại Úy Báu khi tên trực trại xông vào hàng rào gần cổng trại. Anh đã bị dẫn đi trong đêm và sau này được tin anh đã bị đánh đập cho đến chết. Khoảng 4 giờ sáng bên ngoài có lực lượng công an dầy đặc bao vây, bên trong chúng tôi vẫn hát, mọi người đồng thanh hát, cả trại hát như chưa bao giờ chúng tôi được hát xướng như thế. Sáng sớm hôm sau, họ tấn công vào trại bắt đi một số người trong đó có Thiếu Tá Hồ Văn Vĩnh, người nhạc sĩ tài ba của chúng tôi, một trong những người đứng ra tổ chức “Ðêm không ngủ” này.
Thời gian kế tiếp là thời gian điều tra thẩm vấn, họ gọi hết người nầy đến người kia lên cơ quan làm việc: Cát, Giàu, Quyền,… đã bị bắt còng tay dẫn đi với tội danh “không chịu học tập cải tạo, âm mưu chống phá chính quyền cách mạng.” Nguyễn Thuận Cát, đại úy, tốt nghiệp khóa 24 VBQG Ðà Lạt, anh sống rất cương trực và thường chống lại những bất công mặc dầu anh được chúng giao cho chức đội trưởng. Anh đã đương đầu nhất định không khuất phục trước bạo quyền, và chịu đòn đau cho đến chết. Riêng Giàu, trung úy BÐQ, là một trường hợp hiếm có ngoại lệ, anh từ chối không gặp mặt cha mình trong lúc đang thọ hình, vì cha anh nay là cán bộ VC cao cấp. Anh nhất quyết giữ vững lập trường:
“Cha đi đường cha, tôi đi đường tôi
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.”
Ngọn lửa đang bốc cháy cao cho dù bị dập tắt cũng còn âm ỉ bởi một thứ than hồng. Chúng tôi bắt đầu chuyển sang hình thức đấu tranh mới, dè dặt bãi công, thay phiên nhau nghỉ bệnh, con số xuất trại bao giờ cũng ít hơn số khai bệnh ở nhà. Các anh Vũ Ngọc Tụng, Nguyễn Tri Tấn, Phạm Cang, Lê Quang Liễn, Hoàng Hưng, Bác sĩ Hoàng Thế Ðịnh, Phan Văn Lập đã nhen nhúm hình thành một tổ chức có tên là “Ủy Ban Hành Ðộng.” Theo dự tính giờ G ấn định, toàn thể các đội viên hiện đang lao động ngoài hiện trường cùng nhau nổi dậy cướp súng các tên vệ binh dẫn giải, kéo nhau về giải phóng trại tù. Việc chưa thành đã bị bại lộ, các anh lãnh đạo Tụng, Tấn đã bị chúng bắt đi tra tấn và bị nhục hình. Phần còn lại rơi vào thảm cảnh đẫm máu của một sự trả thù khủng khiếp nhất.
Kẻ thù bất chấp luật lệ, chúng điều động những võ sĩ của Ty Công An Bình Trị Thiên dùng vũ lực thẳng tay đàn áp, chúng cho người đi khắp các lán với sự thỏa thuận chỉ điểm của các tên quản giáo, tập trung tất cả về một góc phân trại đánh đập trả thù, tiếng khóc tiếng la như gầm chuyển một góc trời, nước mắt đã rơi nhiều cùng máu. Ðó là buổi chiều ngày 20 tháng 4 năm 1980 lịch sử đáng ghi nhớ!
Sau này chúng lần lượt thẩm tra bắt hết các anh còn lại của tổ chức trên đem về biệt giam ở đoàn. Thêm các anh Võ Ðằng Phương, Nguyễn Kim Chung, Lê Tự Hào, trong một tổ chức khác có tên là “Phục Hưng nền Cộng Hòa.” Câu nói khẳng khái của Võ Ðằng Phương, người sáng lập ra tổ chức này, tại tòa án nhân dân Thừa Thiên, Huế, năm nào như còn mãi in sâu vào tiềm thức của những người tù tại trại tù “Cải tạo Bình Ðiền”: “Các ông làm gì có luật pháp mà xét xử, luật của các ông là thứ luật rừng. Tôi nay ở trong tay các ông thì do quyền quyết định của các ông, tôi không có gì thắc mắc cả!”
Chúng kêu án anh thêm 10 năm tù sau khi mãn án “tù tập trung cải tạo,” mà án tập trung cải tạo là án dây thun thì biết đến bao giờ! Làm sao quên được hình ảnh hiên ngang của người tù Thiếu Tá Võ Ðằng Phương TQLC, tiến đến chiếc xe bịt bùng đang chờ sẵn, hiên ngang, ngạo nghễ, ngẩng cao đầu thách thức đầy niềm hãnh diện tự hào, một gương can đảm đầy tiết tháo của Người Chiến Sĩ QLVNCH.
Ðây chỉ là khoảng thời gian khởi đầu cho quãng đường dài của cuộc đời tù tội. Cuộc đấu tranh vì chính nghĩa của người tù vẫn còn tiếp diễn vì “nơi nào còn áp bức là nơi đó có đấu tranh.”
Còn nhiều điều đáng viết thêm mà một trí nhớ hạn hẹp không đủ để nhớ hết về sự hy sinh cao cả và lòng dũng cảm của người chiến sĩ VNCH. Xin tri ân những bà mẹ, người vợ, người anh, người chị, người em, người con đã vất vả gian lao tần tảo để giúp cho người tù còn có được ngày hôm nay, trong “Ngày Hội Trại Tù Ái Tử-Bình Ðiền.
No comments:
Post a Comment