Một bài viết rất xúc tích về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Tác giả đã lột trần bộ mặt gian trá cuả đảng cộng sản Hà Nội trước dư luận quốc tế
HoangsaParacels.
Phil Robertson là Phó Giám đốc Ban Á Châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền
Khi
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới thăm Myanmar hồi tháng Tư năm 2010, ông
khẳng định với các nhà lãnh đạo hàng đầu rằng Việt Nam ủng hộ “lộ trình”
dân chủ hóa của
quốc gia này.
Sau đó, ông phát biểu từ ghế chủ tịch đoàn trong lễ bế
mạc Hội nghị Thượng đỉnh thường niên ASEAN lần thứ 16 tại Hà Nội rằng
cuộc bầu cử sắp tới ở Myanmar cần diễn ra một cách “tự do và dân chủ,
với sự tham gia của tất cả các đảng phái.” Lời
phát biểu đó thật sự ấn tượng, nhất là từ miệng nhà lãnh đạo một chính
phủ độc đảng, nơi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) được Hiến pháp quy định
rõ vai trò “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội,” và chính quyền
kiểm soát chặt chẽ mọi cuộc bầu cử.
Nhưng
lời phát biểu trên của ông Dũng không gây được nhiều chú ý, vì nhiều sự
lạ đời và đạo đức giả hơn thế từng được tuyên bố tại các hành lang cũng
như trong các
phòng họp của ASEAN nhiều năm qua. Đa số các quan sát viên cho rằng
Việt Nam chỉ đơn giản là lại hành xử với vai trò lãnh đạo một nhóm trong
ASEAN, được gọi là CLMV (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) đều có
chính quyền độc đoán hà khắc, luôn cùng nhau cố
gắng hạn chế những ý kiến chỉ trích và tìm cách gỡ bỏ rào cản kinh tế
của các đối tác đối thoại của ASEAN, như Úc, Canada, Mỹ và Liên minh
Châu Âu nhằm vào Myanmar.
Chỉ
hơn sáu tháng sau, vào ngày mồng 7 tháng Mười Một năm 2010, Myanmar tổ
chức bầu cử nghị viện, trong đó 25 phần trăm tổng số ghế được dành cho
quân đội. Cuộc bỏ
phiếu này không thể nói là tự do hay công bằng, do đã được dàn xếp
trước để đảm bảo thắng lợi áp đảo của Hiệp hội Liên đoàn Đoàn kết và
Phát triển, một tổ chức chính trị được quân đội hậu thuẫn.
Vào
thời điểm Thủ tướng Dũng đưa ra lời phát biểu nêu trên, Myanmar đang có
bảng thành tích tệ hại – như quân đội nắm chính quyền suốt từ năm 1962,
bà Aung San Suu
Kyi, người được trao giải Nobel Hòa bình đang bị quản chế tại gia, hàng
trăm tù nhân chính trị đang bị giam giữ, các cuộc biểu tình bị đàn áp
dã man, luật pháp hà khắc, các quyền dân sự và chính trị luôn bị đè nén,
khiến quốc gia này trở thành “trường hợp
cá biệt,” thậm chí ngay cả khi so với các nước láng giềng trong khối
ASEAN.
Vì
vậy, ít người có thể hình dung được, chỉ hai năm sau đó, các nhà hoạch
định chính sách và giới báo chí lại phải công khai so sánh Việt Nam với
Myanmar để xem quốc
gia nào đáng bị gọi là quốc gia vi phạm nhân quyền tệ nhất ASEAN – một
biệt danh chẳng ai muốn có. Đương nhiên, đây là một động thái ít nhiều
mang tính chất trò chơi ngoại giao, vì đối với các nạn nhân thì bị vi
phạm nhân quyền, dù ở đâu cũng tệ cả.
Nhưng
khi Myanmar đang hướng tới chiếc ghế chủ tịch ASEAN vào năm 2014, những
người quan tâm về nhân quyền trong khu vực đương nhiên tự vấn rằng liệu
có thể diễn ra
một cuộc đua giữa Myanmar và Việt Nam để tránh làm kẻ đội sổ, dẫn đến
những cải thiện về thành tích nhân quyền ở cả hai nước này hay không.
Những tiến bộ của Myanmar
Dù
còn rất nhiều việc phải làm, nhưng Myanmar dưới chính quyền của Tổng
thống Thein Sein đã có những bước tiến quan trọng để thay đổi bảng thành
tích cũ vốn rất tồi
tệ về nhân quyền của mình. Nổi bật nhất là việc dỡ bỏ những hạn chế và
cho phép bà Aung San Suu Kyi cùng các cộng sự trong Liên đoàn Quốc gia
vì Dân chủ (LĐQGDC) ra tranh cử trong cuộc bỏ phiếu ngày mồng 1 tháng Tư
năm 2012. Có tổng số 43 thành viên của LĐQGDC
trúng cử, chỉ tương đương với gần 7 phần trăm số ghế trong nghị viện.
Tuy nhiên, thắng lợi đó là một bước khởi đầu quan trọng cho cuộc bầu cử
năm 2015, khi có 75 phần trăm tổng số ghế trong Nghị viện sẽ được định
đoạt bằng lá phiếu.
Nhưng
cũng có nhiều bước cải cách ở Myanmar chỉ mang tính hình thức, theo
kiểu tay này đưa thì tay kia giật lại. Ví dụ như hơn 600 tù nhân chính
trị, trong đó có các
nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng như Min Ko Naing và các nhà hoạt động
khác, từng lãnh đạo cuộc nổi dậy vì dân chủ năm 1988, danh hài Zargana
và các lãnh tụ dân tộc thiểu số như nhà lãnh đạo dân tộc Shan, Khun Htun
Oo – được thả, một động thái được quốc tế
hoan nghênh. Nhưng rất ít người trong số đó được phép ra khỏi Myanmar -
nghệ sĩ Zargana là trường hợp ngoại lệ, vì chính quyền Myanmar từ chối
cấp hộ chiếu cho họ. Chính quyền Myanmar cũng vẫn im hơi lặng tiếng về
trường hợp của hàng trăm tù nhân chính trị
khác, không được nổi tiếng bằng số người nêu trên, hiện đang còn trong
vòng kiềm tỏa của hệ thống ngục tù bí hiểm của quốc gia này. Tổ chức Hỗ
trợ Tù nhân Chính trị (HTTNCT) có trụ sở tại Thái Lan, do những cựu tù
nhân chính trị Myanmar đang sống lưu vong
thành lập, cho biết hiện có ít nhất 394 tù nhân nữa đang bị giam giữ,
chưa tính 424 trường hợp khác đang được HTTNCT xác minh, tính đến ngày
mồng 1 tháng Chín năm 2012. Một nhóm khác ở Yangon, Mạng lưới Cựu Tù
nhân, đã tiến hành phỏng vấn những người mới ra
tù và ước tính hiện có tới 445 tù nhân chính trị đang bị giam giữ.
Những người quan sát hiểu biết tình hình nhận xét rằng có nhiều khả năng
tù nhân chính trị người dân tộc thiểu số không nằm trong bất kỳ danh
sách nào, nhất là những người Hồi giáo Rohingya
từ các bang Arakan và Kachin ở các vùng xa xôi phía Bắc, và họ cũng cần
phải được phóng thích. Để giải quyết tận gốc vấn đề này, và đảm bảo
rằng tất cả các tù nhân chính trị đều được thả hết, chính quyền Myanmar
cần chấp thuận việc thành lập một ủy ban kiểm
tra có thành phần quốc tế tham gia để thống kê tổng số tù nhân chính
trị đang bị giam giữ một cách triệt để và độc lập.
Chính
quyền Myanmar đã ký các thỏa thuận ngừng bắn với nhiều nhóm sắc tộc tự
trị có vũ trang, kể cả nhóm Liên minh Dân tộc Karen (LMDTK), là nhóm đã
tiến hành một
trong những phong trào nổi dậy lâu nhất trên thế giới. Ông Aung Min,
đại diện cho Văn phòng Tổng thống, đã gặp gỡ các lãnh tụ dân tộc thiểu
số, các nhà hoạt động dân chủ lưu vong, các tổ chức phi chính phủ và
nhiều tổ chức khác để thúc đẩy hòa giải với hàng
loạt cuộc họp, điều mà chỉ hai năm trước đây không ai có thể tưởng
tượng nổi. Các nhân vật lưu vong lâu năm, như nhà hoạt động công đoàn
Maung Maung, cựu lãnh đạo sinh viên Naing Aung và Moe Thee Zun và nhà
hoạt động chính trị quốc tế Thaung Htun đã được phép
trở về Myanmar.
Các
thỏa thuận ngừng bắn với các nhóm sắc tộc thiểu số vẫn còn mong manh,
và chưa dẫn đến việc cắt giảm quân số ở các vùng dân tộc thiểu số hay
các cuộc đàm phán có
trọng lượng để hòa giải lâu dài. Các vấn đề chính trị quan trọng như
phân quyền, quan hệ giữa các bang và nhà nước liên bang, và việc chịu
trách nhiệm về những vi phạm nhân quyền trong quá khứ chưa được đặt lên
bàn đàm phán. Quân đội vẫn tiếp tục cưỡng ép
lao động không công, tham gia các vụ tống tiền và lạm dụng, nhất là đối
với những người dân thường thuộc các sắc tộc thiểu số. Và ở bang
Kachin, nơi tiếp tục diễn ra các cuộc giao tranh khốc liệt giữa Quân đội
Kachin Độc lập và lực lượng của chính quyền Myanmar,
không có mấy thay đổi rõ rệt trong chiến thuật của Quân đội Myanmar
nhằm mục tiêu vào dân thường và gây ra những vụ lạm dụng nhân quyền trầm
trọng.
Một
dấu hiệu khả quan hơn là Myanmar đã ký kết thỏa thuận có tính ràng
buộc, kèm theo kế hoạch hành động chi tiết, với Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) về việc chấm
dứt lao động cưỡng ép, và với tổ công tác Liên Hiệp Quốc về chấm dứt sử
dụng trẻ em làm chiến binh. Ngày mồng 3 tháng Chín, Quân đội Myanmar
thả đợt đầu tiên gồm 42 chiến binh trẻ em về cho cha mẹ và người thân
chăm sóc. Một loạt các văn bản pháp luật cũng
được sửa đổi để đảm bảo các quyền tự do rộng hơn, ví dụ như cho phép tụ
tập ôn hòa nơi công cộng và thành lập các công đoàn.
Ngày
20 tháng Tám, chính quyền tuyên bố chấm dứt kiểm duyệt trước khi xuất
bản, một bước tiến quan trọng đặt nền móng cho tự do báo chí – mặc dù
cũng trong ngày đó, Bộ
Thông tin Myanmar ra hướng dẫn chi tiết cho hoạt động truyền thông,
trong đó có điều khoản nghiêm cấm phê phán chính phủ hay các chính sách
của chính phủ.
Rõ
ràng là vẫn còn nhiều việc phải làm, vì hàng loạt quy định pháp luật hà
khắc từng được sử dụng để đối phó với các nhà hoạt động chính trị vẫn
còn nguyên hiệu lực – có thể kể
tên một số ít trong đó như: Đạo luật về Hội họp Bất hợp pháp [Unlawful
Association Act], Luật Bảo vệ Nhà nước [State Protection Law] và Đạo
luật về Tình trạng Khẩn cấp [Emergency Provisions Act]. Vẫn có những rủi
ro về nguy cơ đảo ngược tiến trình cải cách,
đặc biệt là khi xem xét vai trò của Quân đội Myanmar trong lịch sử, và
quyền lực được Hiến pháp 2008 trao, khiến quân đội tiếp tục nằm ngoài
tầm kiểm soát của một chính phủ có danh nghĩa dân sự. Tuy vậy, chính
quyền của Thein Sein có vẻ đã đáp ứng được phần
lớn những mong đợi của cộng đồng quốc tế về đường lối dân chủ hóa. Hoa
Kỳ, Liên minh Châu Âu và Canada đua nhau đình chỉ hoặc gỡ bỏ lệnh cấm
vận kinh tế kéo dài nhiều năm qua, bất chấp sự phản đối của các nhà vận
động nhân quyền ở Myanmar và quốc tế, vốn nhận
định rằng một tiến trình gỡ bỏ từng bước sẽ giữ được sức ép tốt hơn để
đảm bảo các bước cải cách phải được duy trì.
Trên
thực tế, các thay đổi nói trên đã tạo đà cho những cải cách bền vững
hơn, nhưng đồng thời cũng gây ra tâm lý siêu lạc quan kiểu “cơn sốt
vàng” trong một bộ phận của cộng
đồng quốc tế về một “đất nước Myanmar mới.” Liệu Quân đội Myanmar có
chấp nhận tiếp tục lộ trình đó hay không vẫn còn là câu hỏi lớn, nhất là
nếu và khi tiến trình cải cách bắt đầu động chạm đến các thỏa thuận làm
ăn giữa các sĩ quan quân đội cùng các thương
gia bè phái nhiều vây cánh. Phe cứng rắn và bảo thủ trong quân đội vẫn
còn quyền lực để có thể kìm hãm, thậm chí đảo ngược những nỗ lực cải
cách. Tuy nhiên, với việc Tổng thống Thein Sein sẽ nắm quyền đến năm
2015, giới đầu tư nước ngoài đang đặt cược rằng
cỗ xe cải cách sẽ tiếp tục tiến lên phía trước.
Bước thụt lùi của Việt Nam
Như
đã phân tích ở trên, Myanmar vẫn còn rất nhiều việc dang dở phải làm,
dù đã có xu hướng đi lên xét về góc độ tôn trọng nhân quyền. Trong khi
đó, Việt Nam đang lún nhanh hơn
vào bãi lầy phát triển kinh tế và nhân quyền. Phải chứng kiến những
bước tiến hướng tới cải cách của Myanmar chắc hẳn gây cảm giác không mấy
dễ chịu cho một số nhà lãnh đạo ở Hà Nội. Dù gì chăng nữa, suốt hơn một
thập kỷ qua, Myanmar luôn dễ dàng giành danh
hiệu quốc gia vi phạm nhân quyền nghiêm trọng nhất trong khối ASEAN.
Đây quả là một thành tích đáng kể trong nhóm các quốc gia, được các nhà
phê bình đặt cho cái tên thích hợp là “câu lạc bộ các nhà độc tài” từ
khi được thành lập vào năm 1967, gồm năm nhà
lãnh đạo độc tài của Philippines,
Indonesia,
Singapore, Malaysia và Thái Lan, sau này gộp thêm Thủ tướng Hun Sen của
Campuchia, và các nhà lãnh đạo chuyên chế từ Việt Nam, Lào, Singapore,
Brunei và Malaysia.
Nhưng
giờ đây, khi Myanmar đang thực hiện cải cách, giới ngoại giao và tài
trợ quốc tế ở Hà Nội đang tự hỏi liệu Việt Nam có được phong là “ca nhân
quyền tuyệt vọng nhất” của
ASEAN hay không? Không có gì lạ khi giới lãnh đạo chóp bu ở Hà Nội
không mấy dễ chịu trước viễn cảnh bị soi gáy như thế.
Dù
chính phủ cả hai quốc gia đều có bảng thành tích nhân quyền tệ hại,
nhưng kể từ sau năm 1988, Việt Nam và Myanmar được đối xử khác hẳn, với
rất nhiều ưu đãi được dành cho Việt
Nam. 1988 là một năm đầy sự kiện với cả hai quốc gia. Myanmar đàn áp dã
man những người biểu tình dân chủ ở Rangoon và các thành phố khác vào
tháng Chín năm 1988, giết chết khoảng 3000 người theo ước tính hoặc
nhiều hơn thế, và buộc hàng ngàn người khác phải
chạy trốn vào rừng hay xa hơn nữa. Ngay hôm trước ngày khởi đầu chiến
dịch đàn áp, các tướng lĩnh Myanmar thành lập một chính quyền quân phiệt
mới, gọi là Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Liên bang
(HĐKPTTLPLB). Nhưng sức ép quốc tế bắt đầu gia tăng
sau khi bà Aung San Suu Kyi bị quản chế tại gia vào năm 1989 và đảng
của bà không được nhận bàn giao quyền lực dù đã thắng áp đảo trong cuộc
bầu cử nghị viện năm 1990. Đầu tư nước ngoài càng ngày càng bị thắt
chặt, hạn chế và kiểm soát vì các nhà hoạt động
nhân quyền quốc tế và phong trào dân chủ nội địa của Myanmar thúc đẩy
chính sách gây sức ép và cấm vận, và cuối cùng giành được sự ủng hộ của
nhiều chính phủ phương Tây.
Trong
cùng năm đó, Việt Nam tuyên bố bắt đầu rút quân khỏi Campuchia, và hoàn
tất việc rút quân vào năm 1989, khởi đầu cho tiến trình chấm dứt nội
chiến ở Campuchia đánh dấu bằng
việc ký kết Hiệp định Hòa bình Paris, và bình thường hóa quan hệ Hoa Kỳ
- Việt Nam vào năm 1995. Một sự kiện khác không kém phần quan trọng là
việc Hà Nội triển khai chính sách đổi mới, nhằm mở cửa nền kinh tế,
khiến nhiều tập đoàn lớn của Hoa Kỳ hào hứng
đầu tư vào Việt Nam đã tạo sức ép thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Việc
thiếu vắng một nhân vật đối lập có khả năng tập hợp được mọi người như
Aung San Suu Kyi đặt các nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam vào thế cực
kỳ bất lợi, giữa lúc các nhà đầu tư đang
hăm hở tin rằng Việt Nam sẽ là con hổ kinh tế mới ở Châu Á. Các tập
đoàn nước ngoài đổ xô đến tìm kiếm lợi nhuận từ nguồn nhân công giá rẻ
và một lực lượng lao động cần cù. Cơn sốt này đã gạt ra ngoài lề những
mối quan ngại lớn về nhân quyền liên quan đến
Đảng Cộng sản Việt Nam và thái độ không chấp nhận bất kỳ một hình thức
đối lập nào của đảng này. Từ khi đất nước được thống nhất vào năm 1975,
ĐCSVN chưa hề ngần ngại vi phạm nhân quyền khi thấy vị trí hay đặc quyền
của mình bị thách thức.
Sau
khi Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng lên nắm quyền vào năm 2006,
có thể thấy rõ sự gia tăng của những xu hướng sau đây. Một là, chủ nghĩa
bè phái và tham nhũng trong
các doanh nghiệp nhà nước cùng nạn dịch thâu tóm đất đai của những nhà
đầu tư trong và ngoài nước nhiều vây cánh đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa
phẫn nộ của người dân đối với các quan chức ĐCSVN đã và đang lợi dụng
chức vụ để làm giàu cho bản thân. Hai là, ông
Dũng đã sử dụng các đồng minh trong Bộ Công an (BCA) cố gắng bưng bít
mọi tiếng nói bất đồng chính kiến, và nhờ mối quan hệ chặt chẽ với bộ
này đã khiến ông ta trở thành một trong những thủ tướng nhiều quyền lực
nhất trong giai đoạn gần đây.Và ba là, khi các
tiếng nói thách thức nền chính trị độc đoán và chủ nghĩa tư bản bè phái
xuất hiện ngày một nhiều, chính quyền gia tăng đàn áp các nhà hoạt động
và bất đồng chính kiến, khiến nhân quyền càng bị coi thường. Trong khi
lạm phát tăng cao, dẫn đầu là giá thực phẩm
và các nhu yếu phẩm khác, tốc độ đầu tư chậm lại vì nhu cầu hàng xuất
khẩu Việt Nam ở các thị trường Châu Âu và Bắc Mỹ đang yếu đi do nền kinh
tế gặp khó khăn, ngày càng có nhiều bức xúc với chính phủ, để rồi vấp
phải sự đối phó của một nhà nước chỉ biết chăm
chăm lo ổn định trật tự.
Kết
quả là những người cầm bút, viết blog độc lập, các nhà lãnh đạo tôn
giáo và các nhà hoạt động từng thắc mắc về chính sách nhà nước, phanh
phui các vụ tham nhũng của quan chức,
chống lại việc tịch thu và cưỡng chế đất đai, đòi hỏi tự do thực hành
tín ngưỡng hay đòi hỏi các giải pháp dân chủ thay thế nền cai trị độc
đảng, thường xuyên bị công an sách nhiễu, theo dõi gắt gao, giam giữ
không cho tiếp xúc với bên ngoài tới một năm hoặc
lâu hơn mà không được tiếp cận nguồn hỗ trợ pháp lý, và bị xử trong các
phiên tòa một-ngày, với mức án tù ngày càng nặng hơn vì những tội danh
mơ hồ về an ninh quốc gia.
Đàn áp có tính sáng tạo
Các
điều luật về an ninh quốc gia được đặt tên như trong tiểu thuyết của
George Orwell. Điều 79, có nội dung cấm “hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân,” có thể mang đến
án tử hình. Điều 87, “phá hoại chính sách đoàn kết,” hay điều 88,
“tuyên truyền chống nhà nước” có thể đưa người vi phạm vào tù từ 15 đến
20 năm. “Phá rối an ninh” theo điều 89 có thể dẫn đến 15 năm tù. Kể cả
khi rời khỏi đất nước, chính quyền cũng không tha
thứ cho kẻ vi phạm và có thể xử tới án tù chung thân theo điều 91,
“trốn ra nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền
nhân dân.” Và nếu không khép được vào tội nào khác, vẫn còn có điều 258
có thể dùng trong mọi trường hợp để xử tội “lợi
dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước,” với mức án lên
tới bảy năm tù.
Xem xét
hồ sơ nhân quyền của Việt Nam
cho thấy các điều luật nói trên thường xuyên được sử dụng để hình sự
hóa các quyền tự do ngôn luận, lập hội và nhóm họp ôn hòa, đưa đến các
án tù lâu năm cho các nhà hoạt động; tra tấn
trong giai đoạn tạm giữ trước khi xét xử là chuyện thường xảy ra; có
các chiến dịch được dàn dựng bài bản để đe dọa và sách nhiễu các nhà
hoạt động; kiểm duyệt báo chí rộng khắp và ngày càng gia tăng nỗ lực
nhằm giám sát và hạn chế những ý kiến phê bình trên
mạng internet; thường xuyên chà đạp quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo;
sử dụng có hệ thống lao động cưỡng ép trong các trung tâm cai nghiện ma túy và các trại được gọi là cải tạo.
Hoạt
động của các nhà tù và hệ thống trại giam của Việt Nam, nhất là ở các
vùng xa, vẫn còn là điều hết sức bí ẩn, khiến việc thống kê tổng số tù
nhân bị giam giữ vì lý do chính
trị trở nên rất khó khăn, nhưng Tổ chức Theo dõi Nhân quyền ước tính
con số này phải lên tới hàng trăm.
Trong
năm 2011, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền ghi nhận được chính quyền Việt
Nam đã xử ít nhất 33 nhà bất đồng chính kiến và hoạt động các mức án tù
lâu năm, kèm theo các hình phạt
bổ sung như quản chế hoặc hạn chế ngặt nghèo quyền tự do đi lại sau khi
được thả. Những người này bị truy tố chỉ vì đã thi hành các quyền tự do
được ghi nhận trong Điều 69 của Hiến pháp Việt Nam và các điều 18 (tự
do tôn giáo và tín ngưỡng), 19 (tự do ngôn
luận), 21 (quyền nhóm họp ôn hòa) và 22 (tự do lập hội) của Công ước
Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, đã được Việt Nam tham gia ký
kết từ ngày 24 tháng Chín năm 1982 nhưng thường xuyên lờ đi không thực
thi. Ngoài các vụ trên, danh sách vẫn còn dài
nữa – Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đang giám sát thêm 49 trường hợp khác
hiện đang bị giam giữ chưa xét xử vì các lý do chính trị và tôn giáo,
trong đó có hai nhạc sĩ, bốn blogger, ba mươi lăm nhà hoạt động tôn
giáo, hai nhà hoạt động vì quyền lợi người lao
động và bốn nhà hoạt động vì quyền lợi đất đai.
Chính sách đàn áp thể hiện rõ trong các trường hợp như vụ xử tù
bốn thanh niên Công giáo
trước đó chưa được ai biết đến ở thành phố Vinh miền trung thuộc tỉnh
Nghệ An, với lý do họ phát tán truyền đơn “dân chủ.” Họ bị tạm giam từ
năm đến mười tháng, sau đó bị kết án lên đến ba
năm sáu tháng tù giam tại phiên tòa vào ngày 24 tháng Năm. Cũng có
những vụ đang còn dở dang như vụ
ba blogger công dân nổi tiếng gồm
Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày), Phan Thanh Hải (blogger Anhbasg) và
Tạ Phong Tần, những người cùng nhau thành lập
Câu lạc bộ Nhà báo Tự do năm 2007,
rồi chẳng bao lâu sau đó bị chính quyền đàn áp. Một diễn tiến bi thảm
của vụ này là vào tháng Bảy, thân mẫu bà Tạ Phong Tần, cụ Đặng Thị Kim
Liêng, đã tự thiêu để phản đối sự sách
nhiễu của lực lượng an ninh đối với con gái và gia đình bà, khiến phiên
tòa xử họ lại phải hoãn thêm lần nữa. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary
Clinton đã nhắc đến vụ việc này khi bà phát biểu tại cuộc họp báo trong
chuyến thăm Hà Nội vào tháng Bảy năm 2012
rằng “chúng tôi quan ngại về sự cản trở quyền tự do ngôn luận trên mạng
và phiên tòa sắp tới xử những người sáng lập nhóm gọi là Câu lạc bộ Nhà
báo Tự do.”
Nhưng các tù nhân chính trị khác, như
nhà thơ và nhà vận động chống tham nhũng Nguyễn Hữu Cầu,
năm nay đã 65 tuổi, dường như đã bị phần lớn thế giới bên ngoài lãng
quên. Ông đã phải ở tù 35 năm kể từ năm 1975 – lần đầu từ năm 1975 đến
1980 trong một
trại cải tạo, lần thứ hai từ năm 1982 đến giờ do đã phanh phui các vụ
tham nhũng của quan chức địa phương. Dù ông đã mất gần hết thị lực và
thính lực, nhưng chính quyền không đưa ra dấu hiệu nào thể hiện ý định
sẽ thả ông. Những người khác, như linh mục Công
giáo Nguyễn Văn Lý, do quá nổi tiếng nên các nhà ngoại giao nước ngoài
còn được phép thỉnh thoảng đến thăm. Cha Lý đã bị đột quỵ nhiều lần
trong tù vào năm 2009, khiến tay và chân bên phải bị liệt, nhưng
chính quyền từ chối phóng thích ông trước hạn tám năm tù giam vì lý do sức khỏe.
Kiểm soát các hội đoàn
Chính
quyền Việt Nam không hề giấu giếm nỗ lực để bảo đảm mọi tổ chức, hội
đoàn phải hoạt động dưới sự kiểm soát của nhà nước. Vì lý do đó, các
đảng chính trị lưu vong, những
người lao động muốn thành lập công đoàn riêng tách khỏi Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam do nhà nước quản lý, và những người viết blog như nhóm
Câu lạc bộ Nhà báo Tự do luôn phải đi giữa các làn đạn sách nhiễu, bắt
bớ và tù đày. Ví dụ như, vào ngày 17 tháng
Tư, công an bắt Nguyễn Quốc Quân, một công dân Mỹ và là ủy viên trung
ương của đảng đối lập lưu vong Việt Tân, khi ông đang nhập cảnh vào Việt
Nam và truy tố ông theo điều 84 bộ luật hình sự về tội hoạt động khủng
bố. Tuy nhiên, sau khi công bố tội danh ban
đầu trên báo chí, chính quyền lại thôi không truy tố ông về tội khủng
bố mà áp dụng điều 79, “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”
Chính
quyền dành sự quan tâm và “chăm sóc” đặc biệt đối với các nhóm tôn giáo
độc lập đứng tách khỏi các định chế tôn giáo đã đăng ký và chịu sự kiểm
soát của nhà nước. Trong
năm vừa qua, các chi phái không được công nhận của đạo Cao Đài, Phật
giáo Hòa Hảo, các nhà thờ Tin lành tại gia ở Tây Nguyên và các vùng
khác, các chùa Phật giáo Khmer Krom và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất (GHPGVNTN) đều bị chính quyền truy bức. Trong
năm 2011, các giáo xứ Công giáo tổ chức lễ thắp nến cầu nguyện trước
phiên tòa xử nhà hoạt động pháp lý và bất đồng chính kiến Cù Huy Hà Vũ
thu hút được hàng ngàn người tham gia, không khỏi khiến chính quyền
giật mình. Các vị chức sắc tôn giáo bị quản chế tại gia gồm có Đức Tăng
thống GHPGVNTN Hòa thượng Thích Quảng Độ,
hai lãnh đạo Phật giáo Hòa Hảo Lê Quang Liêm và Võ Văn Thanh Liêm.
Trong tháng Bảy năm 2011, các vị chức sắc Công giáo Dòng Chúa Cứu thế,
cha Phạm Trung Thành và cha Đinh Hữu Thoại bị cấm rời khỏi Việt Nam.
Ngoài ra, hàng chục người Thượng ở Tây Nguyên từng
tham gia vào phong trào nhà thờ Tin lành Đềga vẫn đang bị cầm tù.
Những người hoạt động tôn giáo thường bị xử các mức án nặng nề. Ví dụ như, vào ngày 13 tháng Chạp năm 2011,
các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo Nguyễn Văn Lía và Trần Hoài Ân
bị xử tổng cộng tám năm tù giam, cộng thêm năm năm quản chế. Vào ngày
26 tháng Ba năm 2012, một phiên tòa xử mục sư Tin lành Nguyễn Công Chính
11 năm tù
về tội “phá hoại chính sách đoàn kết” theo điều 87 bộ luật hình sự. Có
ít nhất 35 nhà hoạt động tôn giáo khác đang bị tạm giam chờ xét xử.
Chìa
khóa của việc vận động mọi người tham gia vào các vấn đề như cưỡng chế
đất đai, tự do tôn giáo, nhân quyền hay đa nguyên chính trị, chính là
khả năng chia sẻ thông tin. Hệ
thống kiểm duyệt của nhà nước đối với đài phát thanh, truyền hình và
báo in từng khiến cho việc này rất khó thực hiện ở Việt Nam, cho đến khi
giải pháp thông tin điện tử được mở ra qua mạng Internet. Ước tính
khoảng 34 phần trăm người dân Việt Nam đang sử
dụng mạng Internet, tính đến tháng Hai năm 2012, khiến cuộc chiến về tự
do ngôn luận giờ đây chủ yếu diễn ra trên mạng.
Trong khi Myanmar đang ngày càng cởi mở hơn về mạng Internet, chính quyền Việt Nam lại có động thái siết chặt bằng một
dự thảo nghị định làm gióng lên hồi chuông báo động của các công ty Internet toàn cầu như Google và Yahoo cũng như những người vận động cho tự do ngôn luận.
Dự
thảo nghị định này có thể được đưa ra Quốc hội Việt Nam xem xét trong
kỳ họp sắp tới, thể hiện ý định áp đặt bàn tay kiểm soát mạng Internet
với lý do quen thuộc là an ninh
quốc gia, qua những quy định nghiêm cấm một số nội dung, với ngôn ngữ
lỏng lẻo và mơ hồ.
Cái
bẫy lớn được giăng sẵn cho các blogger và các nhà vận động trên mạng
với các quy định cấm chống đối chính quyền, hay đăng tải các thông tin
gây “phương hại đến an ninh quốc
gia và trật tự an toàn xã hội” hay “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”
hoặc “gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc và tôn giáo.”
Nếu như thế vẫn chưa đủ, thì các thông tin bị coi là “xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và
nhân phẩm cá nhân” sẽ được vận dụng để khép tội hình sự.
Trước
thực tế nhu cầu sử dụng Internet đang phát triển nhanh, kể cả nhu cầu
sử dụng các mạng xã hội phổ biến như Facebook, mà người dùng Internet ở
Việt Nam có thể truy cập được
bằng cách lách qua hệ thống tường lửa do chính quyền dựng vẫn còn nhiều
sơ hở, và không khí sôi nổi của các diễn đàn bình luận và trao đổi về
các vấn đề gai góc đối với nhà nước, có lẽ một cuộc đụng đầu lớn sẽ xảy
ra trong tương lai không xa.
Ai thắng ai?
Khởi
đầu thập niên này, Việt Nam và Myanmar vẫn là đồng minh lâu năm, cùng
tâm đắc với câu cửa miệng của ASEAN là “không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau” và cùng phải
chịu những lời chỉ trích từ nước ngoài về hồ sơ nhân quyền. Nhưng giờ
đây, hai nhà nước càng ngày càng như hai con tàu ngược chiều đã vượt qua
điểm gặp nhau giữa đại dương, mỗi bên đi theo hướng trái ngược nhau về
nhân quyền. Đến năm 2015, khi cuộc bầu cử
toàn quốc ở Myanmar mở ra khả năng chuyển giao quyền lực thực sự bằng
hòm phiếu, có lẽ Thủ tướng Dũng sẽ hối tiếc về lời phát biểu của mình
năm 2010, với chủ đích khích lệ Myanmar đi theo con đường dân chủ hóa –
nhất là khi chính người dân Việt Nam sẽ thắc
mắc bao giờ thì Việt Nam sẽ thực hiện được điều đó.
No comments:
Post a Comment