Robert D. Kaplan
The Center for a New American Security
U. S. Defense Department’s Defense Policy Board
Chiến Trường Xác Định Của Thế Kỷ Thứ 21 Sẽ Diễn Ra Trên Mặt Nước
Ngô Bắc dịch
***
Lời Người Dịch:
Dưới đây là bản dịch bài nghiên cứu mới nhất về tình hình Biển Đông được đăng tải trên chuyên sanForeign Policy tại Hoa Kỳ, số Tháng 9/Tháng 10, 2011 của tác giả Robert D. Kaplan, một thành viên của Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.
Bài viết có một số sai lầm về kỹ thuật như nói tàu ngầm mà Việt Nam đặt mua của Nga loại Kilo-class là tối tân nhât (thực ra đó là loại tàu chạy bằng diesel) hay trong một số nhận định về chiến thuật như nói chiến tranh trên biển không có các nạn nhân dân sự. Trong trường hợp Trung Hoa đổ bộ lên Đài Loan, một trong hai khả tính của chiến tranh trong vùng không thể loại bỏ, sự tổn thất của thường dân chắc chắn không phải là ít. Ngay trước mắt, ngư dân Việt Nam đang là các nạn nhân vô tội trước các hành vi chém giết, bắt giữ đòi tiền chuộc, cướp bóc các tàu đánh cá và các ngư cụ, kể cả các hải sản đánh bắt được trên ngư trường cổ truyền của Việt Nam bởi các lực lượng hải quân Trung Hoa, các kẻ đã hành động không khác các toán hải tặc phi pháp. Về mặt chiến lược, quan điểm của tác giả cũng có nhiều điểm không phù hợp với cái nhìn của người lãnh đạo ngành ngoại giao Hoa Kỳ đương thời.
Tuy thế, điểm nổi bật nhất, gần sát với thực tế chính trị và quân sự hiện nay tại Đông Nam Á là nhận định sắc bén của tác giả về chiến lược của Trung Hoa như sau:
“Kẻ mạnh làm những gì họ có thể làm được và người yếu gánh chịu những gì họ phải gánh chịu”, Trong câu chuyện tái diễn của thế kỷ thứ 21, với Trung Hoa trong vai trò của Athens như một cường lực hải quân cấp vùng trội bật, kẻ yếu sẽ vẫn bị khuất phục – nhưng sự thực là thế dó. Đây sẽ là chiến lược không được nói ra của Trung Hoa, và các nước nhỏ hơn của Đông Nam Á rất có thể kết đoàn với Hoa Kỳ để né tránh số phận người dân đảo Melos.
Điều không may là Việt Nam ở gần Trung Hoa nhất, và đang là kẻ phải gánh chịu các sự “dọa nạt” thô bạo nhất của Trung Hoa. Mặt khác, nhiều phần cũng là do sự lựa chọn về chính trị của nhà đương quyền Việt Nam. Điều khác nữa cần nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện cũng là kẻ nghèo nhất, về mặt kinh tế, trong các nước tham dự vào cuộc chơi. “Người yếu và nghèo nhất chịu đựng những gì họ phải gánh chịu”, nhưng liệu Việt Nam sẽ phải chịu đựng đến đâu? Câu trả lời dễ dàng là đến mức không thể chịu đựng được và khi đó sẽ xảy ra những gì là điều ai cũng sẽ nhìn thấy và hiểu rõ. Đối sách ngoại giao bao giờ cũng phản ảnh sức mạnh nội tại, và Việt Nam hơn bao giờ hết cần có một sự đồng thuận của mọi người dân với chính quyền. Đây là một vấn đề trọng đại mà dân tộc Việt Nam phải tìm ra giải pháp để đối phó với nhiều nguy cơ đang gặp phải, trong việc duy trì nền độc lập quý báu của mình.
*****
Âu châu là một cảnh trí đất liền; Đông Á là một cảnh biển. Nơi đó ẩn dấu sự khác biệt giữa thế kỷ thứ 20 và 21. Các khu vực tranh chấp nhiều nhất trên địa cầu trong thế kỷ qua nằm nơi vùng đất khô ở Âu Châu, đặc biệt tại mặt phẳng trải dài khiến cho các biên giới phía đông và phía tây của Đức Quốc có tinh chất giả tạo và phơi bày ra cho cuộc tiến bước khốc liệt của các đạo quân. Nhưng trải qua nhiều thập niên, trục dân số và kinh tế của Trái Đất đã chuyển hướng một cách đáng kể sang đối cực của vùng Âu-Á (Eurasia), nơi mà các khoảng cách giữa các trung tâm dân số quan trọng là mặt biển mênh mông.
Bởi vì cách thức mà địa dư minh chứng và đặt định các ưu tiên, các đường vẽ cao độ của địa hình của Đông Á báo trước một thế kỷ hải quân – hải quân ở đây được định nghĩa theo nghĩa rộng bao gồm cả các đội hình giao chiến hải và không quân hiện nay mà chúng đang ngày càng trở nên rối beng. Tại sao? Trung Hoa, nước mà đặc biệt hiện nay với các biên giới đất liền an toàn hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ thời cực thịnh của nhà Thanh vào cuối thế kỷ thứ 18, đang tham gia vào một sự bành trướng hải quân không thể phủ nhận được. Chính xuyên qua hải lực mà Trung Hoa sẽ xóa bỏ, về mặt tâm lý, hai thế kỷ của các sự xâm phạm ngoại quốc trên lãnh thổ của nó – buộc mọi quốc gia quanh nó phải phản ứng.
Các sự giao chiến quân sự trên đất liền và trên biển vô cùng khác biệt, với các hàm ý quan trọng cho các đại chiến lược cần có để chiến thắng – hay né tránh – chúng. Các sự giao tranh trên đất liền bủa lưới trên dân số dân sự, trong thực tế khiến cho các nhân quyền trở thành một phần tử chỉ dấu của các sự nghiên cứu về chiến tranh. Các cuộc giao tranh trên biển hướng tới sự tranh chấp như một sự vụ dính dáng đến kỹ thuật và khách quan, trong thực tế giảm thiểu chiến tranh xuống thành phép tính số học, tương phản rõ rệt với các trận đánh tri thức đã góp phần định nghĩa các cuộc xung đột trước đây.
Thế Chiến II là một cuộc đấu tranh đạo lý chống lại chủ nghĩa phát xít, ý thức hệ chịu trách nhiệm về sự tàn sát hàng chục triệu người không phải là chiến sĩ. Chiến Tranh Lạnh là một cuộc đấu tranh đạo lý chống lại chủ nghĩa cộng sản, một ý thức hệ áp bức không kém mà dưới nó các lãnh thổ bao la chiếm giữ bởi Hồng Quân bị thống trị. Thời kỳ ngay sau Chiến Tranh Lạnh đã trở thành một cuộc đấu tranh đạo lý chống lại sự diệt chủng tại vùng Balkans và Trung Phi Châu, hai địa điểm nơi mà chiến tranh trên đất liền và các tội ác chống lại nhân loại không thể bị tách rời. Gần đây hơn, một cuộc đấu tranh đạo lý chống lại phe Hồi Giáo cực đoan đã lôi kéo Hoa Kỳ tiến sâu vào các pạhm vi núi đồi của Á Phú Hãn, nơi mà sự đối xử nhân đạo đối với hàng triệu thường dân có tính chất thiết yếu cho sự thành công của cuộc chiến. Trong tất cả các nỗ lực này, chiến tranh và chính sách ngoại giao đã trở thành các đề tài không chỉ dành cho các quân nhân và các nhà ngoại giao, mà còn cho các người theo chủ nghĩa nhân bản và các nhà trí thức. Trong thực tế, cuộc chiến chống nổi dậy đại biểu cho cực điểm của các loại hợp nhất giữa các sĩ quan mang quân phục và các chuyên viên về nhân quyền. Đây là kết cuộc của chiến tranh trên đất liền tiến hóa thành chiến tranh toàn diện trong thời hiện đại.
Đông Á, hay chính xác hơn Miền Tây Thái Bình Dương, đang mau chóng trở thành trung tâm mới của hoạt động hải quân của thế giới, báo trước một động lực khác biệt tự nền tảng. Nhiều phần nó sẽ tạo ra tương đối ít hơn các nghịch lý về đạo lý thuộc loại mà chúng ta quen thuộc trong thế kỷ thứ 20 và đầu thế kỷ 21, với khả tính xa xôi về chiến tranh trên đất liền ở Bán Đảo Triều Tiên như ngoại lệ nổi bật. Miền Tây Thái Bình Dương sẽ hoàn trả các công việc quân sự về lãnh địa chật hẹp của các chuyên viên quốc phòng. Điều này xảy ra không chỉ bởi vì chúng ta đang đối đầu với một lãnh hải hải quân, trong đó các thường dân không có hiện diện [sic]. Nó còn bởi bản chất của chính các quốc gia ở Đông Á, các nước, giống như Trung Hoa, có thể độc tài mạnh mẽ nhưng trong phần lớn trường hợp, không tàn bạo hay vô nhân đạo nặng nề.
Cuộc đấu tranh giành quyền thống trị tại Miền Tây Thái Bình Dương sẽ không nhất thiết liên can sự giao tranh; phần lớn những gì xẩy đến sẽ diễn ra một cách lặng lẽ và tại chân trời của không gian biển trống trải, với một nhịp độ rét buốt phù hợp với sự thích ứng chậm chạp, liên tục với quyền lực quân sự và kinh tế ưu việt mà các quốc gia đã tạo lập trong suốt dòng lịch sử. Chiến tranh còn lâu mới là chuyện tất yếu ngay dù sự tranh đua là một điều sẽ xảy ra. Và ngay dù Trung Hoa và Hoa Kỳ có tìm cách kín đáo chuyển trái banh sắp tới cho đồng đội một cách thành công, Á Châu, và thế giới, sẽ là một nơi chốn an toàn hơn, thịnh vượng hơn. Còn điều gì hợp đạo lý hơn thế? Nên nhớ: Chính chủ nghĩa thực tế trong sự phục vụ quyền lợi quốc gia – với mục tiêu là né tránh chiến tranh – đã cứu vớt các sinh mạng trong suốt chiều dài của lịch sử hơn là chính sách can thiệp vì lý do nhân đạo (humanitarian interventionism).
Đông Á là một dải biển bao la mở toác ra, kéo dài gần như từ Bắc Cực xuống Nam Cực -- từ các đảo Kuril chạy xuống phía nam tới Tân Tây Lan – và được đặc trưng bởi một sự dàn trải đứt đoạn của các bờ biển biệt lập và các quần đảo vươn xa. Ngay dù nhờ ở kỹ thuật đã thu ngắn khoảng cách một cách mạnh mẽ ra sao, biển tự thân vẫn hành động như một rào cản trước sự xâm lược, ít nhất với mức độ mà mặt đất khô ráo không làm được. Biển, không giống như đất liền, tạo ra các biên giới được xác định rõ ràng, mang lại cho nó tiềm năng làm sút giảm sự xung đột. Sau đó phải suy tính về tốc độ. Ngay các tàu chiến nhanh nhất di hành tương đối chậm chạp, thí dụ, 35 hải lý, làm giảm bớt rủi ro của các sự ước tính sai lầm và mang lại cho các nhà ngoại giao nhiều giờ, ngay cả nhiều ngày – hơn để tái cứu xét các quyết định. Các hải quân và không lực không chiếm cứ đất đai theo cách mà lục quân làm. Chính bởi các biển bao quanh Đông Á – trung tâm của sự sản xuất toàn cầu cũng như các sự mua sắm quân sự gia tăng – mà thế kỷ thứ 21 có một cơ may tốt hơn thế kỷ thứ 20 để né tránh các trận đại hỏa thiêu quân sự.
Dĩ nhiên, Đông Á đã chứng kiến nhiều cuộc đại hỏa thiêu quân sự trong thế kỷ thứ 20, trong đó biển cả đã không ngăn trở: Chiến Tranh Nga-Nhật; gần nửa thế kỷ nội chiến tại Trung Hoa xảy đến với sự sụp đổ từ từ của triều đại nhà Thanh; nhiều cuộc chinh phục khác nhau của đế triều Nhật Bản, tiếp nối bởi Thế Chiến II tại Thái Bình Dương; các cuộc chiến tranh tại Căm Bốt và Lào; và hai cuộc chiến tại Việt Nam liên can với người Pháp và người Hoa Kỳ. Sự kiện rằng địa dư của Đông Á chính yếu là hải dương đã có ít tác động trên các cuộc chiến tranh như thế, mà tại lõi cốt của chúng là các cuộc xung đột để củng cố hay giải phóng dân tộc. (Xem thêm Phụ Lục 1). Nhưng thời đại đó phần lớn nằm lại sau lưng chúng ta. Các quân đội Đông Á, thay vì hướng nhìn vào trong với các lục quân với kỹ thuật thấp, lại đang hướng ngoại với các hải quân và không lực có công nghệ cao.
Thật là một điều sai lầm trong sự so sánh giữa Trung Hoa ngày nay và Đức Quốc lúc khởi đầu Thế Chiến I như nhiều người đưa ra: bởi vì Đức Quốc chính yếu đã là một cường lực trên đất liền, do địa dư của Âu Châu, Trung Hoa chính yếu sẽ là một cường lực hải quân, do địa dư của Đông Á.
Đông Á có thể chia làm hai khu vực tổng quát: Đông Bắc Á Châu, chế ngự bởi Bán Đảo Hàn Quốc, và Đông Nam Á Châu, chế ngự bởi Biển Nam Hải (South China Sea) [sic]. Đông Bắc Á Châu đặt mấu chốt trên số phận của Bắc Hàn, một quốc gia biệt lập, toàn tài với các vĩên ảnh u tối trong một thế giới được chi phối bởi chủ nghĩa tư bản và truyền thông điện tử. Giả sử Bắc Hàn có vỡ tung, các lực lượng trên đất liền của Trung Hoa, Hoa Kỳ và Nam Hàn có thể hội ngộ tại phần nửa phía bắc bán đảo nhân danh mọi sự can thiệp vì nhân đạo, ngay cả lúc họ cắt xén các khu vực ảnh hưởng cho chính mình. Các vấn đề hải quân là thứ yếu. Nhưng một sự tái thống nhất chung cuộc của Hàn Quốc sẽ mau chóng đặt vấn đề hải quân lên hàng đầu, với một Đại Hàn to lớn hơn, Trung Hoa và Nhật Bản trong thế quân bằng mong manh, bị ngăn cách bởi Biển Nhật Bản và các Biển Hoàng Hải (Yellow) và Bột Hải (Bohai). Song bởi Bắc Hàn vẫn còn hiện hữu, giai đoạn Chiến Tranh Lạnh của Đông Bắc Á Châu vẫn chưa hoàn toàn qua đi, và sức mạnh trên đất liền rất có thể vẫn chế ngự tin tức ở đó trước khi hải lực sẽ thống trị.
Ngược lại, Đông Nam Á đang sẵn dấn sâu vào giai đoạn hậu Chiến Tranh Lạnh của lịch sử. Việt Nam, nước khống chế bờ biển phía tây của Biển Nam Hải, là một cỗ xe tư bản chủ nghĩa cuồng nhiệt bất kể hệ thống chính trị của nó, đang tìm kiếm các ràng buộc quân sự chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ. Trung Hoa, được củng cố như một quốc gia triều đại bởi Mao Trạch Đông sau nhiều thập niên xáo trộn và được biến thành một nền kinh tế năng động nhất của thế giới nhờ các sự cởi trói của Đặng Tiểu Bình, đang dấn bước ra bên ngoài với hải quân của nó đến phần nó gọi là “chuỗi hòn đảo thứ nhât” tại Miền Tây Thái Bình Dương. Nước Hồi Giáo cồng kềnh Nam Dương, đã phải chịu đựng và chấm dứt nhiều thập niên của chế độ quân sự, sẵn sàng xuất hiện như một Ấn Độ thứ nhì: một nền dân chủ sinh động và ổn định với tiềm năng phóng chiếu sức mạnh xuyên qua nền kinh tế đang tăng trưởng của nó. Singapore và Mã Lai cũng đang vươn lên về mặt kinh tế, với sự tận tụy cho mô hình thành-phố-quốc-gia-cùng-với-quốc-gia-mậu-dich và xuyên qua các sự trộn lẫn khác nhau giữa dân chủ và toàn tài. Bức tranh ghép lại là bức tranh của một bầy các quốc gia mà, với các vấn đề về tính đại diện chính đáng trong nội bộ và xây dựng quốc gia đàng sau chúng, đang sẵn sàng để đẩy xa các quyền lãnh thổ được nhận thức bởi chúng, bên ngoài bờ biển của chính mình. Sự đổ xô tập thể ra bên ngoài này tọa lạc tại phòng dẫn đầu dân số của địa cầu, bởi chính tại Đông Nam Á, với dân số 615 triệu người của nó, là nơi mà 1.3 tỷ người của Trung Hoa hội tụ với 1.5 tỷ người của tiểu lục địa Ấn Độ. Và nơi chốn gặp mặt địa dư của các nước này, và quân đội của chúng, ở trên mặt biển: Biển Nam Hải.
Biển Nam Hải nối liền các quốc gia Đông Nam Á với Tây Thái Bình Dương, hoạt động như yết hầu của các hải lộ toàn cầu. Nơi đây là trung tâm của hải hành Âu-Á, được chấm định bởi các eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Hơn nửa trọng tải đoàn thuyền thương mại hàng năm của thế giới đi ngang qua các điểm chốt này, và một phần ba của toàn thể lượng lưu thông hàng hải. Nhiên liệu chuyên chở xuyên qua eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, trên đường sang Đông Á xuyên qua Biển Nam Hải, gấp sáu lần số lượng đi ngang qua Kênh Đào Suez và 17 lần số lượng chở ngang qua Kênh Đào Panama. Khoảng gần hai phần ba số cung cấp năng lượng của Nam Hàn, gần 60 phần trăm số cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, và khoảng 80 phần trăm số nhập cảng dầu thô của Trung Hoa đi ngang qua Biển Nam Hải. Hơn nữa, Biển Nam Hải có số dự trữ dầu được chứng thực là 7 tỷ barrels và một số ước lượng 900 nghìn tỷ bộ khối (trillion cubic feet) hơi đốt thiên nhiên, một phần thưởng có tiềm năng khổng lồ. (Xem Phụ Lục 2)
Không phải chỉ có vị trí và các trữ lượng năng lượng hứa hẹn giao cho Biển Nam Hải tầm quan trọng địa chiến lược trọng yếu, mà còn bởi các cuộc tranh cãi lãnh hải lạnh lùng từ lâu đã bao quanh các hải phận này. Nhiều cuộc tranh cãi liên quan đến Quần Đảo Trường Sa (Spratly Islands), một tiểu quần đảo tại phần đông nam Biển Nam Hải. Việt Nam, Đài Loan, và Trung Hoa, mỗi nước đều tuyên xác toàn thể hay phần lớn Biển Nam Hải, cũng như tất cả các nhóm đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt, Bắc Kinh khẳng định một ranh giới lịch sử: Nó đưa ra lời tuyên xác trên trái tim của Biển Nam Hải trong một đường vòng rộng lớn (thường được gọi là “lưỡi bò”) từ Đảo Hải Nam của Trung Hoa tại cực bắc của Biển Nam Hải chạy suốt xuống phía nam 1200 dậm cho đến gần Singapore và Mã Lai.
Kết quả là tất cả chín nước giáp ranh với Biển Nam Hải đều ít nhiều sắp hàng chống lại Trung Hoa và vì thế tùy thuộc vào Hoa Kỳ để có sự hậu thuẫn ngoại giao và quân sự. Các sự tuyên xác mâu thuẫn này nhiều phần càng trở nên nhức nhối hơn khi các nhu cầu năng lượng xoắc trôn ốc của Á Châu – số tiêu thụ năng lượng được ước định tăng gấp đôi vào năm 2030, với Trung Hoa chiếm phân nửa số tăng trưởng đó – làm cho Biển Nam Hải trở thành trung tâm bảo đảm hơn bao giờ hết cho sức mạnh kinh tế của vùng. Biển Nam Hải đã sẵn trở thành ngày một nhiều hơn một khu vực vũ trang, khi các nước tuyên xác củng cố và và canh tân hóa hải quân của chúng, ngay dù khi sự chen lấn để giành giựt các hòn đảo và san hô trong các thập niên gần đây hầu như đã trôi qua. Trung Hoa đến giờ chiếm đoạt 12 địa điểm địa dư, Đài Loan 1, Việt Nam 25, Phi Luật Tân 8, và Mã Lai 5.
Hình 3: Các chiến đâu cơ Hoa Kỳ trên sàn bay của Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington, đậu tại Bến Tàu Victoria Harbour, Hồng Kông, ngày 29 Tháng 10, 2009
Chính địa dư của Trung Hoa hướng nó hướng xuống Biển Nam Hải. Trung Hoa nhìn xuống phía nam hướng vào một lãnh hải vòng tròn được tạo thành, theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Phi Luật Tân, đảo Borneo được phân chia giữa Mã Lai và Nam Dương (cũng như vương quốc tí hon Brunei), Bán Đảo Mã Lai được phân chia giữa Mã Lai và Thái Lan, và bờ biển dài uốn lượn của Việt nam: tất cả đều là các quốc gia yếu, so với Trung Hoa. Giống như Biển Caribbean, được chấm họa bởi các quốc gia hải đảo nhỏ bé và bao trùm bởi một Hoa Kỳ với kích thước lục địa, Biển Nam Hải là một diễn trường hiển nhiên cho sự phóng chiếu quyền lực của Trung Hoa.
Trong thực tế, vị thế của Trung Hoa ở đây trong nhiều phương diện tương tự như vị thế của Hoa Kỳ đối với biển Caribbean có kích thước tương tự trong thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Hoa Kỳ thừa nhận sự hiện diện và các tuyên xác của các cường quốc Âu Châu tại vùng biển Caribbean, tuy thế đã tìm cách khống chế vùng này. Chính cuộc Chiến Tranh Tây Ban Nha - Hoa Kỳ năm 1898 và việc đào Kênh Đào Panama từ năm 1904 đến 1914 đã tượng trưng cho sự xuất hiện của Hoa Kỳ như một quyền lực thế giới. Hơn nữa, sự khống chế Lưu Vực Caribbean rộng lớn hơn đã mang lại cho Hoa Kỳ sự kiểm soát hữu hiệu Tây Bán Cầu, điều kế đó cho phép nó ảnh hưởng đến cán cân quyền lực tại Đông Bán Cầu. Và ngày nay Trung Hoa tự nhận thấy mình ở vào một tình trạng tương tự tại Biển Nam Hải, một tiền sảnh của Ấn Độ Dương, nơi mà Trung Hoa cũng mong muốn một sự hiện diện hải quân để bảo vệ các sự cung cấp năng lượng từ Trung Đông cho Trung Hoa.
Song một điều gì đó sâu xa hơn và nhiều xúc cảm hơn địa dư thúc đẩy Trung Hoa hướng vào Biển Nam Hải và vươn ra Thái Bình Dương: điều đó là sự chia cắt một phần chính Trung Hoa bởi các cường quốc Tây Phương trong quá khứ tương đối gần đây, sau khi trong cả nghìn năm là một đại cường và văn minh thế giới.
Trong thế kỷ thứ 19, khi triều đại nhà Thanh trở thành kẻ ốm yếu của Đông Á, Trung Hoa mất nhiều đất đai của nó cho Anh Quốc, Pháp, Nhật Bản, và Nga. Trong thế kỷ thứ 20 diễn ra các sự chiếm đoạt đẫm máu của Nhật Bản tại Bán Đảo Sơn Đông và Mãn Châu. Điều này xảy ra trên đỉnh các sự sỉ nhục áp đặt trên Trung Hoa bởi các hiệp ước trị ngoại tài phán của thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20, theo đó các nước Tây Phương giật lấy sự kiểm soát các phần của các thành phố Trung Hoa – cái được gọi là “các hải cảng theo hiệp định” (treaty ports). Vào năm 1938, khi sử gia Đại Học Yale University, ông Jonathan D. Spence, cho chúng ta hay trong quyển The Search for Modern China, bởi vì các sự cướp bóc này cũng như bởi Cuộc Nội Chiến Trung Hoa, có cả một nỗi lo sợ tiềm ẩn rằng “Trung Hoa đã sắp bị chia cắt, rằng nó sẽ thôi không còn hiện hữu như một quốc gia nữa, và rằng bốn nghìn năm lịch sử được ghi chép của nó sẽ đi đến một hồi kết cuộc lung lay”. Sự thúc dục để bành trướng của Trung Hoa là một bản tuyên cáo rằng nó không bao giờ lại có ý định để người ngoại quốc lợi dụng nó một lần nữa. (a*)
Giống y như lãnh thổ của Đức cấu thành tiền tuyến quân sự của Cuộc Chiến Tranh Lạnh, các hải phận của Biển Nam Hải có thể tạo thành tiền tuyến quân sự của các thập niên sắp tới. Bởi vì hải quân Trung Hoa trở nên mạnh hơn và bởi vì sự tuyên xác của Trung Hoa tại Biển Nam Hải đối nghịch với các tuyên xác của các quốc gia ven biển khác, các cuộc gia khác này sẽ bị bắt buộc phải phát triển hơn nữa các năng lực hải quân của họ. Họ cũng sẽ đối cân chống lại Trung Hoa bằng cách dựa nhiều hơn vào Hải Quân Hoa Kỳ, kẻ có sức mạnh có lẽ lên đến đỉnh cao một cách tương đối, ngay dù nó phải chuyển hướng các tài nguyên đáng kể sang Trung Đông. Thế đa cực toàn cầu sẵn là một đặc tính của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển Nam Hải có thể phơi bày cho chúng ta thấy điều gì mà một tình trạng đa cực theo ý nghĩa quân sự thực sự hiện hình như thế nào.
Không có gì lãng mạn về mặt trận mới này, không như tình trạng của các cuộc đấu tranh đạo lý. Trong các cuộc xung đột hải quân, trừ khi có việc pháo kích lên bờ, không có bản thân các nạn nhân [sic]; cũng không có một địch thủ tư tưởng để đối đầu. Không có gì trong khía cạnh diệt trừ chủng tộc có xác xuất sẽ xảy ra trong diễn trường trung tâm mới này của sự xung đột. Trung Hoa, cho dù có các kẻ bất đồng ý kiến chịu đau khổ, đơn giản chưa bị đánh giá như một đối tượng đáng cho sự thịnh nộ về đạo đức. Chế độ Trung Hoa chỉ biểu lộ một phiên bản toàn tài ở liều lượng thấp, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và ý thức hệ chi phối ít được nói đến. Hơn nữa, Trung Hoa nhiều phần trở nên cởi mở hơn là khép kín như là một xã hội trong những năm sắp tới. Thay vì chủ nghĩa phát xít hay quân phiệt [sic], Trung Hoa, cùng với các quốc gia khác tại Đông Á, ngày càng được xác định bởi sự kiên quyết của chủ nghĩa dân tộc cổ điển: một tư tưởng, chắc chắn như thế, nhưng không phải là thứ mà từ giữa thế kỷ thứ 19 có tính cách hấp dẫn đối với giới trí thức. Và ngay dù Trung Hoa có trở nên dân chủ nhiều hơn, dân tộc chủ nghĩa của nó nhiều phần chỉ có tăng trưởng, như ngay một cuộc điều nghiên ngẫu nhiên quan điểm của các cư dân trên mạng tương đối tự đo của nó cho thấy rõ ràng.
Chúng ta thường nghĩ về dân chủ chủ nghĩa như một cảm tính phản động, một tàn tích của thế kỷ thứ 19. Song chính dân tộc chủ nghĩa cổ truyền lèo lái chính yếu chính trị tại Á Châu, và sẽ tiếp tục làm như thế. Dân tộc chủ nghĩa đó đang dẫn dắt một cách không biện giải đến một sự tăng cường quân sự trong vùng – đặc biệt hải quân và không quân – để phòng vệ chủ quyền và đưa ra các sự tuyên xác về các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị tranh cãi. Không có sự cám dỗ về triết lý tại đây. Tất cả đều là về sự lý luận lạnh lùng trên cán cân quyền lực. Một chủ nghĩa hiện thực vô cảm xúc ở mức độ đó, liên minh với dân tộc chủ nghĩa, có một đất đứng trong địa dư, đó là Biển Nam Hải.
Bất kỳ thảm kịch đạo lý nào xảy ra tại Đông Á chính vì thế sẽ mang hình thức của chính trị quyền lực khắc nghiệt thuộc vào loại khiến cho các nhà trí thức và các ký giả bị tê cóng. Như Thucydides [sử gia Hy Lạp, vào khoảng 460 – 400 Trước Thiên Chúa, chú của người dịch] đã tóm tắt nó một cách đáng nhớ biết bao trong câu chuyện của ông về sự chinh phục của Athens [tức Nhã Điển, thủ đô Hy Lạp ngày nay, chú của người dịch] đối với đảo Melos (b*) “Kẻ mạnh làm những gì họ có thể làm được và người yếu gánh chịu những gì họ phải gánh chịu”, Trong câu chuyện tái diễn của thế kỷ thứ 21, với Trung Hoa trong vai trò của Athens như một cường lực hải quân cấp vùng trội bật, kẻ yếu sẽ vẫn bị khuất phục – nhưng sự thực là thế dó. Đây sẽ là chiến lược không được nói ra của Trung Hoa, và các nước nhỏ hơn của Đông Nam Á rất có thể kết đoàn với Hoa Kỳ để né tránh số phận người dân đảo Melos (in đậm để làm nổi bật bởi người dịch)]. Nhưng sẽ không có sự tàn sát.
Biển Nam Hải dự báo một hình thức khác biệt của sự xung đột với các hình thức khác mà chúng ta đã trở nên quen thuộc. Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, chúng ta đã bị chấn thương một mặt bởi các sự giao chiến trên đất liền ồ ạt, theo quy ước, và mặt khác, các cuộc chiến tranh nhỏ, phi quy ước, bẩn thỉu. Bởi vì cả hai loại chiến tranh đã gây ra các sự tổn thất thường dân lớn lao, chiến tranh đã là một đề tài cho các nhà nhân bản cũng như cho các tướng lĩnh. Nhưng trong tương lai, chúng ta có thể chỉ nhìn thấy một hình thức tinh khiết hơn của sự xung đột, giới hạn trong phạm vi hải quân. Đây là một kịch bản tích cực. Sự xung đột không thể bị loại bỏ ra khỏi thân phận con người nói chung. Một chủ đề trong quyển Discourses on Livy của Machiavelli cho rằng sự xung đột, khi được kiểm soát một cách thích hợp, nhiều phần dẫn tới sự tiến bộ của loài người hơn là sự ổn định cứng ngắc. Một biển cả đông đúc các tàu chiến không trái nghịch với một kỷ nguyên của triển vọng lớn lao cho Á Châu. Sự bất an thường nuôi dưỡng tính năng động.
Nhưng liệu sự xung đột tại Biển Nam Hải có thể được kiểm soát một cách thích hợp hay không? Lập luận của tôi đến giờ đặt giả thiết rằng cuộc chiến tranh lớn sẽ không bùng nổ trong khu vực và thay vào đó các nước sẽ bằng lòng với việc mưu tính giành vị trí với các tàu chiến của họ trên biển cả, trong khi đưa ra các sự tuyên xác tranh giành các tài nguyên thiên nhiên và có thể ngay cả việc đồng ý về một sự phân chia công bằng các tài nguyên này. Nhưng nếu Trung Hoa, ngược lại với mọi chiều hướng đã được chứng minh, lại sẽ xâm lăng Đài Loan thì sao? Những gì sẽ xảy ra nếu Trung Hoa và Việt Nam, kẻ mà sự ganh đua gắt gao trở lùi ngược mãi xa trong lịch sử, đi đến chiến tranh như họ đã từng đụng độ trong năm 1979, với vũ khí chết người hơn lần này? Bởi không chỉ có Trung Hoa là đang xây dựng một cách mạnh mẽ quân đội của nó; các nước Đông Nam Á cũng làm như thế. Các ngân sách quốc phòng của họ đã gia tăng vào khoảng một phần ba trong thập niên qua, ngay khi các ngân sách quốc phòng Âu Châu đang sụt giảm. Số nhập cảng vũ khí của Nam Dương, Tân Gia Ba, và Mã Lai lần lượt đã gia tăng 84%, 146% và 722% kể từ năm 2000. Số chi tiêu nằm trong các lãnh vực hải quân và không quân: các tàu chiến trên mặt biển, các tàu ngầm với các hệ thống hỏa tiễn tân tiến, và các phi cơ chiến đấu tầm xa. Việt Nam gần đây đã chi tiêu 2 tỷ có 6 chiếc tàu ngầm tối tân [sic] loại Kilo-class của Nga và 1 tỷ mỹ kim cho các chiến đấu cơ của Nga. Mã Lai vừa mở một căn cứ tàu ngầm trên đảo Borneo. Trong khi Hoa Kỳ bị rối trí bởi các cuộc chiến tranh trên đất liền tại vùng Trung Đông rộng lớn hơn, quyền lực quân sự đã bị chuyển hướng một cách lặng lẽ từ Âu Châu sang Á Châu.
Hình 4: Lính hải quân Việt Nam tuần tiễu trên đảo Phan Vinh [?], quần đảo Trường Sa, vào ngày 13 Tháng Sáu, 2011, trong các cuộc thao diễn bắn đạn thật, một hành động bị xem là khiêu khích bởi Bắc Kinh
Hoa Kỳ hiện nay đang bảo đảm cho nguyên trạng gay go tại Biển Nam Hải, giới hạn sự xâm lăng của Trung Hoa chính yếu vào bản đồ địa dư của nó và phục vụ như một kẻ kiểm tra các nhà ngoại giao và hải quân Trung Hoa (mặc dù điều này không có nói rằng Hoa Kỳ thì thuần khiết trong các hành động của mình và Trung Hoa nhất thiết là quân bất lương). Những gì mà Hoa Kỳ mang cho các nước thuộc vùng Biển Nam Hải là ít vấn đề về hiệu năng dân chủ của nó hơn so với sự kiện về sức mạnh sống sượng của nó. Chính sự cân bằng quyền lực giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa sau hết đã giữ cho Việt Nam, Đài Loan, Phi Luật Tân, Nam Dương, Tân Gia Ba, và Mã Lai được tự do, có khả năng vận dụng một đại cường này để đối trọng với đại cường kia. Và trong khoảng không gian tự do đó, chủ nghĩa cấp vùng có thể xuất hiện như một sức mạnh tự tại của chính nó, dưới hình thức Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations: ASEAN). Song, tự do như thế không thể được xem là đương nhiên mà có. Bởi sự cân bằng căng thẳng, đang có giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa – dàn trải một sự bài trí phức tạp đủ mọi loại các vấn đề từ mậu dịch cho đến cải cách tiền tệ, đến sự an ninh của mạng lưới điện toán, đến sự canh chừng hoạt động tình báo – sau rốt đe dọa làm nghiêng cán cân thuận lợi cho Trung Hoa tại Đông Á, phần lớn là vì do tính trung tâm địa dư của Trung Hoa đối với vùng này.
Sự tóm tắt bao quát nhất cho cảnh trí địa chính trị mới của Á Châu đã không đến từ Hoa Thịnh Đốn hay Bắc Kinh, mà đến từ Canberra. Trong một bài viết dài 74 trang ấn hành năm ngoái, nhan đề “Power Shift: Australia’s Future Betwwen Washington and Beijing” (Sự Chuyển Biến Quyền Lực: Tương Lai Của Úc Đại Lợi Giữa Hoa Thịnh Đốn Và Bắc Kinh), ông Hugh White, giáo sư về chiến lược học tại Đại Học Quốc Gia Úc Đại Lợi, mô tả xứ sở của ông như quyền lực “nguyên trạng” tinh túy – nước nhất quyết mong muốn tình trạng tại Á Châu vẫn giữ nguyên như hiện trạng, với Trung Hoa tiếp tục tăng trưởng sao cho Úc Đại Lợi có thể mua bán ngày càng nhiều với nó, trong khi Hoa Kỳ vẫn còn là “quyền lực mạnh nhất tại Á Châu”, như thế vẫn còn là “kẻ bảo vệ tối hậu” cho Úc Đại Lợi. Nhưng như tác giả White viết, vấn đề ở chỗ cả hai điều này đều không có thể tiếp diễn mãi. Á Châu không thể tiếp tục thay đổi kinh tế mà không thay đổi về mặt chính trị và chiến lược; một con vật khổng lồ kinh tế Trung Hoa tự nhiên sẽ không bằng lòng với vị thể tối cao về quân sự của Hoa Kỳ tại Á Châu.
Trung Hoa muốn gì? Tác giả White đưa ra định đề rằng Trung Hoa có thể ao ước tại Á Châu loại đế quốc kiểu mới mà Hoa Kỳ đã kiến tạo tại Tây Bán Cầu một khi Hoa Thịnh Đốn đã giành được sự khống chế Lưu Vực Caribbean (như Bắc Kinh hy vọng nó sẽ chế ngự trên Biển Nam Hải). Đế quốc kiểu mới này, theo cách nói của White, có nghĩa các láng giềng của Hoa Kỳ “ít nhiều có tự do điều hành các xứ sở riêng của chúng”, ngay dù Hoa Thịnh Đốn đã nhấn mạnh rằng các quan điểm của nó sẽ phải được “cứu xét đầy đủ” và ưu tiên trước quan điểm của các cường lực bên ngoài. Vấn đề với mô hình này là Nhật Bản, nước có lẽ sẽ không chấp nhận bá quyền của Trung Hoa, dù mềm mỏng đến đâu. Điều đó để lại chỗ cho mô hình Hiệp Thương của Âu Châu, trong đó Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, Hoa Kỳ, và có lẽ một hay hai nước khác sẽ ngồi xuống tại bàn quyền lực Á Châu như các kẻ ngang hàng. Nhưng liệu Hoa Kỳ sẽ chấp nhận một vai trò khiêm tốn như thế hay không, bởi vì nó đã liên kết sự thịnh vượng và ổn định của Á Châu với vị thế tối thượng riêng của nó? Tác giả White nêu ý kiến rằng đối diện với quyền lực Trung Hoa đang lên, sự chế ngự của Hoa Kỳ có thể từ nay có nghĩa sự bất ổn cho Á Châu.
Không ảnh của Không Quân Phi Luật Tân hồi tháng 11, 2003 cho thấy các kiến trúc do Trung Hoa xây dựng trên hòn đảo được đặt đúng tên Mischief Reef (Đảo San Hô Nguy Hại), gần Quần Đảo Trường Sa bị tranh chấp. Cùng lúc, quân đội Phi Luật Tân cũng báo cáo việc trông thấy các tàu khảo sát và tàu chiến của Trung Hoatại chuỗi đảo tranh chấp.
Sự chế ngự của Hoa Kỳ được đặt định trên khái niệm rằng bởi Trung Hoa là nước độc tài trong quốc nội, nó sẽ hành động “một cách không thể chấp nhận được ở hải ngoại”. Nhưng điều đó có thể không như thế, tác giả White lập luận. Ý niệm của Trung Hoa về chính mình là ý niệm về một quyền lực nhân từ, không có tính chất bá quyền, một quyền lực không can thiệp vào các triết lý nội bộ của các quốc gia khác theo cách mà Hoa Kỳ -- với đạo lý tọc mạch của nó – đang làm. Bởi vì Trung Hoa tự nhìn mình là Vương Quốc Trung Tâm, căn bản thống trị của nó là tính trung tâm nội tại cơ hữu của nó đối với lịch sử thế giới, hơn là bất kỳ hệ thống nào mà nó tìm cách xuất cảng.
Nói cách khác, Hoa Kỳ, chứ không phải Trung Hoa, có thể là vấn đề trong tương lai. Chúng ta có thể thực sự để ý quá nhiều về bản chất nội bộ của chế độ Trung Hoa và tìm cách hạn chế quyền lực Trung Hoa ở hải ngoại bởi vì chúng ta không ưa thích các chính sách nội bộ của nó. Thay vào đó, mục tiêu của Hoa Kỳ tại Á Châu phải là sự cân bằng, chứ không phải là sự khống chế. Một cách chính xác, bởi vì quyền lực cứng (hard power) vẫn còn là chìa khóa cho các quan hệ quốc tế nên chúng ta phải dành chỗ cho một Trung Hoa đang lên. Hoa Kỳ không cần gia tăng quyền lực hải quân của nó tại Tây Thái Bình Dương, nhưng nó không thể chịu được việc cắt giảm nó một cách đáng kể.
Sự mất mát một đội tấn công từ hàng không mẫu hạm (aircraft carrier striking group) của Hoa Kỳ tại Tây Thái Bình Dương do các sự cắt giảm ngân sách hay một sự tái bố trí sang Trung Đo6ng có thể gây ra các cuộc thảo luận kịch liệt trong vùng về sự suy giảm của Hoa Kỳ và nhu cầu phát sinh cần thực hiện các tu chỉnh và các vụ thương thảo ngầm với Bắc Kinh. Tình trạng tối hảo là một sự hiện diện hải và không quân Hoa Kỳ ít nhiều ở mức độ hiện tại, ngay cả khi Hoa Kỳ làm mọi điều trong quyền lực của nó để tạo lập các ràng buộc thân thiết và khả dĩ tiên đoán được với Trung Hoa. Bằng cách đó Hoa Kỳ có thể điều chỉnh qua thời gian với một hải quân trên đại dương của Trung Hoa. Trong quốc tế sự vụ, đàng sau mọi vấn đề về đạo lý là các câu hỏi về sức mạnh. Sự can thiệp nhân đạo tại vùng Balkans là khả hữu chỉ bởi chế độ Serbia yếu ớt, khác với chế độ Nga, nước cùng lúc thực hiện các hành vi tàn ác ở mức độ tương tự tại Chechnya mà Tây Phương đã không làm gì cả. Tại Tây Thái Bình Dương trong các thập niên sắp tới, đạo lý có thể có nghĩa từ bỏ một số trong các lý tưởng được ấp ủ nồng nàn nhất của chúng ta để đổi lấy sự ổn định. Chúng ta sẽ dành chỗ cho một nước Trung Hoa bán độc tài (quasi-authoritarian) khi quân đội của nó bành trướng bằng cách nào khác đây? Bản thân cán cân quyền lực, còn nhiều hơn các giá trị dân chủ của phương Tây, thường là sự bảo toàn tốt nhất cho tự do. Điều đó cũng vậy, sẽ là một bài học của Biển Nam Hải trong thế kỷ thứ 21 – một bài học khác nữa mà các kẻ lý tưởng không muốn nghe thấy./-
***
Tác giả, Robert D. Kaplan là nhân viên cao cấp của Trung Tâm Cho Một Nền An Ninh Mới Của Hoa Kỳ (Center for a New American Security), thông tín viên quốc gia cho tạp chí The Atlantic, và thành viên của Hội Đồng Chính Sách Quốc Phòng thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (U. S. Defense Department’s Defense Policy Board). Ông là tác giả của quyển: Monsoon: The Indian Ocean and the Fiture of American Power.
_____
Nguồn: Robert D. Kaplan, The South China Sea Is The Future of Conflict: The 21st century’s defining battleground is going to be on water, Foreign Policy, Sept/Oct 2011, tiếp cận trên liên mạng ngày 15 Tháng Tám, 2011 tại địa chỉ:
*****
PHỤ CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH:
a*: Để có được sự hiểu biết về quan điểm chiên lược của Hoa Kỳ trong đối sách ngoại giao với Trung Hoa, xin đọc bài phỏng vấn của Tạp Chí The Atlantic, số ra ngày 10 tháng 5, 2011, với Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, trong đó Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói rằng “chế độ áp bức của Trung Hoa sau rốt sẽ sụp đổ” …”các nhà lãnh đạo Trung Hoa xem ra lo sợ về các cuộc nổi dậy “Hoa Nhài” tai Phi Châu …. và đang cố gắng chặn bước tiến của lịch sử,…họ đang làm việc chạy rong của kẻ ngu xuẩn”. Xin đọc bài phỏng vấn nơi địa chỉ dưới đây:
b*: Melos: còn viết là Milo hay Milos, một hòn đảo nhỏ diện tích khoảng 51 cây số vuông của Hy Lạp trong vùng Cyclades, tây nam biển Aegean. Pho tượng nổi tiếng Venus de Milo được tìm thấy ở đây trong năm 1820.
*****
PHỤ LỤC CỦA NGƯỜI DICH:
Phụ Lục 1
Bảng 1: Các Cuộc Đụng Độ Quân Sự Tại Biển Nam Hải Từ 1970
Table 1
Military Clashes in the South China Sea* Since 1970
|
Date
|
Countries
|
Military Action
|
1974
|
China, Vietnam
|
China seized the Paracels from Vietnam, with 18 of its troops killed in clashes on one of the islands.
|
1988
|
China, Vietnam
|
Chinese and Vietnamese navies clashed at Johnson Reef in the Spratlys. Several Vietnamese boats were sunk and over 70 sailors killed.
|
1992
|
China, Vietnam
|
Vietnam accused China of landing troops on Da Luc Reef. China seized almost 20 Vietnamese cargo ships transporting goods from Hong Kong from June - September.
|
1994
|
China, Vietnam
|
China and Vietnam had naval confrontations within Vietnam's internationally recognized territorial waters over Vietnam's Tu Chinh oil exploration blocks 133, 134, and 135. Chinese claim the area as part of their Wan' Bei-21 (WAB-21) block.
|
1995
|
China, Philippines
|
China occupied Philippine-claimed Mischief Reef. Philippine military evicted the Chinese in March and destroyed Chinese markers.
|
1995
|
Taiwan, Vietnam
|
Taiwanese artillery fired on a Vietnamese supply ship.
|
1996
|
China, Philippines
|
In January, Chinese vessels engaged in a 90-minute gun battle with a Philippine navy gunboat near the island of Capone, off the west coast of Luzon, north of Manila.
|
1997
|
China, Philippines
|
The Philippine navy ordered a Chinese speedboat and two fishing boats to leave Scarborough Shoal in April; the Philippine navy later removed Chinese markers and raised its flag. China sent three warships to survey the Philippine-occupied islands of Panata and Kota.
|
1998
|
Philippines, Vietnam
|
In January, Vietnamese soldiers fired on a Philippine fishing boat near Tennent (Pigeon) Reef.
|
1999
|
China, Philippines
|
In May, a Chinese fishing boat was sunk in a collision with Philippine warship. In July, another Chinese fishing boat was sunk in a collision with a Philippine warship.
|
1999
|
China, Philippines
|
In May, Chinese warships were accused of harassing a Philippine navy vessel after it ran aground near the Spratlys.
|
1999
|
Philippines, Vietnam
|
In October, Vietnamese troops fired upon a Philippine air force plane on reconnaissance in the Spratlys.
|
1999
|
Malaysia, Philippines
|
In October, Philippine defense sources reported that 2 Malaysian fighter planes and 2 Philippine air force surveillance planes nearly engaged over a Malaysian-occupied reef in the Spratlys. The Malaysian Defense Ministry stated that it was not a stand-off.
|
2000
|
China, Philippines
|
In May, Philippine troops opened fire on Chinese fishermen, killing one and arresting 7.
|
2001
|
China, Philippines
|
During first three months, the Filipino navy boarded 14 Chinese flagged boats, confiscated their catches, and ejected vessels out of contested portions of the Spratlys.
|
2001
|
China, Philippines
|
In March, the Philippines sent a gunboat to Scarborough Shoal to, "to ward off any attempt by China to erect structures on the rock".
|
2002
|
Philippines, Vietnam
|
In August, Vietnamese troops fired warning shots at Filipino military reconnaissance planes circling over the Spratlys.
|
* The South China Sea is defined by the International Hydrographic Organization as the body of water stretching in a Southwest to Northeast direction, whose southern border is 3 degrees South latitude between South Sumatra and Kalimantan (Karimata Straits), and whose northern border is the Strait of Taiwan from the northern tip of Taiwan to the Fujian coast of China.
|
Phụ Lục 2
Bảng 2: Trữ Lượng Dầu và Hơi Đốt Theo Quốc Gia Trong Vùng Đông Nam Á
Table 2
Oil and Gas by Country of the South China Sea Region*
|
Country
|
Proven Oil Reserves (Billion Barrels)
|
Proven Gas Reserves (Trillion Cubic Feet)
|
Oil Production (Thousand Barrels/Day)
|
Gas Production (Billion Cubic Feet/Day)
|
Brunei
|
1.1
|
13.8
|
203.5
|
366
|
Cambodia
|
0
|
0
|
0
|
0
|
China
|
16
|
80
|
3,684.4
|
1,960
|
Indonesia
|
4.37
|
93.9
|
892.5
|
2,613
|
Malaysia
|
4.0
|
83.0
|
750.8
|
2,218
|
Philippines
|
0.14
|
3.5
|
15.2
|
88
|
Singapore
|
0
|
0
|
0
|
0
|
Taiwan
|
<0.01
|
.22
|
1.0
|
28
|
Thailand
|
0.5
|
11.7
|
186.9
|
858
|
Vietnam
|
0.6
|
6.8
|
344.6
|
162
|
Total
|
26.7
|
279.1
|
6,078.9
|
8,293
|
*All data is for the entire country. Note: Neither the Spratlys nor the Paracels have proven reserves. Proved oil and natural gas reserves are as of 1/01/2008. Oil production is a 2006 average. Oil supply includes crude oil, natural gas plant liquids, and other liquids. Natural gas production is a 2006 projection.
|
***
Phụ Lục 3
Bản Đồ 1: Các Tuyên Xác Tranh Giành Tại Vùng Biển Nam Hải
Map 1
Competing Claims in the South China Sea Region
Nguồn: CIA Maps and Publications for the Public
Nam Yết chuyển