Nguyễn Quốc Khải
Hình (1): Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972.
Hình (2): Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973
Hình (3): Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.
December 18, 2012
Ngày 27-1-2013 sắp đến sẽ đánh dấu 40 năm ký kết Hiệp Định Paris 1973,
một biến cố lịch sử vô cùng quan trọng đối với Việt Nam vì những hậu
quả của nó áp đặt trên mảnh đất này trong gần bốn thập niên cho tới ngày
nay. Thay vì đưa đến “hòa bình trong danh dự”, hiệp định này
mở đường cho CSVN xâm chiếm trọn vẹn miền Nam Việt Nam trong vòng hơn
hai năm sau. Những tài liệu về chiến tranh Việt Nam được bạch hóa trong
thời gian gần đây cho thấy những sự thật phũ phàng đã đưa đến Hiệp Định
Paris 1973.
Tóm tắt diễn tiến Hiệp Định Paris 1973
Hình (1): Hiệp Định Paris 1973 được thỏa hiệp tại Bắc Kinh, chứ không phải tại Paris. Từ trái: Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, Thủ Tướng Chu Ân Lai, và Chủ Tịch Mao Trạch Đông, Bắc Kinh, 1972.
Cuộc
hòa đàm tại Paris bắt đầu từ 1968 vào cuối thời Tổng thống Lyndon
Johnson và tiếp tục dưới thời Tổng Thống Richard Nixon nhưng không đạt
được tiến bộ nào cả cho đến cuối nhiệm kỳ I của Ông Nixon khi Ông Henry
Kissinger, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Nixon đạt được một số
đồng thuận trong những phiên họp bí mật với Ông Lê Đức Thọ, Trưởng Phái
Đoàn Thương Thuyết của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và trong cuộc tiếp súc
bí mật với các Ông Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai tại Bắc Kinh. Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu không đồng ý những điều kiện do CSBV đưa ra và đòi hỏi
nhiều thay đổi. Hà Nội phản ứng bằng cách công bố chi tiết về những
điều hai Ông Kissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý. Cuộc hòa đàm trở nên bế
tắc. Một mặt Ông Nixon ra lệnh ném bom Hà Nội và Hải Phòng liên tục
trong 12 ngày vào cuối năm 1972. Mặt khác, Chính quyền Hoa Kỳ áp lực
VNCH chấp nhận điều kiện ngưng chiến.
Ngày
23-1-1973, hai Ông Lê Đức Thọ và Kissinger đồng ý về một thỏa hiệp sơ
bộ. Bốn ngày sau đó, Hiệp Định Paris được chính thức ký kết vào
27-1-1973. Hiệp Định này đòi hỏi ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt
Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày,
quân CSBV (khoảng 150,000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại
những vùng CSBV đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương.
Hiệp Định Paris cũng kêu gọi Chính Phủ VNCH và Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại
miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột. Tổng Thống Nixon hứa sẽ sử
dụng Không Lực Hoa Kỳ để bảo đảm sự thi hành hiệp định này.
Trong
khi đàm phán, Hoa Kỳ tiếp tục rút quân và thi hành chương trình Việt
Nam hóa để quân lực VNCH dần dần thay thế quân lực Hoa Kỳ.
Khoảng cách chạy tội
Hình (2): Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27-1-1973
Việc
mất miền Nam Việt Nam ít người Việt thời đó có thể dự đoán, nhưng không
phải là điều ngạc nhiên đối với Hoa Kỳ mặc dù đã có Hiệp Định Paris.
Thật vậy, chánh quyền Nixon không muốn thấy miền Nam Việt Nam sụp đổ
trước cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972, vì như thế có
nghĩa là hi vọng thắng cử nhiệm kỳ II của Ông Nixon cũng sẽ sụp đổ theo.
Vì
muốn bảo vệ thanh danh cho Hoa Kỳ và sự nghiệp chính trị của mình, Ông
Nixon đã làm đủ mọi thứ để giữ miền Nam Việt Nam khỏi phải rơi vào tay
CSVN trong nhiệm kỳ I (1969-1972). Trong cuộc họp bí mật đầu tiên với
Thủ Tướng Chu Ân Lai vào tháng 7, 1971 tại Bắc Kinh, Ông Kissinger bán
đứng miền Nam Việt Nam cho Cộng Sản.
Trên
một tài liệu thuyết trình cho chuyến đi Bắc Kinh bí mật đầu tiên, Ông
Kissinger ghi chú rằng Hoa Kỳ cần một thời gian chạy tội. Trung Quốc có
sự cam kết của Hoa Kỳ. Ông Kissinger viết nguyên văn như sau:
“We need a decent interval. You have our assurance.”
Theo
những tài liệu do các phụ tá của Ông Kissinger ghi chép lại những lời
đối thoại của ông với Thủ Tướng Chu Ân Lai, Ông Kissinger nói rằng Hoa
Kỳ sẽ ấn định thời hạn chót cho việc rút quân và trong thời gian rút
quân sẽ có ngưng bắn trong khoảng 18 tháng và đàm phán. Nếu thỏa hiệp
thất bại, dân Việt Nam sẽ tự giải quyết. Nếu chính phủ miền Nam Việt Nam
không được quần chúng ưa chuộng, lực lượng của Hoa Kỳ càng rút nhanh,
chính phủ này càng sớm bị lật đổ và Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“We
will set a deadline for withdrawals, and during withdrawals there
should be a cease-fire, and some attempt at negotiations. If the
agreement breaks down then it is quite possible that the people in
Vietnam will fight it out. If the [South Vietnamese] government is as
unpopular as you seem to think, then the quicker our forces are
withdrawn the quicker it will be overthrown. And if it is overthrown
after we withdraw, we will not intervene. We can put on a time limit,
say 18 months or some period [for a cease-fire]. National Security
Advisor Henry Kissinger, Beijing, July 9, 1971.
Hoa
Kỳ cũng không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu
tháng sau khi Hiệp Định Paris ký kết để Hoa Kỳ không bị mang tiếng thua
trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề gì cả. VNCH cần phải tự
lực chiến đấu trong một thời gian đủ dài để chịu trách nhiệm về cuộc bại
trận cuối cùng. Sau đây là phần phát biểu thâu băng của Ông Nixon về
vấn đề này:
“The
country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six
months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard
M. Nixon, March 17, 1973.
Ông Kissinger trước đó cũng có quan điểm tương tự về việc mua thời gian để tháo chạy mà không bị bẽ mặt:
“We’ve
got to find some formula that holds the thing together a year or two,
after which – after a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater.
If we settle it, say, this October, by January ’74 no one will give a
damn.” National Security Adviser Henry A. Kissinger, August 1972.
Cả
hai ông Nixon và Kissinger đều đồng ý rằng VNCH có thể sẽ mất sau cuộc
bầu cử tại Hoa Kỳ vào tháng 11, 1974. Nếu xẩy ra vào mùa xuân 1975, thời
điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.
Nhà Sử Học Ken Hughes thuộc University of Virginia nhận xét rằng:
“Nhiều
người có tư tưởng phóng khoáng nghĩ rằng Ông Nixon thật sự cương quyết
muốn ngăn chặn Cộng Sản thắng ở Việt Nam. Nhưng Ông ta chỉ cương quyết
ngăn chặn Đảng Dân Chủ thắng tại Hoa Kỳ mà thôi.” Sử Gia Ken Hughes,
June 2010.
Vào
tháng 2, 1972, Ông Nixon viếng thăm Bắc Kinh lần đầu tiên, làm thân với
Trung Quốc, khởi sự thảo luận với Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ Tướng
Chu Ân Lai về chính sách một nước Trung Hoa, và đạt được sự bảo đảm của
Bắc Kinh về giải pháp hòa bình trong danh dự đối với Việt Nam với một
khoảng cách chạy tội (decent interval).
Kéo dài chương trình Rút Quân và Việt Nam Hóa chiến tranh
Những tài liệu mới giải mật cũng cho thấy Ông Nixon và Ông Kissinger tin rằng:
- Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sẽ không làm cho miền Nam Việt Nam có đủ khả năng để tự bảo vệ.
- Những điều kiện “hòa bình” mà Ông Kissinger đã thương thuyết sẽ làm miền Nam Việt Nam sụp đổ sau một thời gian một hoặc hai năm (khoảng cách chạy tội).
Để
che đậy sự thất bại của chiến lược Việt Nam Hóa và thương thuyết, Ông
Nixon với sự khuyến cáo của Ông Kissinger, kéo dài cuộc chiến tranh đến
năm thứ tư (1972) của nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên – dài đủ để tránh sự
sụp đổ của VNCH trước ngày bầu cử nhiệm kỳ II. Chính vì vậy mà Ông Nixon
kéo dài chương trình rút quân qua nhiều năm.
Trong cuốn băng thâu bí mật tại phòng bầu dục trong Tòa Nhà Trắng, Ông Nixon nói:
“We’ve
got dates in mind. We’ve got dates everywhere [from] July to August to
September [to] October [to] November to December [to] January of 1973.”
President Richard Nixon, September 4, 1971.
Quân
số Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu giảm từ cao điểm 543,000 người vào năm
1968 và đến đầu năm 1973 mới chấm dứt, tức là sau cuộc bầu cử tổng thống
Hoa Kỳ vào tháng 11, 1972.
Đối với công chúng, Ông Nixon phải rút một số quân về nước đủ để thỏa mãn hai mục tiêu:
- Chứng tỏ chương trình Việt Nam hóa thành công.
- Giữ lời hứa khi tranh cử.
Đối
với sự nghiệp chính trị, Ông Nixon hoàn toàn bám vào lịch trình tranh
cử để hoạch định chương trình rút quân, dù có đạt được thỏa thuận với Hà
Nội hay không (Theo Ông Nixon sắc xuất chỉ có 40% – 55 %) và bất kể
VNCH có đứng vững sau khi quân Hoa Kỳ rút về nước hay không.
Hãy nghe cuộc đối thoại giữa Tổng Thống Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Kissinger vào ngày 11-3-1971:
Nixon: “We’ve got to get the hell out of there.”
Kissinger: “No Question.”
Tuy
nhiên trước công chúng Hoa Kỳ, Ông Nixon vẫn hứa một giải pháp hòa bình
trong danh dự. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ rút quân ra khỏi Việt Nam chỉ khi nào
chương trình Việt Nam hóa hoặc cuộc thương thuyết thành công – khi miền
Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ và tự quản trị.
Hoa Kỳ thất hứa không can thiệp trong trường hợp Hiệp Định Paris bị vi phạm
Tổng
Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tin rằng những điều kiện Hoa Kỳ cho phép
150,000 quân CSBV ở lại miền Nam sẽ khiến VNCH sụp đổ. Theo tài liệu mới
được bạch hóa, trong buổi họp với Tướng Alexander Haig, phụ tá Cố Vấn
An Ninh Quốc Gia, tại Saigon vào ngày 4-10-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu tuyên bố rằng theo đề nghị của Hoa Kỳ, chính phủ VNCH tiếp tục tồn
tại. Nhưng đây chỉ là giải pháp đau lòng và sớm muộn chính phủ này sẽ
sụp đổ và theo đó Ông Thiệu sẽ phải tự sát.
Nguyên văn bằng tiếng Anh như sau:
“In
the proposal you have suggested, our Government will continue to exist.
But it is only an agonizing solution, and sooner or later the
Government will crumble and Nguyen Van Thieu will have to commit suicide
somewhere along the line.” President Nguyen Van Thieu, Saigon, October
4, 1972.
Ông
Thiệu cực lực phản đối đề nghị hòa bình giả tạo của Hoa Kỳ làm cho cuộc
hòa đàm ở Paris ngưng lại. Ông Nixon phải hứa sẽ tăng viện trợ quân sự
và Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam nếu CSBV tấn công. Đồng thời Ông Nixon đe
dọa sẽ cắt viện trợ để buộc Ông Thiệu phải chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ.
Một tài liệu mới được bạch hóa cho thấy rằng Ông Nixon đe dọa đến cả
tính mạng của Ông Thiệu:
“I
don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn
thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard
Nixon, January 20, 1973.
Hình (3): Ông Lê Đức Thọ và Ông Henri Kissinger tại cuộc hòa đàm Paris.
Hiệp
Định Paris chỉ giúp Hoa Kỳ rút được quân ra khỏi Việt Nam an toàn, chấm
dứt việc can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tại Việt Nam,
nhưng đã không mang lại hòa bình cho Việt Nam. Thật vậy, khoảng một năm
sau, vào tháng 1, 1974, Tổng Thống Thiệu tuyên bố Hiệp Định Paris không
còn giá trị sau khi Cộng quân lợi dụng cuộc ngưng chiến trong năm 1973,
tiến hành những trận đánh nhỏ để chiếm những vùng xa xôi hẻo lãnh.
Trong
khi đó Quốc Hội Hoa Kỳ tiếp tục giảm viện trợ cho Việt Nam từ 2.2 tỉ Mỹ
kim cho tài khóa 1973, 1.1 tỉ Mỹ kim cho tài khóa 1974, và 700 triệu Mỹ
kim cho tài khóa 1975. Tình trạng miền Nam Việt Nam trở nên nghiêm
trọng hơn vào cuối năm 1974 khi Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua đạo luật 1974
Foreign Assistance Act, chấm dứt tất cả những viện trợ quân sự. Điều này
có nghĩa là Hoa Kỳ không thể thể dùng không lực để trợ giúp miền Nam
Việt Nam khi CSBV vi phạm Hiệp Định Paris.
Sau
khi Đạo Luật Viện Trợ Ngoại Quốc 1974 ban hành ít lâu, CSBV tiến đánh
và chiếm tỉnh Phước Long vào đầu năm 1975 và bẩy ngày sau tỉnh Bình Long
thất thủ. Khi không thấy Hoa Kỳ có phản ứng nào cả, ngày 8-1-1975 Hà
Nội ra lệnh tổng tấn công để giải phóng miền Nam bằng cách xua quân
ngang nhiên vượt qua biên giới Bắc Nam, tấn công toàn diện Vùng I và II
Chiến Thuật vào tháng 3, 1975 và cuối cùng chiếm Saigon vào 30-4-1975
đúng với thời hạn mà hai Ông Nixon và Kissinger dự đoán.
Bộ
Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Schlesinger điều trần trước Quốc Hội vào
ngày 14-1-1975 rằng Hoa Kỳ không giữ lời hứa với Tổng Thống Thiệu. Bẩy
ngày sau, Tổng Thống Gerald Ford, người thay thế ông Nixon từ chức vì vụ
Watergate, tuyên bố rằng Hoa Kỳ không sẵn sàng tái tham chiến tại Việt
Nam.
Kết luận
Hoa
Kỳ dưới thời Nixon đã bỏ rơi đông minh của mình là một điều đáng hổ
thẹn đối với một quốc gia biết tôn trọng những giá trị cao quý. Nhưng
may thay, những sử gia và những nhà phân tách Hoa Kỳ ngày nay đã phanh
phui ra sự thật và lên án nặng nề những lỗi lầm đó. Về phía người Việt,
hơn ai hết, chúng ta cũng có trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam Việt
Nam và đưa phần đất này vào tay Cộng Sản. Một bài học lớn là đừng bao
giờ chui vào vòng nô lệ của bất cứ ngoại bang nào dù là đồng minh.
Gần
đây, có vài nhóm người Việt tại hải ngoại chủ trương vận động quốc tế
để phục hồi lại Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt mới đây nhất là Ủy Ban
Lãnh Đạo Lâm Thời VNCH (UBLĐLTVNCH), một hình thức chính phủ lưu vong
nhưng không dùng danh xưng tổng thống hay thủ tướng, của Ông Nguyễn Ngọc
Bích (75 tuổi). Các tổ chức này tin rằng nếu vận động quốc quốc tế làm
sống lại Hiệp Định Paris 1973 (nhưng không nói gì đến Hiệp Định Geneva
1954 mà chính VNCH đã xé bỏ), Hà Nội sẽ phải trả lại miền Nam Việt Nam
cho VNCH.
Giả
sử rằng UBLĐLTVNCH có khả năng làm chuyện này, mặc dù tôi nghĩ là không
có một cơ may nào cả, Ông Nguyễn Ngọc Bích sẽ không thâu tóm phần đất
dưới vĩ tuyến thứ 17 cho chính phủ của ông ngay được. Hiệp Định Paris
đòi hỏi tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam, UBLĐLTVNCH sẽ phải ra tranh
cử với Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam. Nhưng
trước hết, UBLĐLTVNCH sẽ phải đưa hàng triệu người Bắc 75 về nguyên quán
ngoại trừ 150,000 quân CSBV được Ông Kissinger và Ông Chu Ân Lai cho
phép ở lại miền Nam từ 1973 đến nay. Để đỡ tốn giấy mực, tóm tắt lại, ý
tưởng phục hồi Hiệp Định Paris là hoang tưởng nếu không muốn nói là bệnh
hoạn. Ngay cả nước Mỹ cũng muốn quên Hiệp Định Paris 1973 khốn nạn này
do chính họ dựng lên.
Nguyễn Quốc Khải
Nam Yết chuyển
13-12-2012
13-12-2012
No comments:
Post a Comment