Nixon trong chuyến công du lịch sử đến Trung Quốc |
Và nếu xem Trung Quốc là kẻ thù, Mỹ đang đối mặt với một kẻ thù hắc ám và kỳ lạ chưa từng có trong lịch sử cổ kim, một kẻ thù không hoàn toàn nằm ở chiến tuyến đối lập thật sự như với Liên Xô trước đây mà lại “bị” gắn kết bởi những lợi ích song phương gần như không thể tách rời. Điều đó cũng đúng với phía Trung Quốc.
Làm thế nào để “diệt” nhau trong bối cảnh quan hệ phức tạp như vậy?
Kỳ 1: Lịch sử một chuyện tình
Từ kẻ thù không đội trời chung
Lịch sử đã cho thấy một khi lợi ích chính trị bị đe dọa thật sự, người ta vẫn có thể hy sinh quyền lợi kinh tế và sẵn sàng dùng nắm đấm phân biệt hơn thua. Trước Thế chiến thứ nhất, Anh và Đức là hai đối tác thương mại chính của nhau. Tuy nhiên, điều đó vẫn khiến giới chính trị chóp bu London xem sức mạnh đang lên của Đức là mối đe dọa cho vị trí đế quốc thực dân của họ cũng như sự ổn định chính trị châu Âu nói riêng về lâu dài.
Và dù quan hệ mậu dịch gắn kết với Anh vẫn tăng đều, Đức vẫn đi đến kết luận rằng Anh đang tìm cách khống chế, cố tình ngăn cản và “trù dập” sự lớn mạnh của họ. Thế là bất chấp quyền lợi kinh tế song phương, quan hệ chính trị hai nước xấu dần rồi cuối cùng dẫn đến chiến tranh. Trường hợp Anh – Đức đã cho thấy sự lệ thuộc kinh tế song phương chưa chắc là yếu tố giúp củng cố tình bạn thêm bền vững mà thậm chí chính nó lại là nguyên nhân chủ yếu cho những bất ổn, mâu thuẫn và xung đột.
Điều này đang xảy ra trong mối quan hệ Mỹ và Trung Quốc, khi mà Trung Quốc không chỉ ngoi lên như một cường quốc kinh tế mà còn là một sức mạnh quân sự đe dọa quyền lợi Mỹ – đúng như dự báo của Tổng thống Theodore Roosevelt (nhiệm kỳ 1901-1909) cách đây hơn 100 năm, khi cho rằng: “Lịch sử tương lai của chúng ta sẽ được quyết định bởi vị trí của chúng ta ở Thái Bình Dương đối mặt với Trung Quốc hơn là vị trí của chúng ta ở Đại Tây Dương trực diện với châu Âu”.
Cho nên, điều mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, vốn là người thân Trung Quốc, một “tình nhân vĩ đại” trong lịch sử quan hệ Washington – Bắc Kinh, kết luận trong quyển On China (phát hành 2011) của mình – về việc nên tạo một “cộng đồng Thái Bình Dương” trong đó Mỹ, Trung Quốc và tất cả các nước trong khu vực đều cùng sống chung và phát triển trong hòa bình – chỉ là một ảo tưởng phi thực tế chính trị, ngây ngô đến mức ngớ ngẩn! Trong chính trị thế giới, làm gì có chuyện “ăn cùng mâm, ngủ cùng giường” với những đối thủ đang lăm le đe dọa sức mạnh lẫn quyền lợi mình!
Trung Quốc và Mỹ vốn chẳng bao giờ thật tâm với nhau. Chính kiến là một chuyện (tư bản và cộng sản). Tranh giành ảnh hưởng mới là vấn đề chính. Thời Chiến tranh lạnh, hai nước xem nhau như mặt trăng với mặt trời. Năm 1954, tại Hội nghị hòa đàm Geneva, Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đã thẳng thừng từ chối bắt tay người đồng cấp Chu Ân Lai và thậm chí ra lệnh tất cả thành viên Mỹ phó hội Geneva phải “phớt lờ mọi lúc về sự có mặt và tồn tại của phái đoàn Trung Quốc”. Cùng với chính sách cô lập Trung Quốc về mặt ngoại giao, Mỹ cũng thiết lập một mạng lưới đồng minh và căn cứ quân sự ở Đông Nam Á.
Đến giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, Washington đã ký thỏa ước Hợp tác quốc phòng với Úc và New Zealand (1951), Philippines (1951), Nam Hàn (1953); thắt chặt quan hệ với Đài Loan (1954) và cả cựu thù Nhật (1951). Mỹ còn thành lập nhiều tổ chức quân sự trong đó có Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại Tây Âu, Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO; Philippines, Thái Lan, Pakistan…), Tổ chức Hiệp ước trung tâm (CENTO; Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Iraq, Pakistan…). Đến trước Thế chiến thứ hai, Philippines đã trở thành căn cứ vững mạnh Mỹ ở Thái Bình Dương, nối với chuỗi đảo thuộc quản lý Mỹ (Guam, Wake, Midway)… Từ năm 1950, Washington cũng áp đặt lệnh cấm vận toàn diện đối với Trung Quốc…
Đến một chuyện tình “cưỡng hôn”!
Có lẽ Trung Quốc chẳng bao giờ có cơ hội “ngóc đầu” lên được nếu không xảy ra hai yếu tố thời cuộc, khiến chính sách Washington đối với Bắc Kinh thay đổi 180o. Thứ nhất, đó là sự đe dọa của Liên Xô, và thứ hai là cuộc chiến Việt Nam. Trong bối cảnh bế tắc của cuộc chiến Việt Nam và đồng thời cần một đối trọng để cân bằng quyền lực với Liên Xô, Mỹ bắt đầu chơi trò “mèo mả, gà đồng” với Trung Quốc. Đến đầu thập niên 70, “bè lũ” Kissinger đã áp dụng một chính sách tiếp cận Trung Quốc hoàn toàn khác. Mục tiêu của Mỹ không còn làm suy yếu mà ngược lại phải làm cho Trung Quốc mạnh! Cụ thể nhất là việc hỗ trợ cho lực lượng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) bằng nhiều loại vũ khí hiện đại, đủ sức để Trung Quốc đương đầu nếu nước này xảy ra chiến tranh với Liên Xô.
Tuy nhiên, trong khi Tổng thống Richard Nixon và cố vấn An ninh quốc gia Kissinger muốn tăng tốc kế hoạch viện trợ quân sự cho Trung Quốc, Quốc hội Mỹ vẫn tỏ ý lo ngại và tìm cách ngăn chặn, với niềm tin rằng Bắc Kinh là một đối tác bất khả tín. Tuy nhiên, Nixon, rồi người kế nhiệm Gerald Ford, vẫn thuyết phục được Quốc hội, dù mức độ viện trợ không được như phác thảo ban đầu. Trong số thiết bị – phương tiện viện trợ cho Trung Quốc lúc đó, có hệ thống bắt tín hiệu truyền hình vệ tinh, 10 chiếc Boeing 707 và hai máy tính tốc độ cao. Đến năm 1975, Kissinger (lúc này là ngoại trưởng) còn kêu gọi xóa một số hạn chế xuất khẩu được áp dụng thời Chiến tranh lạnh, trong đó có việc bán động cơ phản lực Rolls-Royce (Anh sản xuất) cho Trung Quốc. Song song, Mỹ và Trung Quốc cũng thiết lập các chương trình tập trận, huấn luyện quân sự và thậm chí soạn thảo kịch bản tác chiến…
Dù vậy, Mỹ rất cân nhắc chính sách viện trợ quân sự cho Trung Quốc, phần vì bản chất của “cuộc tình” Washington – Bắc Kinh thực chất chỉ là mối tình tạm bợ, một cuộc tình vì “cưỡng hôn” mà có, vì thời cuộc xoay vần mà ra. Phần nữa, Mỹ không dám ào ạt viện trợ quân sự cho Trung Quốc bởi lo ngại Liên Xô có khả năng phản ứng mạnh và chơi đòn phủ đầu bằng cách bất ngờ tấn công Trung Quốc, dẫn đến nguy cơ một cuộc đại chiến thế giới lần ba. Trong thực tế, đã có vài tín hiệu cho thấy Liên Xô sẵn sàng dập Trung Quốc, không phải đánh bằng một chiến dịch quân sự thông thường mà là đập cho nát ngướu! Hè 1969, khi xung đột biên giới Trung Quốc và Liên Xô căng thẳng, tại một bữa ăn trưa ở nhà hàng “Beef and Bird” ở trung tâm Washington, một viên chức ngoại giao cấp trung Liên Xô đã nói với người đồng cấp Mỹ rằng Moscow đã lên kế hoạch “cực kỳ nghiêm túc” việc tấn công phủ đầu vào các cơ sở hạt nhân Trung Quốc.
Vài tuần sau tại Teheran, một tùy viên không quân Liên Xô cũng nói với một sĩ quan Mỹ rằng, Liên Xô “sẽ không ngần ngại dùng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt Trung Quốc” nếu Trung Quốc tiếp tục quấy rối biên giới Liên Xô. Năm 1973, một lần nữa, Liên Xô lại đề cập khả năng tấn công các cơ sở hạt nhân Trung Quốc. Phản ứng, Kissinger – trong chuyến kinh lý Bắc Kinh cuối năm 1973 – nói với Chu Ân Lai rằng, trong trường hợp Moscow tuyên chiến với “người anh em” Trung Quốc, Mỹ “có thể giúp đỡ bằng cách cung cấp thiết bị và các dịch vụ khác” (nhưng không nêu cụ thể là những gì), đồng thời giúp Trung Quốc giảm thiểu khả năng thiệt hại bằng cách cung cấp thông tin tình báo cảnh báo sớm. Điều này chỉ có thể thực hiện một khi thiết lập đường dây nóng “giữa các vệ tinh của chúng ta để chúng tôi có thể thông báo cho các bạn chỉ trong vài phút”…
Mỹ và Trung Quốc bắt đầu thiết lập quan hệ chính thức ngày 1/1/1979 sau nhiều cuộc gặp gỡ ngoại giao suốt thập niên 70.
Giữa thập niên 70, Mỹ bắt đầu giảm bớt liều lượng nhiệt tình trong quan hệ với Trung Quốc. Cuộc chiến Việt Nam đã ngả ngũ và mối đe dọa hạt nhân Liên Xô cũng không còn. Hơn nữa, quan điểm nổi trội trong chính trường Mỹ vẫn là sự áp đảo của phe chính trị truyền thống với chính sách không thân thiện với một nước cộng sản như Trung Quốc. Phần mình, Bắc Kinh cũng chẳng thấy vui gì khi Washington thắt chặt bang giao với mình, một mặt, vẫn đi lại và bênh vực Đài Loan. Trong thực tế, cả hai đều nhìn thấy rõ bản chất của mối quan hệ: Trung Quốc cần dựa hơi Mỹ để chống Liên Xô, trong khi Washington cần vuốt ve Trung Quốc để lấy nó làm đối trọng trong những cuộc mặc cả chính trị với Moscow. Tuy nhiên, tháng 12/1979, khi quân đội Liên Xô tấn công Afghanistan, quan hệ chiến lược Washington – Bắc Kinh lại được đẩy lên một “tầm cao” mới.
Trong chuyến công du Bắc Kinh tháng 1/1980, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Harold Brown đề xuất loạt trao đổi giữa các viên chức quốc phòng cấp cao hai nước, ở một mức độ “chưa từng có trước nay”. Tổng thống Jimmy Carter tuyên bố ông sẽ chuẩn y các giấy phép xuất khẩu cho những mặt hàng liên quan kỹ thuật kép (dùng cho dân sự lẫn quân sự) và lần đầu tiên cũng chuẩn y phi vụ bán các hệ thống quân sự không giết người, như radar, vận tải cơ, trực thăng và phần cứng viễn thông. Tuy nhiên, Carter vẫn còn đủ tỉnh táo và thận trọng không đồng ý bán vũ khí tấn công, bất chấp sự bày tỏ quan tâm từ Bắc Kinh…
Chính sách thân thiện của Washington đối với Bắc Kinh, dù ẩn sâu bên trong vẫn tồn tại nhiều nghi kỵ và dè chừng, đã khiến dư luận Mỹ thời điểm đó bớt nhìn Trung Quốc bằng cặp mắt tiêu cực. Trong suốt thập niên 70, chỉ khoảng 1/3 người được hỏi trong các cuộc thăm dò tại Mỹ là bày tỏ cái nhìn tích cực dành cho Trung Quốc trong khi 2/3 hoặc hơn nói chung tỏ ra nghi ngại Trung Quốc. Đến thập niên 1980, những kết quả thăm dò bắt đầu cho thấy ngược lại. Trong cuộc thăm dò tháng 2-1989, tỉ lệ người Mỹ “khoái” Trung Quốc đã lên đến 73%!
Các cây bút nghiên cứu chính trị và giới chóp bu quân sự Trung Quốc đang lên án Mỹ việc sử dụng nhiều “âm mưu và thủ đoạn tinh vi” để thực hiện chính sách cản trở con đường phát triển của Trung Quốc, dù đó là sự “phát triển trong hòa bình”.
Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy chính Mỹ từng “hà hơi tiếp sức” cho sự lớn mạnh của quân đội nước này nói riêng và Trung Quốc nói chung. Thiếu những nền tảng ngoại lực ban đầu như vậy, Trung Quốc khó có thể đạt được những kết quả như hiện nay…
Kỳ 2: “Dưỡng hổ di họa”
“Thân Trung, bài Nga”
Lịch sử chính trị thế giới cho thấy có khi, chỉ bởi vài quan điểm cá nhân, thế cục đã có thể thay đổi. Trong trường hợp Trung Quốc và Mỹ, đó là những bộ não như Henry Kissinger và sau đó là “học trò” của ông – Ngoại trưởng Alexander Haig. Trong nội các Ronald Reagan (kế nhiệm Jimmy Carter), Haig được xem là nhân vật luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách thân Bắc Kinh. Haig muốn đặt dấu ấn riêng trên trang sử quan hệ Mỹ – Trung bằng việc thực hiện những bước đột phá để nâng quan hệ hai nước lên một cấp độ chiến lược mới, mà trọng tâm của nó là tăng tốc việc bán vũ khí giết người cho Trung Quốc cả về chất lẫn lượng. Haig tin rằng, chỉ khi như vậy, Mỹ mới có thể cân bằng được sức mạnh quân sự Liên Xô.
Quan điểm của Haig cũng được chia sẻ bởi một số người trong bộ máy quân đội Mỹ. Bản nghiên cứu về mối quan hệ an ninh chiến lược với Trung Quốc năm 1981 của Bộ tổng Tham mưu quân đội Hoa Kỳ kết luận rằng, Trung Quốc “đang đóng góp đáng kể” cho “sự cân bằng toàn cầu”. Tuy nhiên, một lần nữa, Quốc hội và một số tướng lĩnh Lầu Năm Góc vẫn dè dặt việc mở rộng cửa và cung cấp cho Trung Quốc những kỹ thuật quân sự tiên tiến. Với Haig, đó là những ý kiến “thiển cận”, xuất phát từ hạng người có “tư duy bàn giấy” và “đầu óc hẹp hòi”…
Sự vận động liên tục của Haig cuối cùng cũng có kết quả, dù khiêm tốn. Năm 1983, Bộ trưởng Quốc phòng Caspar Weinberger tuyên bố, trong số những bước đi mới được thiết kế nhằm tăng cường quan hệ quân sự song phương Mỹ – Trung, Washington sẽ sẵn lòng bán những hệ thống “vũ khí phòng ngự” cho Bắc Kinh. Và trong nửa sau thập niên 80 của thế kỷ trước, Washington cũng đồng ý bán cho Trung Quốc ngư lôi, radar chiến thuật, thiết bị máy móc để sản xuất vỏ đại bác và hệ thống điện tử cho thiết bị đánh chặn của chiến đấu cơ. Giới chức Mỹ thậm chí còn bày tỏ việc sẵn lòng thảo luận việc bán hệ thống tên lửa chống tăng, hệ thống dò âm chống tàu ngầm, động cơ turbine khí cho tàu chiến và hệ thống tên lửa không đối không.
Tóm lại, Washington đã chuẩn bị bán một số mặt hàng quân sự với số lượng lớn cho Trung Quốc. Sau chuyến công du Trung Quốc của Weinberger năm 1983, một loạt trao đổi qua lại giữa giới chức dân sự lẫn quân sự ở mọi cấp bậc của hai nước liên tục diễn ra. Không chỉ dự tính tổ chức các cuộc phối hợp tập trận hải quân giữa hai quân đội, Mỹ còn háo hức đề xuất ý kiến triển khai máy bay chiến thuật đến những căn cứ gần Vladovostok; phát triển “những hệ thống phòng không và cảnh báo sớm”, xin được phép tiếp liệu cho vận tải cơ Mỹ mang hàng hóa cung cấp cho lực lượng “kháng chiến quân” Afghanistan trong cuộc chiến chống Liên Xô…
Tuy nhiên, thời cuộc lại thay đổi và ảnh hưởng của nó là sự tái nhận thức về các mối quan hệ. Giữa thập niên 80, Liên Xô đang lún sâu vào hỗn loạn nội bộ, trong làn sóng cải tổ của Mikhail Gorbachev. Nhận định rằng, Moskva không còn là kẻ thù và là mối đe dọa an ninh lớn đối với mình, Bắc Kinh bắt đầu muốn cải thiện quan hệ với Moskva để tận dụng quan hệ quân sự lẫn kinh tế. Dù sao, hai nước cũng từng có những mối liên hệ chặt chẽ thời thập niên 50 của thế kỷ trước. Việc tái nhận thức trong chiến lược quan hệ với Liên Xô khiến Bắc Kinh “tế nhị” đẩy quan hệ với Mỹ xuống một… tầm thấp hơn. Thế là thay vì hăm hở sắm “đồ chơi” Mỹ, Trung Quốc đã bỏ qua (cơ hội ngàn vàng này) và chỉ mua vài thứ tượng trưng. Những kế hoạch hợp tác quân sự song phương như nói ở trên cũng bị bỏ xó…
Con bài cũ
Năm 1989 đã xảy ra hai sự kiện kinh thiên động địa khiến Mỹ bắt đầu giảm dần, dù rất chậm mối quan hệ với Trung Quốc. Thứ nhất đó là sự kiện Thiên An Môn vào tháng 6 và tiếp đó là sự kiện bức tường Berlin sụp đổ vào tháng 11. Cả hai sự kiện đều mang lại những ảnh hưởng sâu sắc đối với chính sách đối ngoại của Mỹ lẫn Trung Quốc. Với Mỹ, sự tan rã của các nước Đông Âu khiến điểm tựa Liên Xô không còn đã dẫn Washington đến những phác thảo mới cho chủ trương đối ngoại. Có một điều đến nay không thể giải thích là tại sao dù chiến lược cân bằng với Liên Xô không còn cần thiết nhưng Washington, bất chấp sự kiện Thiên An Môn, vẫn duy trì quan hệ khá gần gũi với Trung Quốc.
Dù chỉ trích Bill Clinton về chính sách đối với Trung Quốc nhưng George W. Bush cũng áp dụng con đường chẳng khác mấy so với chính phủ tiền nhiệm.
Vài tháng sau, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Lawrence Eagleburger đệ trình Quốc hội một danh sách những phạm vi “sống còn” mà Mỹ cần tiếp tục thực hiện trong mối quan hệ với Bắc Kinh. Eagleburger giải trình rằng, dù Liên Xô sụp đổ, nhưng những “giá trị chiến lược” với Bắc Kinh vẫn không thể vì thế mà từ bỏ. Do đó, Bắc Kinh và Washington cần tiếp tục chia sẻ nhiều mối quan tâm mới, qua những chương trình hợp tác mới, trong bối cảnh chính trị mới. Theo quan điểm Eagleburger cũng như một số giới chức hoạch định chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, Washington bây giờ cần hỗ trợ để đưa Trung Quốc tiếp cận và gắn kết sâu hơn vào các hệ thống định chế quốc tế. Một cách tinh vi, đó là cách thuần hóa một con cọp đang mọc nanh.
Chính sách này xuất hiện ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ Bill Clinton. Năm 1994, Chính phủ Mỹ tuyên bố Washington sẽ theo đuổi chính sách “hợp tác toàn diện” với Trung Quốc – như Tổng thống Bill Clinton đã trình bày: “Chúng tôi sẽ có nhiều mối liên hệ hơn. Chúng tôi sẽ giao thương nhiều hơn. Chúng tôi sẽ hợp tác quốc tế nhiều hơn”. Nói cách khác, Mỹ đã phát quang dọn đường đưa Trung Quốc lên vũ đài quốc tế, với hy vọng rằng, Trung Quốc sẽ có ý thức trách nhiệm hơn với những nghị sự thế giới và những vấn đề toàn cầu (chẳng hạn ô nhiễm môi trường), cũng như sẽ hành xử biết điều, biết luật hơn, với những xung đột khu vực… Mỹ đã tạo ra một ảo tưởng cho Trung Quốc rằng, họ bây giờ là một cường quốc.
Đặt Trung Quốc lên chiếc ghế định chế quốc tế không chỉ buộc Trung Quốc phải “ăn ở” cho ra “tư cách người lớn” mà cũng là một cách để có thể giám sát và thậm chí khống chế Trung Quốc. Đó là lý do tại sao Mỹ dành cả nửa sau của thập niên 90 để vận động đưa Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)… Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2000, George W. Bush chỉ trích nội các tiền nhiệm đã “dung túng” và “nuông chiều” Trung Quốc thái quá. Với Bush, Trung Quốc không thể là “đối tác chiến lược” mà phải là “đối thủ chiến lược”. Dù vậy, thế cờ đã được bày, trong một thời gian dài như thế, làm sao có thể gỡ một sớm một chiều. Cuối cùng, dưới áp lực của giới doanh nghiệp và tài phiệt Mỹ, Bush cũng buộc phải áp dụng chính sách đối với Trung Quốc chẳng khác thời Bill Clinton bao nhiêu…
Tuy nhiên, trong lĩnh vực quân sự, những gì được thiết lập trước năm 1989 đã không bao giờ được tái lập. Mỹ bắt đầu nhận ra rằng, Trung Quốc đang từng bước trở thành một mối họa đối với an ninh và quyền lợi Mỹ. Sự nhận thức này diễn ra rất chậm. Trước năm 1996, giới chức quân sự Mỹ vẫn còn chưa quan tâm sự phát triển quân sự Trung Quốc. Họ chỉ nghĩ Trung Quốc đang mải mê lo làm giàu, thế thôi. Trong khi đó, một sự nhận chân toàn bộ về thực trạng quân sự non kém của mình lại đang sôi sùng sục tại Trung Quốc, từ khi họ chứng kiến sức mạnh kinh khủng của Mỹ phô diễn ở cuộc chiến vùng vịnh 1991. Trung Quốc bắt đầu âm thầm tăng tốc đầu tư quân sự, trước sự thờ ơ của Mỹ.
Tất cả chỉ thay đổi vào năm 1996, khi Đài Loan tổ chức cuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên. Trung Quốc đã gây sức ép Đài Bắc bằng cách triển khai dàn tên lửa chĩa thẳng về Đài Loan. Lần đầu tiên trong hơn 30 năm, Mỹ mới nhận ra một hiểm họa chiến tranh thật sự tại châu Á đến từ Trung Quốc. Lập tức sau đó, tình báo Mỹ bắt đầu theo dõi hoạt động quân sự Trung Quốc. Kết quả thật đáng lo ngại, nếu không nói là đầy tính cảnh báo. Hóa ra quân đội Trung Quốc đã mạnh hơn Mỹ nghĩ rất nhiều. Trước sự kiện 1996, CIA gần như chẳng đếm xỉa đến Trung Quốc.
Trong báo cáo các mối đe dọa toàn cầu vào tháng 2/1996, Giám đốc CIA John Deutch trình bày ngắn gọn: “Chúng ta vẫn biết rất ít về giới lãnh đạo tương lai Trung Quốc cũng như kế hoạch của họ”. Một năm sau, sau vụ khủng hoảng Đài Loan, người kế nhiệm Deutch, George Tenet, bắt đầu “la thất thanh”: “Những hành động và tuyên bố của Trung Quốc cho thấy họ quyết tâm thể hiện mình như một sức mạnh đỉnh cao ở Đông Á”. Đến năm 1998, Tenet tin chắc rằng, giới lãnh đạo Trung Quốc “có một mục tiêu rõ ràng: biến nước họ thành một sức mạnh chủ yếu ở Đông Á cũng như là cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới ngang hàng Mỹ vào giữa thế kỷ XXI”.
Sau những năm tháng tận tình nuôi lớn con cọp dữ và bây giờ nó không những không bị thuần hóa mà còn bắt đầu tính quay sang đớp chủ, Mỹ đã bắt đầu biết “hối” rồi chăng? Đã quá muộn!
Khi cùng nhận ra “dung nhan” thật của người tình, với bản chất thật sự của nó, đằng sau lớp son phấn giả tạo bắt đầu rơi rớt, cả hai đều có những “ứng xử” đối phó.
Với Mỹ, đó là một chính sách gồm ba bước. Với Trung Quốc là bắt đầu xây dựng chiến lược mới. Cách chọn lựa những gì cần làm và cách dứt khoát như thế nào những gì cần loại bỏ trong các đề mục của đối sách đối ngoại ở bối cảnh mới của mối quan hệ sẽ là những yếu tố quyết định thành bại, nếu không muốn nói là mang tính sinh tử, đối với cả hai…
Kỳ 3: Điều chỉnh và tái cân bằng
Duy trì cân bằng
Với cái thế đang lên như rồng cuốn của Trung Quốc, cùng sự gắn kết móc xích kinh tế giữa Mỹ và nước này, Washington hiểu rằng sẽ là hạ sách nếu cố kiềm tỏa Bắc Kinh bằng chính sách cô lập triệt để như từng dùng thời Chiến tranh lạnh với Liên Xô và Đông Âu. Cho nên, phương án được chọn của Mỹ là tìm cách cân bằng. Cân bằng tốt sẽ là cách hữu hiệu để gián tiếp khống chế. Ấn Độ là một chọn lựa trong thế trận khống chế Trung Quốc của Washington
Thứ nhất, đó là triển khai mạnh sự hiện diện quân sự tại Thái Bình Dương. Đấu pháp này thật ra không phải bắt đầu sau khi Barack Obama ngồi ghế tổng thống (năm 2009) mà đã hình thành từ thời Bill Clinton, khi Clinton tiên liệu được sức mạnh mang tính đe dọa quyền lợi Mỹ của Trung Quốc tại đấu trường châu Á, đã quyết định duy trì một lực lượng ổn định với tối thiểu 100.000 quân tại Châu Á – Thái Bình Dương. Sang thời George W. Bush, trái với nhiều nhận định rằng, Bush đã bỏ lỏng châu Á cho Trung Quốc khi dồn lực vào cuộc chiến chống khủng bố, chính nội các Bush mới là nơi khai sinh khái niệm “tái phối trí”, khi Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld triển khai mạnh chương trình tái phối trí lực lượng quân sự Mỹ khắp toàn cầu với sự tăng cường hiện diện khá rõ nét tại châu Á. Quân đội Mỹ được phân bổ dàn rộng hơn (không tập trung ở những căn cứ truyền thống như Okinawa và Hàn Quốc), với yếu tố tác chiến cơ động được đề cao – như lời Đô đốc William J. Fallon giải thích: “Chúng tôi đưa lực lượng mình đến những nơi mà chúng tôi nghĩ có thể sử dụng mà không cần phải xin phép bất kỳ ai”.
Đến trước khi Bush rời Nhà Trắng, hải quân lẫn không quân Mỹ đều đã tăng cường những đơn vị tinh nhuệ có khả năng chiến đấu cao nhất đến Thái Bình Dương. Năm 2007, lần đầu tiên kể từ sau Chiến tranh lạnh, hơn 1/2 tàu chiến của Mỹ đã được điều động đến Thái Bình Dương, trong đó có 6 (trong tổng số 11) hàng không mẫu hạm; gần như tất cả 18 chiếc khu trục hạm lớp Aegis (có khả năng bắn chặn tên lửa); 26 (trong tổng số 57) tàu ngầm tấn công… Cùng lúc, không quân cũng chuẩn bị triển khai các phi đội chiến đấu cơ F-22, oanh tạc cơ B-2 và máy bay do thám không người lái Global Hawk… Năm 2007, Tư lệnh trưởng Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương, Đô đốc Timothy Keating, đã nói thẳng: “Chúng tôi phải duy trì khả năng vượt trội tại bất kỳ hoàn cảnh nào và bất kỳ môi trường nào. Không có ngoại lệ”.
Thứ hai, đó là việc tăng cường liên kết đồng minh. Một lần nữa, điều này cũng được dàn dựng vào thời Clinton và tiếp tục duy trì thời Bush. Năm 1997 rồi lần nữa vào năm 2005, giới chức Mỹ – Nhật đã thảo luận sâu về vấn đề hợp tác quốc phòng cũng như tìm cách tháo gỡ rào cản pháp lý liên quan việc mở rộng quân đội Nhật (vốn bị hạn chế bởi Hiến pháp Nhật được soạn sau Thế chiến thứ hai). Để tránh bị quy kết can thiệp nội bộ Tokyo, nội các Bush đã ngầm ủng hộ nhóm chính trị gia Nhật kêu gọi sửa đổi Hiến pháp. Ngoài Nhật, Washington cũng mở rộng liên kết hợp tác quân sự với Australia và một số nước trong đó có Philippines, Singapore và Thái Lan… Năm 1998, Singapore thậm chí đồng ý chi trả tổn phí xây một hải cảng đủ lớn để chứa hàng không mẫu hạm Mỹ (khánh thành năm 2001). Năm 2003, Singapore và Mỹ tiếp tục mở rộng hợp tác quốc phòng… Với Ấn Độ, bang giao Washington – New Delhi từng có lúc căng thẳng sau khi Ấn thử nghiệm bom nguyên tử năm 1998. Đến thời Bush, quan hệ Mỹ – Ấn được tái lập. Vài tháng sau vụ khủng bố Mỹ 11/9/2001, Washington đã bày tỏ “thiện chí” cụ thể (xóa cấm vận; mở rộng hợp tác an ninh – tình báo – quốc phòng; tập trận chung; bán vũ khí…). Mỹ muốn Ấn phải mạnh. Một láng giềng sát nách Trung Quốc, với nguồn lực kinh tế lẫn quân sự đủ lớn, sẽ là một thách thức thật sự, nếu không muốn nói là một đe dọa “kỳ đà cản mũi”, đối với kế hoạch bành trướng và thống trị châu Á của Bắc Kinh.
Thứ ba, đó là sự hạn chế đà phát triển của quân đội Trung Quốc. Đây là bài toán thật sự hóc búa đối với Mỹ. Làm thế nào để tăng cường xuất khẩu Mỹ (sang Trung Quốc) mà không làm ảnh hưởng an ninh quốc gia? Mặt hàng nào nên được xếp vào nhóm “nhạy cảm”? Cho đến nay, câu hỏi này, được đặt ra từ năm 1989, tới giờ vẫn chưa có câu trả lời thỏa mãn hay một giải pháp thật sự khả dĩ mang lại cảm giác an toàn. Sau sự kiện Thiên An Môn, Tổng thống George H. Bush (Bush – bố) đã áp đặt lệnh cấm vận toàn diện đối với các thương vụ vũ khí sát thương dành cho Trung Quốc; đồng thời thuyết phục các nước đồng minh áp dụng tương tự. Năm 1991 và một lần nữa vào năm 1993, Bush-bố rồi Clinton đã chặn đứng việc xuất khẩu vệ tinh cho Trung Quốc. Tuy nhiên, khi miếng bánh thị trường Trung Quốc đang bị mất dần vào tay Nhật và châu Âu, giới doanh nghiệp Mỹ liên tục vận động hậu trường để được Washington cho “xả cảng”. Vậy là, trong suốt thập niên 90, dù ngày càng có nhiều ý kiến bày tỏ quan ngại sự bành trướng quân đội Trung Quốc, Bộ Thương mại Hoa Kỳ vẫn phải chuẩn y hàng trăm giấy phép bán những kỹ thuật kép cho Trung Quốc trong đó có bán dẫn, máy móc chính xác cao và những thiết bị kiểm định đặc biệt. Những mặt hàng này, như sau này được biết, đã chạy thẳng đến các nhà máy và phòng thí nghiệm quân sự Trung Quốc, để từ đó tạo ra những radar quân sự, tên lửa hành trình và vũ khí hạt nhân…
Tuy vậy, về tổng thể, Clinton lẫn Bush-con đều cố kiểm soát tình hình bất kỳ khi nào có thể. Năm 2004, một cuộc tranh luận về việc tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí cho Trung Quốc một lần nữa lại bùng lên tại châu Âu. Với chính giới châu Âu, lệnh cấm vận 15 năm dành cho Trung Quốc đã làm thiệt hại đáng kể ngành công nghiệp quốc phòng và không gian của họ. Đã đến lúc phải gạt bỏ tư tưởng hoài nghi dành cho Bắc Kinh – châu Âu đề nghị. Suýt chút nữa thì chiến dịch vận động xóa cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc của châu Âu đã thành công, nếu nội các Tổng thống Bush-con không quyết liệt can thiệp vào giờ chót…
“Bất chiến tự nhiên thành”
Giáo sư Thời Ân Hoằng, Trưởng khoa Nghiên cứu Hoa Kỳ thuộc Đại học Nhân Dân Trung Quốc nhận định rằng, Bắc Kinh nên lợi dụng lợi điểm xu thế Trung Quốc đang lên để thiết lập một vị thế “siêu hạng” hoặc “gần siêu hạng” về chính trị, quân sự, ngoại giao và ảnh hưởng kinh tế, lên ngoại vi của Trung Quốc, đặc biệt Đông Á. Tương tự, Môn Hồng Hoa, chiến lược gia thuộc Trường Đảng Trung ương, cũng nói rằng, sự thống trị khu vực của Trung Quốc không chỉ là yếu tố quan trọng sống còn mà còn là mục tiêu tối thượng cho tương lai. Hướng đi của Bắc Kinh – họ Môn phân tích – là phải đạt được ảnh hưởng toàn cầu bằng cách trở thành sức mạnh thống trị tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Từ bàn đạp châu Á, sự thống trị của Trung Quốc mới có thể dự phóng ra thế giới…
Đến cuối nhiệm kỳ hai của Tổng thống George W. Bush, quân đội Mỹ đã hiện diện tại châu Á với lực lượng lớn nhất từ sau Chiến tranh lạnh.
Nói cách khác, mục tiêu lớn nhất của Trung Quốc là phải trục Mỹ khỏi sân chơi Đông Nam Á, một cách gián tiếp, không đối đầu trực diện; bằng những “thủ pháp” sau:
Thứ nhất, phải tìm cách trì hoãn hoặc thậm chí loại bỏ bất kỳ phản ứng có thể nào của Mỹ, đối với chiến thuật tăng cường hiện diện thông qua hợp tác mà Mỹ đang áp dụng;
Thứ hai, Trung Quốc phải lập ra những thể chế chính trị khu vực được thiết kế sao cho Mỹ không thể tham gia;
Thứ ba, ổn định những vùng đệm an toàn tại khu vực;
Thứ tư, Trung Quốc có thể tập trung hơn vào chiến lược thống trị Biển Đông trong khuôn khổ chủ thuyết “đường lưỡi bò”. Tổng quát, điểm nổi bật trong bảng tổng phổ của khúc giao hưởng đầy giai điệu ma quái là chiến lược “bất chiến tự nhiên thành”, tức dùng những mảng miếng ngoại giao để “đánh” Mỹ, hơn là đối đầu quân sự với nước này, bởi hơn ai hết, Trung Quốc hiểu rằng, sức mạnh quân sự họ đang có chỉ “vừa đủ” để dọa dẫm các nước láng giềng chứ không thể đương đầu với con diều hâu từ bên kia bờ đại dương.
Dựa theo bài bản xây dựng đồng minh của Mỹ tại châu Á, Trung Quốc cũng có những dự án xây dựng thể chế để gắn kết đồng minh riêng, trong đó có Tổ chức Hợp tác Thượng Hải hay cơ chế “cộng ba” đối với khối ASEAN. Với Trung Á, Trung Quốc đã không bỏ lỡ thời cơ tìm kiếm những cơ hội nảy sinh khi khối Liên Xô tan rã. Và bằng cách tạo ra mô hình “đối tác chiến lược” với các nước láng giềng, trong khuôn khổ chính sách “biên giới mềm” – như cách nói của nhà báo Ross Munro, Trung Quốc không chỉ tăng cường ảnh hưởng mà còn hạn chế những rủi ro đe dọa trong tương lai. Để thực hiện chiến lược “biên giới mềm” nhằm tăng cường ảnh hưởng khu vực ngoại vi, theo Munro, Trung Quốc đã áp dụng nhiều thủ đoạn trong đó có hối lộ giới chức quốc gia sở tại, tuyển dụng giới doanh nghiệp và viên chức địa phương để cung cấp thông tin cho Trung Quốc (những thông tin này khi được tình báo Trung Quốc sàng lọc lại sẽ giúp Bắc Kinh có cái nhìn rõ hơn về tình hình chính trị quốc gia sở tại), áp dụng thủ thuật chèn ép tinh vi trong đàm phán biên giới để buộc các nước láng giềng yếu hơn không chỉ nhường đất mà còn phân tán lực lượng biên phòng và cuối cùng, là âm thầm tổ chức các cuộc di dân từ Trung Quốc sang quốc gia ngoại vi…
Với chiến lược thâu tóm Biển Đông, một trong những khó khăn nhất đối với Trung Quốc là chặt đứt sợi xích đồng minh lâu đời giữa Mỹ và Nhật – một siêu cường thật sự hiểu đúng theo mọi góc độ của từ này. Theo cách nói của chiến lược gia Từ Vượng Thịnh thuộc quân đội Trung Quốc (vào tháng 11/2005), Trung Quốc cần phải học được cách “xử lý riêng biệt với Mỹ và với Nhật…; phải hiểu đúng và tìm được phương án giải quyết vấn đề dựa trên những mâu thuẫn và khác biệt giữa hai nước này”. Đó là lý do tại sao, có hồi người ta thấy Trung Quốc bóng gió “khuyên” Washington rằng, Nhật ngày càng trở thành một quốc gia suy yếu về kinh tế, không đáng tin về chính trị, một kẻ luôn trong tâm thế muốn phục thù đầy nguy hiểm… Cùng lúc, Bắc Kinh cũng gieo vào giới chính trị Nhật một khả năng rằng, họ có thể bị Washington “chơi xỏ lá”, như cách họ từng “giở mặt đểu” bỏ rơi nhiều đồng minh trong lịch sử, một khi mối quan hệ với đối tác đó không còn mang tính chiến lược và không còn thỏa mãn lợi ích Mỹ…
Gần như tất cả lá bài đã lật ngửa. Cả hai đối thủ đều ra mặt kình chống nhau. Trung Quốc đang làm mọi cách để loại Mỹ khỏi châu Á trong khi Mỹ cố hết sức để ngăn chặn sự lan rộng và mức độ ảnh hưởng Trung Quốc đối với khu vực. Vậy ai đang thắng ai?
Kỳ cuối: Ai sẽ thắng ai?
Trò chơi đấu trí
Giáo sư Diêm Học Thông thuộc Đại học Thanh Hoa (một trong những chuyên gia quan hệ quốc tế lừng lẫy Trung Quốc, lấy bằng tiến sĩ chính trị Đại học California Berkeley, từng được chuyên san Mỹ Foreign Policy chọn vào danh sách 100 nhà trí thức hàng đầu thế giới) nhận định rằng, Trung Quốc cuối cùng rồi sẽ nổi trội hẳn ở trung tâm của một trật tự khu vực mới.
Trong đó tất cả các nước Đông Á không còn chọn lựa nào khác là phải chấp nhận sự lãnh đạo Trung Quốc; Nhật có thể sẽ đứng ngoài cái trật tự mới này nhưng rồi “đến lúc nào đó khi mà câu lạc bộ Trung Quốc bắt đầu ngày càng lớn mạnh thì Nhật cũng phải nhảy vào”.
Theo cách nói của họ Diêm, có thể thấy rằng, trong bối cảnh trên – được nhìn như một thực tế xảy ra không sớm thì chầy, trục các quốc gia đồng minh của Mỹ tại khu vực hoặc sẽ ngưng tồn tại hoặc sẽ bị hút sạch sinh lực trong cuộc chạy đua vũ trang với Trung Quốc.
Tương tự, năm 2007, Giáo sư Thời Ân Hoằng cũng dự phỏng rằng, nếu Trung Quốc tiếp tục lớn mạnh, Mỹ sẽ “có khuynh hướng rõ hơn việc cân nhắc lại hoặc thậm chí chấp nhận thuận theo một giải pháp cuối cùng mang tính hòa bình, đồng thời Mỹ cũng nhận thức rõ một sự phân biệt về sự cân bằng quyền lực và ảnh hưởng ở những khu vực địa lý khác nhau”; trong đó, Washington sẽ phải chấp nhận “vị thế lãnh đạo” của Trung Quốc, xét về ảnh hưởng tổng thể chính trị, kinh tế lẫn ngoại giao tại châu Á”, cũng như (chấp nhận sự thật về) “sự tương đồng quân sự và thậm chí nhỉnh hơn Mỹ khi xét đến các khu vực duyên hải”…
Khước từ chính sách “ẩn mình” thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc liên tục phô diễn sức mạnh quân sự
Theo cách nói của hai nhà chính trị học tên tuổi trên, xem ra Mỹ gần như không có “cửa” thắng Trung Quốc, chi bằng sớm biết điều “qui thuận” và chấp nhận một thực tế bất khả từ. Sự tự tin Trung Quốc còn thể hiện ở một câu chuyện được Đô đốc Timothy Keating (nguyên tư lệnh trưởng Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ) thuật vào tháng 3/2008 trong phiên điều trần trước Ủy ban Quân vụ Hạ viện Hoa Kỳ.
Keating kể, trong một cuộc gặp, một đô đốc Trung Quốc đã đề nghị nên vẽ một lằn ranh chia đôi Thái Bình Dương, trong đó “các anh có thể giữ phần phía đông Thái Bình Dương, từ Hawaii đến duyên hải Mỹ. Chúng tôi thì giữ phần phía Tây Thái Bình Dương, từ Hawaii đến duyên hải Trung Quốc”. Tất nhiên tay đô đốc Trung Quốc chỉ nói đùa nhưng điều đó cũng cho thấy phần nào cái hàm ý về sức mạnh và sự ảnh hưởng Trung Quốc mà Mỹ khó có thể chống lại. Nó cũng cho thấy một ngụ ý rằng, nếu “anh” tử tế thì “tôi” còn rộng lượng chia phần, còn không thì mất trắng!
Một thập niên qua, sự đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng trở nên công khai, lắm lúc đôi bên chẳng cần giữ kẽ hay tế nhị trong ngôn từ. Cả hai đều nhận thức rõ rằng họ đang thật sự là đối thủ của nhau. Một mất một còn. Rừng không thể có hai cọp! Khi Mỹ thể hiện rõ quyết tâm hiện diện châu Á để khống chế sức mạnh Trung Quốc thì Trung Quốc cùng lúc cũng trở nên hung hãn hơn trong tư thế của con chó dữ sẵn sàng tấn công kẻ lạ lăm le vào nhà mình (và cả những nhà hàng xóm mà mình đang muốn thể hiện vai trò của một tay anh chị “bảo kê”)!
Họ cố “đọc” được những nước cờ tiếp theo của đối thủ. Ai đang thắng trong cuộc đọ sức này? Nói cách khác, ai đang tiến đến gần hơn đến việc đạt được những mục tiêu chiến lược mà mình phác thảo? Hãy còn quá sớm để có thể chủ quan kết luận ai đang thắng ai trong cuộc tranh giành này. Ở vài trận địa, phần thắng có vẻ nghiêng về Trung Quốc. Vài trận địa khác, Trung Quốc đang ấm ức nhìn Mỹ chơi trội hơn họ.
Bởi tính chất cuộc đấu là giành giật ảnh hưởng nên trước mắt cả hai đều chơi trò đấu trí trong việc “dụ dỗ” lôi kéo đồng minh. Nói theo ngôn ngữ hình tượng là “móc toa”. Ai móc được nhiều toa hơn thì khả năng giành chiến thắng cao hơn. Tuy nhiên, yếu tố phức tạp của cuộc đấu dài hơi không chỉ nằm ở kỹ thuật chiêu dụ đồng minh mà còn ở sự chi phối của tính thời cuộc và cả sự thay đổi tư duy chính trị của giới lãnh đạo. Đó là lý do người ta thấy có khi “toa” này tưởng chừng đang được móc chặt vào đầu kéo Trung Quốc nhưng sau đó đột nhiên lại “tách ray” để móc vào chiếc đầu kéo Mỹ.
Trường hợp Myanmar là một ví dụ! Tổng quát, riêng trong cuộc đấu giành giật và xây dựng đồng minh, Mỹ rõ ràng đang thành công hơn Trung Quốc, xét về chiến lược lẫn chiến thuật. Một phần vì Trung Quốc đã “lộ hàng” quá sớm, phô diễn sức mạnh quá sớm, bày tỏ thái độ diều hâu hung hãn quá sớm – sớm hơn nhiều so với sức mạnh thật sự mà họ đang có. Cho nên, thay vì kết bạn được nhiều hơn – dù có lợi thế vượt trội Mỹ về ảnh hưởng kinh tế và đặc biệt là văn hóa đối với khu vực, Trung Quốc lại đang bị cô lập, bởi chính họ!
Hơn lúc nào hết, các nước châu Á đang nhìn Trung Quốc bằng cặp mắt nghi kỵ. Vào cuối nhiệm kỳ hai của George W. Bush (2008), các cuộc thăm dò ý kiến tại Hàn Quốc cho thấy, có đến 74% người được hỏi đã bày tỏ lo ngại về sự đe dọa quân sự Trung Quốc (một tỉ lệ còn cao hơn tại Mỹ, nơi có 70%)!
Vấn đề là ai biết cách “quản lý rủi ro” tốt hơn
Nói theo ngôn ngữ kinh doanh, bất cứ cuộc đầu tư nào cũng chứa đựng yếu tố rủi ro. Vấn đề là biết cách lượng định mức độ rủi ro và cách xử lý tình huống một khi rủi ro xảy ra. Với giới hoạch định, họ luôn kỳ vọng những điều tốt nhất trong khi cùng lúc phải biết chuẩn bị cho những gì xấu nhất. Điều xấu nhất ở đây là gì và yếu tố rủi ro nào, nếu không thể tránh khỏi, là sẽ đáng sợ nhất? Đó là chiến tranh! Liệu có khả năng xảy ra chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc? Đâu là “tiền đề” để thần chiến tranh xuất hiện?
Như đã nói ở kỳ một, yếu tố ràng buộc kinh tế chưa chắc là điều khả dĩ giúp giải tỏa sự căng thẳng dẫn đến chiến tranh, một khi cả hai – hoặc một bên – nhận ra rằng mâu thuẫn và xung đột lợi ích bắt đầu trở nên nghiêm trọng đến mức quyền lợi quốc gia bị thiệt hại nặng nề và không còn con đường nào khác hơn là sự chọn lựa binh đao.
Trung Quốc liệu có thể “quản lý rủi ro” tốt khi liên tục thách thức Nhật tại quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư?
Xét về tổng thể, Trung Quốc – dù dư dả tiền của và là chủ nợ khổng lồ của Mỹ – đang yếu hơn Mỹ rất nhiều. Họ có những vấn đề nội bộ và nhiều thách thức lớn hơn Mỹ vạn lần, ở thời điểm hiện tại cũng như lâu dài. Ở một nơi vẫn tồn tại hiện tượng “quốc phú, dân cùng”, đầy dẫy tham nhũng, nền tảng kỹ thuật yếu kém, trình độ khoa học thiếu sáng tạo nhưng thừa “chỉ số” ăn cắp, nguồn tài nguyên hiếm hoi nhưng dư thừa “khả năng” tàn phá môi trường… xã hội Trung Quốc đang sôi sục và tiềm ẩn nhiều bất ổn dẫn đến rạn vỡ và thậm chí tan nát. Khi mà chưa giải quyết được những khó khăn và khủng hoảng nội tại, Trung Quốc sẽ không đủ tỉnh táo phác thảo những kịch bản và kế hoạch lâu dài đối phó với Mỹ. Đây là một trong những điểm yếu sinh tử của Trung Quốc.
Trong khi đó, “bài” mà Trung Quốc áp dụng thường xuyên gần đây, quen đến mức thế giới đã “thuộc”, là mạo hiểm chuyển bớt “lửa” từ trong nước ra bên ngoài. Nó đã bộc lộ một tâm trạng bất lực hơn là thể hiện của một đòn thế khiến đối phương sợ hãi. Cái cách mà cứ bất kỳ khi nào tình hình trong nước rối ren thì Trung Quốc lại hung hăn với những động thái gây hấn khu vực chỉ mang lại bất lợi cho Trung Quốc về mặt đối ngoại và làm hỏng đại cục của Trung Quốc trong chính sách thôn tín châu Á. Mặt khác, nó lại vô tình giúp Mỹ lôi kéo thêm đồng minh.
Điều đáng nói nhất là sẽ rất khó cho Trung Quốc “quản lý rủi ro” trong chiến thuật “chuyển lửa” ra bên ngoài. Họ không thể dập tắt ngọn lửa này lại cùng lúc tạo ra một đám cháy khác! Trận hỏa hoạn trong nước (có thể xảy ra từ những dồn nén bất ổn xã hội), so với trận hỏa hoạn bên ngoài (có thể xảy ra từ thái độ hiếu chiến), trận nào sẽ kinh khủng hơn, đã lượng định và so sánh được hậu quả của hai trận hỏa hoạn chưa, trận hỏa hoạn nào mới là ngọn lửa thật sự làm cháy rụi căn nhà, mới là ngọn lửa đốt trụi quốc gia và xóa sổ chế độ?…
Điều đáng nói nữa từ cái “điều đáng nói” trên là khi mà Trung Quốc cuối cùng nhận ra rằng họ không đủ sức “quản lý rủi ro” nữa thì họ có thể có khuynh hướng chơi cú liều “được ăn cả, ngã về không”. Lúc đó, chiến tranh sẽ bùng nổ. Theo nhận định của hai phân tích gia Mark Burles và Abram Shulsky thuộc Viện Nghiên cứu chính sách RAND (Mỹ), Trung Quốc sẽ có khả năng đánh trước. Họ muốn tận dụng lợi thế của yếu tố bất ngờ. Điều mà Mark Burles và Abram Shulsky không diễn giải là tại sao yếu tố bất ngờ lại quan trọng đối với Trung Quốc. Đó là vì Trung Quốc hiểu rõ rằng, họ không thể địch lại Mỹ và “bầy sói” đồng minh của Mỹ xét ở mọi góc độ của chiến tranh qui ước. Chỉ bằng yếu tố bất ngờ mới có thể giúp họ có được lợi thế ở “hiệp một” so với đối phương…
Tất nhiên viễn cảnh chiến tranh không thể xảy ra chừng nào hai bên còn đủ tỉnh táo và kiên nhẫn để kiềm chế (và còn chưa hết “bài” để tiếp tục thức thâu đêm đánh đến tàn cuộc). Tuy nhiên, như đã nói, vấn đề tối quan trọng lúc này là ai đủ bản lĩnh để kiểm soát tình hình và đủ khả năng để “quản lý rủi ro” – những rủi ro không thể không tính đến và không thể không xảy ra, phát sinh từ những chiến lược tranh giành ảnh hưởng…
Ngọc Trí
(Nguồn tham khảo: “A Contest for Supremacy: China, America, and the Struggle for Mastery in Asia”; giáo sư Aaron L. Friedberg; NXB W. W. Nortin & Company; phát hành ngày 1/10/2012)
Nam Yết chuyển
No comments:
Post a Comment