Lễ
Bàn Giao trầm lắng, căng thẳng đó gồm cả những người đã có bất hoà
trước đây với cá nhân tân Tư Lệnh cũng hiện diện còn có mặt khoảng 10 vị
sĩ quan chỉ huy cao cấp trong đó có: Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú (từ Đồng
Tâm-Mỹ Tho), Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng (từ Cần Thơ)…, một vài vị khác
như Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại rối bời tại BTL-HQ vùng I không về được…
Chỉ
vài ngày sau ngày nhậm chức ông đã thành lập đơn vị Lực Lượng Đặc Nhiệm
99 bao gồm những Giang Đoàn Ngăn Chặn và nhiều Căn Cứ Hải Quân do Đại
Tá Lê Hữu Dõng là tư lệnh, với sự đóng góp đáng kể của Phó Đề Đốc “Phú Già“, là minh chứng cho sự xóa bỏ những dị biệt bất hòa thời “âm mưu đảo chánh trong Quân Chủng năm xưa“.
Tân
Tư Lệnh Chung Tấn Cang lúc đó có cấp bậc cao nhất Quân Chủng, và ngang
cấp với các tư lệnh quân-binh chủng khác, dễ dàng nói chuyện với Dinh
Độc Lập và Bộ Tổng Tham Mưu. Trong những ngày giờ dầu sôi lửa bỏng đó,
quả ông đã quan tâm thực sự đến kế hoạch “Di Tản” một cách chặt chẽ, với
tiêu chuẩn phải mang đi được nhiều tướng lãnh, quân nhân của các quân
binh chủng khác, cùng dân chúng và Hải Quân, dĩ nhiên.
Và
ông thường xuyên có mặt trong Trung Tâm Hành Quân thuộc Bộ Tư Lệnh Hành
Quân Lưu Động Biển, trong tầng Ba một cao ốc tân kỳ mới xây vài năm.
Ông có phong thái bề thế chỉ huy oai nghiêm như một Tổng Tham Mưu Trưởng
chiến trường Lục Quân. Phó Đô Đốc Cang liên lạc hàng ngang với Tổng
Thống và giới chức cao cấp nhất của Tổng Tham Mưu, cũng như bên Biệt Khu
Thủ Đô.
2- BTL/HQ Và Cuộc Di Tản QK1 & Tướng Trưởng
Tư
Lệnh Chung Tấn Cang theo dõi giải quyết cuộc di tản và tình hình trận
liệt ngoài Quân Khu 1 và Đà Nẵng từ Trung Tâm Hành Quân-BTL-HQ. Ông biết
từng bước đi của Tướng Bộ Binh, Tướng Không Quân và các đơn vị tác
chiến với những khi tạm trú trong căn cứ HQ Đà Nẵng hoặc TTHQ-SĐ/TQLC,
hoặc với Phủ Tổng Thống mỗi ngày hoặc qua Trung Tá Khanh-Chánh Văn Phòng
Tư Lệnh.
Tướng
Trưởng, Tướng Lân, Tướng Khánh, Phó Đề Đốc Thoại… thường xuyên họp tham
mưu tại TTHQ/ Sư Đoàn TQLC hiện đóng tại Non Nước (Đà Nẵng). Trong
khoảng thời gian này hai sĩ quan của BTL Sư Đoàn TQLC vừa trúng pháo của
VC khi đang trên mặt nước để lên chiến hạm, đó là Trung Tá Nguyễn Xuân
Phúc và Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, theo như lời thổ lộ của Trung Tâm Trưởng
TTHQ/SĐ/TQLC Trần Vệ và sĩ quan TQLC, Tô Văn Cấp. Vào phút chót Trung
Tướng Trưởng đành bó tay, đã rời bỏ Quân Khu I… Nếp đạo đức, khôn ngoan
và thói quen chịu đựng đau đớn cho thấy ông tướng danh tiếng này, vượt
thắng hơn sự tính toán của TT Thiệu… Theo lời một sĩ quan Thủy
Quân Lục Chiến kể lại sau này viết lại trên trang Báo Đa Hiệu của Hội
Cựu SVSQ Võ Bị Đà Lạt, “. Những chi tiết này cũng phù hợp với lời Tướng
Thoại kể lại hình ảnh Đà Nẵng rối loạn chiều 28 tháng 3.Tướng Trưởng
ngồi lẻ loi trên ghế bố cùng với Đại Tá TLP/TQLC Nguyễn Thành Trí và độc
nhất một anh lính truyền tin Bộ Binh, (từ chiều tối 28) chờ ôm poncho
lội nước để lên Hải Vận Hạm 402 vào lúc 10 giờ sáng ngày 29-3, thay vì
tin theo lời hứa hẹn của Sài Gòn là: “Cứ ở yên trong đó không lội ra
khơi chờ đến khi có HQ 404 vô đón”. Và ông đã mặc bộ quân phục vải xám
của Hải Quân trong suốt thời gian tạm trú trên tầu“.
Dù
theo dõi chặt chẽ, nhưng thực ra Trung Tâm Hành Quân HQ ở Sài Gòn không
nắm vững được phương vị di chuyển của Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Tướng Ngô
Quang Trưởng: Khi ông ra tới Chiến Hạm HQ 402 chuyển sang HQ 404. Trong
lúc đó Tư Lệnh Hồ Văn Kỳ Thoại vẫn còn đang chỉ huy tóan nghiên cứu với
hai cận vệ, lên Núi Tiên Sa tìm bãi biển an toàn (vì lúc ấy các bãi biển
Đà Nẵng quân dân chạy giặc đã trở thành vô cùng nguy hiểm, hỗn loạn).
Dự trù bãi cát chân núi Tiên Sa an toàn, kín đáo để tàu Hải Quân có thể
vô đón thân nhân HQ, Thủy Quân Lục Chiến và anh em SĐ3 BB. Toán “thám
sát” bị kẹt lại mãi cho đến khi người bạn là Trung Tá Thiệp (cựu Chỉ
Huy Trưởng Giang Đoàn 22 Xung Phong- Nhà Bè sau này chỉ huy Cảng Đà
Nẵng) dùng Hải Thuyền vô đón, được chuyển lên PCF rồi lên HQ 802 cùng
với Tư Lệnh SĐ3 BB-Nguyễn Duy Hinh về Quy Nhơn cùng tử thủ…
Em
trai của Phó Đề Đốc Thoại là Thiếu Tá Hồ Văn Kỳ Tường, Hạm Phó HQ-5, đã
cầm tận tay công điện Mật của chính Tổng Thống giao cho Tướng Trưởng và
nói: “Tổng Thống muốn Trung Tướng theo tiểu đỉnh trở lại đất liền để
tiếp tục chỉ huy”. Sau khi đọc công điện một lúc khá lâu, Tướng Trưởng
đã xin với Sài Gòn để được cùng với TQLC “tiếp tục chỉ huy,) chuyển từ
HQ 402 qua HQ 404 được gọi là: “Bộ Tư Lệnh Nổi: Hải Vận Hạm HQ 404″”…
(Thực ra không ai rõ ngày giờ ấy: Tướng Trưởng đang ở chiến hạm nào?.
Những chi tiết này cũng được chính Tướng Thoại xác nhận.)
Những
quyết định từ Trung Ương sau một khoảng thời gian chờ đợi, đồng ý cho
Trung Tướng Trưởng được theo Hải Vận Hạm Hương Giang HQ 404 xuôi về Nha
Trang, Phan Rang về đến Sài Gòn. Vào buổi chiều ngày 18 tháng 4, khoảng
4-5 giờ chiều gần đến giờ về nhà, Trung Tá Khanh cho gọi Sĩ Quan Báo Chí
lên Trung Tâm Hành Quân. Tôi trình diện và ngồi cách Đô Đốc Tư lệnh một
khoảng cách chỉ để ghi nhận và nghe ông căn dặn một vài việc. Nhưng tai
tôi nghe qua tiếng máy loa khuếch âm: tin từ Đà Nẵng gọi về Trung Tâm
Hành Quân (thuộc Khối Hành Quân-Hải Quân) cho Tư Lệnh Chung Tấn Cang
theo dõi tin tức “một oanh tạc cơ không rõ của Không Quân VN hay Hoa
Kỳ
đã bắn lầm một Chiến Hạm (có tướng lãnh hiện diện trên HQ3, HQ 404 hay
HQ 802-có hàng tướng lãnh như Tướng Trưởng, Tướng Minh hoặc Tướng
Thoại?). Trên đường trên đường xuôi Nam về BTL ở SàiGòn..” Tôi thấy
hình như ông không chen vào các tin tức nội bộ này. Tin này làm cho tôi
liên tưởng tới một vụ (có lẽ A-37) oanh tạc nhầm Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp
trong giai đoạn biến động này, gây cho vài sĩ quan và thủy thủ tử vong…
mà không ai nói tới sự kiện máy bay mình oanh tạc lầm… mà lại cho VC
“hưởng công” bắn trúng Tầu. Tôi thường kiểm chứng lại sự thực xảy ra nơi
chiến trường, và cũng từ Tư Lệnh Hồ Văn Kỳ Thoại cũng kể lại sau này…
Cũng
khoảng thời gian này nghe tin vào khoảng sau 5 giờ chiều có tin chiến
hạm trên đường xuôi Nam HQ 503 bị trúng đạn, gây cho khoảng 4 sĩ quan
cùng với nhân viên, thủy thủ trúng thương và tử nạn.
… “Một sĩ quan-tử nạn”, chính tôi được nghe qua loa khuếch âm truyền tin
báo cáo trúng đạn là “HQ Trung Úy CB Nguyễn Độ”, dân Sài Gòn cũng là
người bạn cùng thụ huấn quân trường. Tin chiến sự này cứ ám ảnh trong
lòng như chưa quên…
Một sĩ quan trẻ và Tướng Thoại cũng xác nhận họ có nghe về các nguồn tin ấy, và nghĩ rằng “hai
sự kiện máy bay oanh kích, và pháo kích trúng đài chỉ huy chiến hạm có
thể cách nhau phút chốc thời gian, nhưng lại cách nhau trong không gian-
nhiều hải lý?...”
Không
đầy một tuần sau, cái ngày Hải Quân và TQLC rời bỏ Đà Nẵng hỗn loạn.
Khi chiến hạm có Tướng Trưởng về đến cầu tầu Tư Lệnh HQ, Báo Chí HQ cũng
theo ra đón Tướng Trưởng, chứng kiến cảnh tượng Tướng Chức thay mặt Tổng Thống Thiệu tỏ
rõ sự bất bình. Có tin “đồn” là Tướng Trưởng sau đó bị quản thúc cùng
với một số tướng khác qua lệnh của Tướng Trần Văn Đôn. Sau này gặp lại
Tướng chức, ông không muốn xác nhận lại chuyện cũ. Tướng Thoại thì kể
rằng “ông Trưởng là sĩ quan cao cấp hơn, làm sao tối “dám”!!”
3- “Tuyến Thép Phan Rang” và Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh
Chỉ
vài ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ, Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã muốn Phòng
Báo Chí chuẩn bị các bài diễn văn soạn sẵn của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu, Đại Tướng Viên và Tư Lệnh Hải Quân nhằm nêu cao vai trò “Tư Lệnh
Tuyến Thép” và một Sĩ Quan Báo Chí theo ra Nha Trang giao trực tiếp để
trao tận tay các diễn văn và đề cao chiến dịch mới: “Tuyến phòng Thủ
cuối cùng dự định tại Nha Trang, mang tên Tuyến Thép, do PĐĐ Hoàng Cơ
Minh là Tư Lệnh Chiến Trường- là vinh dự cho HQVN”, nhưng lễ nghi quân
cách và lệnh chưa kịp chính thức loan tải và phát thanh thì lãnh thổ
kiểm soát của VNCH đã phải cắt thêm về tới Tuyến Thép Phan Rang. Rồi
cũng
từ Phan Rang, chưa kịp thực hiện những nghi lễ mang tính tuyên truyền,
tử thủ và bảo vệ Tuyến Thép thì Tư Lệnh Hoàng Cơ Minh, lẫn sĩ quan báo
chí BTL-HQ đã phải xuống theo Chiến Hạm HQ-3 xuôi Nam dọc theo bờ duyên
hải để đón quân-dân di tản từ Phan Rang và các thành phố khác nữa về
BTL-HQ. Thỉnh thoảng, có các ghe chở người được cho phép cặp sát chiến
hạm.. Có chiếc ghe nói là “người nhà của TT Thiệu” để được đón lên chiến
hạm.
Tại Cam Ranh, Hải Quân Đại Tá Bùi Cửu Viên, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm
Huấn Luyện Hải Quân Cam Ranh đã đưa được cả Trung Tâm Huấn Luyện về được
Sài Gòn trên những tàu LST. Cùng lúc Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn Duy
Hinh, các sĩ quan tham mưu và hơn trăm binh sĩ Sư Đoàn 3 Bộ Binh cũng
được Đại Tá Viên đưa về Sài Gòn bằng tầu LST.
Tôi được nghe Trung Úy Y Sĩ -Phạm Anh Dũng kể lại, “SĐ3 chúng tôi có
lệnh ra Bà Rịa trình diện. Nhưng khi tôi ra đến nơi, không gặp sĩ quan
nào cả trong Tiểu Đoàn 3 Quân Y, nên phải về lại Sài Gòn.” Kế hoạch Tuyến Thép Cuối Cùng Phan Rang cũng thất bại).
Tuyến Thép thành tan hoang!.
Tôi,
sĩ quan được Trung Tá Linh cử đi công tác Báo Chí, chưa tới nơi gặp
được Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ở Phan Rang, thì có tin Nha Trang thất
thủ. Trên chiến hạm về Sài Gòn tôi gặp Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, có cơ
hội gặp gỡ trong phòng ăn Sĩ Quan của Chiến Hạm, cùng những lúc chen
chân giữa quân nhân tác chiến, và heo gà trên chiến hạm kêu oang oác, ồn
ào. Tướng Minh và tôi là một trong số những người về trên chiến hạm
HQ-3 khẩn cấp về Sài Gòn nhanh chóng hơn, thay vì ngừng lại ở một số
nơi, như HQ 503 bị về bến chậm lại một vài ngày. Tôi có nghe tin một số
chiến hạm đã đụng độ; HQ 11 và HQ 503 đã bị trúng đạn nặng nề, thê thảm
(vào ngày 19-4).
Đây
là dịp tôi có giờ trò chuyện riêng tư với Tướng Minh. Chúng tôi kể lại
thời ăn cơm chung giữa chúng tôi với nhà văn HQ Trung Úy Chu Sĩ Lương
từng là Sĩ Quan Báo Chí BTL HQ khoảng thời gian với Trung Úy Trần Trọng
Thức (sau này rời Quân Đội nhờ Kim Cương?). Chu Sĩ Lương về phụ trách
Báo Chí cho Tướng Minh, chúng tôi nhắc nhắc đến HQ Trung Úy Lê Rĩnh; HQ
Trung Tá Lê Công Bình (người có mối liên hệ chặt chẽ với ông Chơn, sau
này cả hai đều đi tù cải tạo nhiều năm); Thiếu Tá Phi Đoàn Trưởng Thần
Trùy 211-Nguyễn Kim Hườn (vài năm đến Cali, đã sát cánh với Tướng Hoàng
Cơ Minh), với Thiếu Úy KQ-ca sĩ Trần Thuỵ Chi (em vợ Trung Tá Trịnh Tiến
Hùng) thường chở Tướng Minh trên trực thăng quan sát, những ngày tôi
được quan sát cuộc hành quân Thủy Bộ. Ông tiếc cho buổi triển lãm tranh ở
Hội Việt-Mỹ khai mạc đầu tháng Tư sẽ không có nhân vật chính là tôi về
kịp tham dự… Tôi quý mến ông lắm, và nhìn thấy rõ nét thảm thương đau
đớn. Chúng tôi ngậm ngùi chung về những mất mát…
Và chúng tôi lênh đênh như thế trên biển hơn 3 ngày, chen lẫn trong số
hàng ngàn chiến binh: tướng tá di tản, trên cả 3 soái hạm, HQ 2, HQ 3,
HQ 5 và bao gồm cả Dương Vận Hạm HQ 500
4- Hải Quân Họp Tiết Lộ Chi Tiết: Di Tản
Bộ
Tư Lệnh Hải Quân và Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư Lệnh Hạm Đội đã họp với
khoảng 100 hạm trưởng các loại chiến hạm lớn nhỏ vào chiều ngày 26 tháng
4, ông Sơn tuyên bố rằng “lấy quyền: Tư Lệnh Hạm Đội thông báo đến
quý vị hạm trưởng rõ ba chuyện: “1-Vũng Tầu, Phan Rang và Bộ Tổng Tham
Mưu đã tan rã, 2- địa điểm Sư Đoàn 3 Không Quân đang bị dội bom, trong
khi Hạm Đội HQ còn an toàn và nguyên vẹn, 3- chúng ta chuẩn bị tinh thần
có thể di chuyển về Phú Quốc.”
Chỉ
vài ngày sau hôm 28-4 Đại Tá Sơn bị “cách chức”, người thay thế là Đại
Tá Khuê. Ông Khuê tuyên bố trong buổi họp đầu tiên để trấn an và đánh
lạc hướng: “Di tản không còn là vấn đề phải đặt ra nữa vì Hoa Kỳ đã giúp ta thả bom CBU ở Xuân Lộc, … ta sẽ thắng...”
Vào
sáng sớm ngày 29-4 lại có một cuộc họp tham mưu cao cấp cho biết: “nếu
không có một phản lệnh nào khác, thì toàn bộ Hạm Đội sẽ rời Bộ Tư Lệnh
Sài Gòn vào lúc “Không Giờ”- Khuya 29 rạng 30, các hạm trưởng cứ thế mà
tuân hành.”
Trong
khi đó thì Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu cũng có mặt gần Sài Gòn, ông
thường xuyên có mặt tại “nút chặn” Căn Cứ Hải Quân Cát Lái, cùng với
toán Quân Cảnh và toán nhân viên làm một nút chặn ngay tại ngoài tuyến
đường lộ gần căn cứ, nơi được đặt là trại tị nạn cho quân nhân và đồng
bào về từ Phú Quốc. Trong lúc đó có tin không chính thức sau buổi họp “HQ Đại Tá Trần Văn Triết điều khiển kiểm soát vòng đai Hải Quân Sài Gòn?“.
Ông Triết có sẵn một tầu riêng đậu gần HQCX, đề nghị cho cả gia đình 3
người (mẹ già và vợ chồng ông Liễm) cùng đi với Trung Úy Vy cùng vợ con.
Thiếu Tá Liễm cám ơn lòng tốt của Đại
Tá Triết và không đi chung chiếc Tầu đặc biệt này.
vài sĩ quan cho biết: cũng như rất nhiều sĩ quan khác, đã bị ngăn cản
không vào được “Nút Chặn-Trại Sĩ Quan Cửu Long” theo lệnh của Đại Tá
Triết. Chỉ huy trưởng và vài nhân viên cuối cùng rời đơn vị được giao
bảo vệ vào “giờ thứ 25” lúc 9 giờ tối 29-4. Trong giờ phút đen
tối ấy, lại may mắn gặp Đại Tá Đỗ Kiểm đang liên lạc gia đình (thất lạc)
vẫn chưa lên tàu, đi lòng vòng trong Hải Quân Công Xưởng- Đại Tá Kiểm
lại hỏi “tại sao anh chưa đi?” và cho biết “Bộ Tư Lệnh HQ đã được lệnh giải tán từ 2 giờ chiều (ngày 29-4)“.
Thiếu Tá Liễm, chỉ huy trưởng Biệt Đội Chiến Tranh Chính Trị-Hải Quân,
trước đó cũng không được biết bất cứ một tin tức, không được ai, kể cả
nhà thơ Phan Minh Hồng tại BTL-HQ hứa
liên lạc khi có biến chuyển và lệnh “tan hàng”.
Ông Liễm vẫn còn bám trụ chỉ huy 4 đơn vị bao gồm Nút Chặn Trại Cửu Long
và NewPort. Cả giờ sau khi gặp Đại Tá Đỗ Kiểm, giống như ông Hùng kể
lại, người quân nhân mang lon thiếu tá Hải Quân, dù quen mặt cố gắng
muốn được qua cầu (thì bị người sĩ quan gác cầu, không xa lạ, lại chĩa
súng đòi bắn). May cho ông vừa đúng lúc, được Trung Úy Vy (phụ tá của
Đại Tá Triết) trọ ở nhà ông Liễm, lái xe chở vợ con qua cầu vào HQCX, có
chìa khóa riêng mở dây xích khóa hai bên cầu Ava-lăng vào HQCX. Một nhân chứng gặp được Thiếu Tá Bá Hạm Trưởng, quen biết nên được cho lên tầu HQ-801, tại vị trí 4, HQCX, và hạm
trưởng cho LCVP về đón vợ con, đón Thiếu Tá Vũ Trạch người về từ Đà
Nẵng, Cha Dụ, anh em Cha Vũ Thành. và mấy chục
người bà con của LM Dụ từ Nhà Thờ Hiển Linh. Những nhân chứng này kể
lại, họ lên Tầu đầy đủ, thì HQ 801… rời bến. Trước đó nhóm người xuống
Tầu không đi kèm hạm trưởng, vẫn bị lính canh “đuổi lên”.
Mỗi khi Hạm Trưởng Bá đích thân dắt tay ai đến tận cầu thanh thì mới được lên. Có người hỏi Hạm Trưởng Bá “chừng
nào tầu rời bến?, Hạm Trưởng Bá tránh né trả lời: “không biết bao giờ
đi?”… Nhưng chỉ khoảng mươi phút sau, khi hạm trưởng đã lên HQ 801..
rồi, thì tầu rời bến.
Theo lời kể của HQ Đại Tá Bùi Cửu Viên, hạm trưởng kinh nghiệm về Dương Vận Hạm (loại LST có tên: Mỹ Tho, Cần Thơ…) thì “HQ
801 khi rời HQCX khoảng 8 giờ 30 tối, với một máy chánh bất khiển dụng…
HQ 801 gặp Soái Hạm Trần Hưng Đạo mắc cạn ở Quatre bras – quá nửa đường
Sài Gòn-Vũng Tàu)“.
Sự kiện HQ-1 bị mắc cạn được HQ 801 trợ giúp theo lời Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: ” Có
tin nói rằng Hạm Trưởng Soái Hạm Trần Hưng Đạo HQ1, Nguyễn Địch Hùng
(khóa 4 Brest) về nhà đón vợ đến hơi chậm sau 8 giờ tối mà chưa tới nên,
bị “bỏ” ở lại; vì trên tầu được một trong hai ông Phó Đề Đốc hiện diện
“lấy quyền” chỉ huy bắt HQ 1, rời bến sớm hơn- dù không có hạm trưởng..”.
Riêng Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng của HQ 2- mang tên Trần Quang Khải- còn nhớ lại: “Vào
lúc 5 giờ 30 chiều 29-4-75, cơn mưa chiều vừa tạnh, khi chuẩn bị xuống
chiến hạm, chuẩn bị công tác chiến dịch “Di Tản-Lui Binh”, có nhìn thấy vài Sĩ Quan từng quen thuộc trước đây ở tại Bộ Tư Lệnh.” Hơn ba thập niên sau, theo lời kể lại của Hạm Trưởng Hùng thì: “Ông
Ưng Văn Đức cùng một Thiếu Tá nói với Hạm Trưởng Hùng “thi hành lệnh
của Đại Tá Triết không cho hạm trưởng và nhân viên, hoặc bất cứ ai được
xuống tầu di chuyển nếu không do chính Đại Tá Triết cho phép“..
Hạm Trưởng Đinh Mạnh Hùng (nay ở Seattle) cũng thuật lại tương tự”chính
tôi đã bị cản lại không được xuống tầu, tôi đã phải dùng máy liên lạc
cho một tiểu đỉnh đến đón ở bờ sông trước nhà hàng Majestic, và lên tầu
phía tả hạm, bằng thang dây..“.
5- Tổng Thống Dương Văn Minh Đồng Ý Cho Di Tản “Về Miền Tây”
Cũng
khoảng 4 giờ chiều hôm ấy, trong cơn mưa nhỏ và mây xám âm u vùng
BTL-HQ, Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí, Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển đã
cùng với gia đình Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh xuống HQ 3. Trong khi Phó Đề
Đốc Hoàng Cơ Minh đứng trên một chiếc PCF, đậu ngay cầu tầu Tư Lệnh để
dàn xếp mọi diễn biến. Ông nói như ban lệnh rất lớn chỉ về hướng tôi còn
đang ngơ ngác hướng mắt nhìn ông: “anh sĩ quan, nhờ gặp sĩ quan trực liên lạc gấp với tư thất Tư Lệnh Chơn ngay bây giờ...”
Khi tôi bước vào chỗ ngồi làm việc cũ khoảng sau 1 giờ trưa, chuông điện
thoại reo liên hồi, tôi kịp bốc điện thoại để nghe, đầu dây bên kia là
Trung Tá Khanh-Chánh Văn Phòng Tư lệnh, đang đích thân “ra lệnh” cho
tôi: “Phải Sĩ Quan Ban Thông Tin Báo Chí đó không?- chiều nay có họp ở
Bộ TTM, anh cho mang, máy chụp hình và máy thu băng, lên chánh văn
phòng Tư Lệnh“. Tôi thi hành ngay vì chánh văn phòng chỉ cần bước lên cầu thang bên phía tay mặt dãy nhà của tôi ngồi là tới.
Từ giờ phút ấy Tướng Minh trở lại chiến hạm. Từ đó có lệnh từ chiến hạm
“Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Và cho đến chiều tối mới chuyển qua HQ
5, chiến hạm này “được chọn làm soái hạm chỉ huy” vì có Tư Lệnh Chung
Tấn Cang trên tầu.
Đô
Đốc Cang muốn bảo toàn đoàn Chiến Hạm đến giờ chót hoặc lên đường ra
Côn Sơn, Phú Quốc hoặc Miền Tây. Những điều này khi trình bày với TT
Dương Văn Minh đều được Tổng Thống gật đầu và không phản đối điều gì.
Chủ trương của ông Cang cùng với các vị tướng tham mưu là không chấp
nhận liên hiệp. Xung quanh ông là những tướng lãnh chủ trương chống
Cộng, chống Liên Hiệp với CS… như Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó Đề Đốc
Đinh Mạnh Hùng, Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí..
Và Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú, là một sĩ quan chỉ huy mà trước đây từng
có những bất hòa riêng với Tư Lệnh, nhưng chính cuộc
chiến đấu và di tản cuối cùng gay go này đã đưa những người có những
bất đồng ngồi lại gần nhau.. cùng hữu hiệu làm việc.
Họ
thường xuyên liên lạc với Đại Tướng Minh, nhưng ngày cuối, Đại Tướng
Minh đã bày tỏ rõ ý muốn ở lại của riêng ông, và buông xuôi đồng ý cho
các đơn vị quân đội và HQ được quyền tự giải quyết hoặc đưa quân nhân
các cấp “di tản… lui binh”, sau khi ông cảm thấy đã tuyệt vọng và bị lừa
?.
Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí, tức nhà thơ Hữu Phương lại là vị tướng độc nhất trong BTL HQ (?)”muốn
phá hủy cơ sở Trung Tâm Hành Quân và Phòng Hai để bảo mật, theo như lời
ông kể lại. Trong lúc rời nhiệm sở, ông nói ra ý định muốn dùng lựu đạn
lân tinh để tiêu hủy hồ sơ theo mục đích bảo vệ những người còn kẹt lại
và ngăn chặn khi VC tới“. Phó Đề Đốc Chí sau đó ra chiến hạm bằng
tiểu đỉnh và lên bằng thang dây vì cầu tầu đã bị kiểm soát nghiêm nhặt,
như lời ông kể lại khi đến Hoa Kỳ.
Các
phòng sở khác êm ắng như nhà hoang cửa trống, ai cũng túa ra về vì tất
cả họ tâm trạng đều rối bời, không ai tiếc nuối gì hoặc có một hành động
gì khác, ngoài nhóm người thân cận với tân Tổng Thống Dương Văn Minh
thì còn hy vọng vớt vát tìm giải pháp… chiến đấu (?)… Có lẽ vì vậy vài
sĩ quan Hải Quân giờ chót chưa đi, khi “chọn” ở lại hay “không muốn đi”,
như trường hợp Đại Tá Tấn không sau buổi họp sáng sớm ở TTM về, ông chủ
trương “ở lại BTL-HQ chiến đấu. Vì không đi theo đoàn tầu, ở lại, ra
trình diện bị trên 16 năm tù “cải tạo” thế mà còn bị mang tiếng là đặc
công nằm vùng!. Ông Tấn đã kể lại và xác
nhận “ được khẩu lệnh của Tổng Thống Dương Văn Minh hành xử quyền Tư Lệnh Hải Quân“.
Trưởng phòng Tâm Lý Chiến là HQ Trung Tá Lê Như Linh (người dành cho
tôi những ưu ái- mà tôi không quên), ông cho tôi trái ngọt lẫn trái
đắng: đi Hong Kong với Tư Lệnh Phó HQ Lâm Ngươn Tánh, (hai người đại
diện HQ và chính phủ) đón tù binh VNCH tử thủ Hoàng Sa do Trung Cộng
trao trả. Lên thăm Đài kiểm Báo TàKú trên đỉnh núi do HQ Trung Úy Phạm
Ngọc Đông là Trưởng Đài. Ra Cửa Việt ghi nhận trận giao tranh với tầu
địch. Ra Trại Tù Phú Quốc hai lần gặp Đại Tá Nguyễn Văn Thiện quan sát
trại tị nạn, đón nhận hàng ngàn quân nhân di tản về. Hai lần ra BTL HQ
vùng 1 tại đây ra gặp Tướng Thoại tại Đà Nẵng những ngày cuối tháng 3
suýt soát bị kẹt lại-
khi hàng ngàn người dành chỗ lên C-130 về SàiGòn, rồi còn ra Quy Nhơn
Ra Nha Trang và bên ngoài bãi biển Cam Ranh Nha Trang giữa tháng Tư gặp
Tướng Hoàng Cơ Minh…Gần chót là trại tị nạn tại Căn Cứ Cát Lái do Người
Nhái giữa an ninh. Tôi thấy bao nhiêu cam go phải hứng chịu!. Hai tháng
cuối cùng đi liên miên như một “phóng viên chiến trường” mà thôi!
Tôi “nể” Trung Tá Linh. Ông “không rời bỏ đơn vị trước như một số sĩ
quan khác ngay trong BTL-HQ”. Chính vào lúc 10 giờ sáng 30 tháng Tư,
Trung Tá Linh còn vì nể tình tôi nhờ cậy, đã đón gia đình Giáo Sư ĐH
Luật Khoa, Lê Đình Chi vô phòng làm việc của ông ngồi chờ, hứa sẽ giúp
nếu có phương tiện. và tin loan truyền sau này của ông “kêu gọi các hạm
trưởng không rời bến…”, cho mãi đến khi ông đã định cư ở HK, tôi vẫn
“ngại ngần” không dám hỏi: Vì sao… và vì sao? Nhưng.. Tôi vẫn quý trọng ông luôn!
Tôi
“tin chắc” trong suốt bao nhiêu năm trong Hải Quân (mãi đến 4 năm sau
mất Sài Gòn) tôi chỉ thấy có một người đó là Trung Sĩ Tâm Lý Chiến,
Huỳnh Thanh Vân, cũng là tài tử điện ảnh, là cán bộ nằm vùng sau 1975 đã
trở thành thủ trưởng phòng Tài Chánh và Ngân Hàng Quận Tân Bình, “cấp bậc ngang hàng tướng lãnh”
là dân nằm vùng mà thôi, như lời xác nhận của Trung Úy Tài Chánh Nguyễn
Văn Hưng (ở gần nhà Bakerfield-CA, là hàng xóm với Đô Đốc Cang và suối
gia của ông là Chuẩn Tướng Lưỡng- Nhẩy Dù). Còn những tiếng đồn khác về
như nhà văn Chu Sinh (Trung Úy Chu Sĩ Lương đơn vị chót BTL-LLThủy Bộ)
theo lời Huỳnh Thanh Vân kể, và những
người khác ở lại, hoặc không đi được. Gọi họ là “nằm vùng” thì tôi
không bao giờ tin được và thật là “gieo tiếng ác” oan ức cho họ!.
Đô
Đốc Cang, theo sát an ninh vào những giờ cuối cùng. Ông liên lạc với Bộ
Tổng Tham Mưu, cũng như Đại Tá TQLC Cổ Tấn Tinh Châu, chỉ huy trưởng
Đặc Khu Rừng Sát và Thủy Trình sông Lòng Tảo, Vàm Cỏ – Soài Rạp… để giữ
an ninh cho đoàn chiến hạm có khả năng di chuyển trên sông Sài Gòn trong
vòng vài giờ ra khơi, cùng hướng về điểm hẹn đặt dưới quyền chỉ huy
toàn diện của chính ông, không trở thành mục tiêu của VC sẽ trải dài hai
bên bờ sông. Ông Cang là vị tướng đã thu gom quân nhân dưới quyền tập
hợp cùng di tản nhẹ nhàng nhất, mà chắc rằng không ai có khả năng điều
động rộng lớn trong tình huống khó khăn và tuyệt vọng như thế
!.
“Nếu
không có lệnh đầu hàng, và nếu không có “lệnh nào khác” thì một khối
lượng lớn tướng lãnh, sĩ quan, quân nhân các quân binh chủng và Hải Quân
đã cùng có mặt tại Miền Tây” (?), như chính lời Đô Đốc Cang cho biết như vậy, qua các bài phỏng vấn và tin tức chính thức sau này.
Lực
Lượng Đặc Nhiệm 99 cũng là “con đẻ” của ông, một tổ chức cần thiết để
giữ an ninh giờ chót cho Sài Gòn. Có lẽ chính vì thế mà nhiều người còn
rời Sài Gòn được trong ngày 30-4, như trường hợp nhà thơ Nhất Tuấn, và
nhiều người khác còn cơ hội lên được Quân Vận Đỉnh 9604 ra khỏi sông Sài
Gòn từ Nhà Bè hoặc Tướng Trung và Tướng Vĩnh Lộc rời Sài Gòn trong
khoảng 4 giờ trên sông mà không bị VC bắn từ hai bên bờ sông.
Tới
trưa 30-4, những vụ hôi của dọc kho Trịnh Minh Thế và Khánh Hội gây ra
những vụ nổ súng và khói lửa trong khi VC vẫn chưa xuất hiện dọc đường
như nhiều người lo âu.
6- Hải Quân Ra Khơi
Tư
Lệnh HQ Chung Tấn Cang đã không ra đi bằng phương tiện hàng không. Mặc
dù cũng giống như Phó Đề Đốc Chí, Đề Đốc Chơn, Đại Tá Tấn–Khối An Ninh
HQ đều được cơ quan DAO dành chỗ sẵn để họ lên máy bay.
|
Cựu Đề Đốc Trần Văn Chơn tiếp xúc Hoài Hương nghiên cứu luận án về QLVNCH, (ảnh Phạm Quốc Bảo-năm 2000) |
Trước đó một ngày, Đề Đốc hồi hưu Trần Văn Chơn “ra
Vũng Tầu đón cha mẹ về cùng đi, chờ lên máy bay của Quân Đội HK, nhưng
cuối cùng tôi đã quyết định ở lại. Con trai, là hạm trưởng HQ 601, HQ
Đại Úy Trần Minh Chánh, cũng từ chối di tản trong chiều tối 29/4, để rồi
phải chịu đi tù nhiều năm.
Đề Đốc Trần Văn Chơn đã kể lại trong buổi thăm viếng tại San José sau
năm 2000, cùng hồi tưởng về năm tháng trước 1975, và những ngày cuối
cùng tại BTL-HQ)
Trong cơn mưa chiều 29, “vài
tướng lãnh bị “tạm giam” trong khu vực BTL Hải Quân như: Trung Tướng
Lâm Quang Thi, Lâm Quang Thơ, Nguyễn Bảo Trị, Nguyễn Đức Thắng, Phạm
Quốc Thuần, Chuẩn Tướng KQ Nguyễn Đức Khánh… được các sĩ quan Hải Quân
nhanh chóng mời đón lên chiến hạm HQ. 2 cùng di tản chiến đấu”. Như
sự chứng kiến và giúp cho xuống chiến hạm theo lời kể lại bằng trí nhớ
còn đầy cảm xúc của Hạm Trưởng HQ 2- Đinh Mạnh Hùng.
Phó
Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh vừa rời chức vụ Tư Lệnh Hải Quân tháng trước,
ngày đó cũng mới từ xa về, được hướng dẫn xuống Soái Hạm HQ 1, đậu ở vị
trí 1 gần sát đường lộ mặt tiền BTL-HQ. Ở vị trí số 2 cặp chính giữa là
HQ 3 -Phạm Ngũ Lão, Ngoài cùng vị trí số 3 là HQ 2 -Trần Quang Khải do
HQ Trung Tá Đinh Mạnh Hùng là Hạm Trưởng kể lại: “đã tuân theo kế hoạch rời bến của Ông Số 1” “giờ Zéro”.
Có các chiến hạm khác kể cả các chiến hạm PCF trong nhóm tầu của Phó Đề
Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ huy đã rời bến từ sớm. Mỗi khi có một chiến hạm
tách bến lại có vài người trên bờ nổ súng… Và nhiều trực
thăng bay lượn xa gần vòng quanh Bộ Tư Lệnh càng lúc càng nhiều như
muốn được nhảy xuống nước để được HQ vớt.
“Hải
Quân ra đi không chỉ mang theo Hải Quân và gia đình của họ mà còn các
quân nhân các cấp, mọi Quân, Binh Chủng và cả thường dân nữa“. Trung Úy Y Sĩ SĐ 3 Bộ Binh, Phạm Anh Dũng cũng là một nhạc sĩ bày tỏ chân tình như “một lời tri ân” không thể quên đối với một Quân Chủng đã hoàn tất một sứ mệnh vì dân. “Tôi
và Minh Hà, vợ mới cưới hai tuần thôi… như có Đức Mẹ hay Phật Quan Âm
dẫn đường dắt tay chúng tôi cùng ra Bến Bạch Đằng, chạy loạn có nhau,
vào lúc nửa đêm- lúc ấy một khoảng rào kẽm gai ở lối vào bỗng nhiên mở
ra đủ để 3 người lọt vào.
Trong khi có hàng ngàn người nối đuôi nhau để qua khỏi rào kẽm gai tiến
đến lên tầu mà không được. Một may mắn khó hiểu rõ ràng người phụ nữ nắm
tay kéo tay chúng tôi vượt qua rào ra phía sau HQ 1 (nơi không có cầu
thang lên tàu mà chỉ có dây kéo)… Rồi ngay tức khắc vợ tôi được kéo dây
lên tầu, rồi đến lượt tôi. Nhưng người phụ nữ dắt tay chúng tôi lên tầu
đã đi khuất. Chỉ đúng 2 phút ngay sau đó, tầu HQ-1 chặt dây, tiến máy xa
bờ không còn ai lên được nữa… Nhờ tầu Hải Quân tôi được… ra đi“.
Sau này một bạn thân cũ của Hạm Trưởng Bá (khoá 11 HQ) kể lại: “HQ
801 rời bến khi gia đình tôi đã chọn một góc phòng.. tráng sự đông đúc…
Chẳng bao lâu thì hạm trưởng xuống tầu, cho lệnh khởi hành. Tôi nhớ lại
đêm ra đi từ HQCX. Tới trước BTL, rồi tôi nhìn lại nơi tầng thượng của
Majestic, hồi Tết Mậu Thân, tôi và nhiều chiến sĩ HQ phải canh gác phòng
thủ kéo dài trên 6 tháng… Tại mặt lộ, sát mặt đường nhìn ra bờ sông là
quán ăn vỉa hè CaRic, nơi mà anh em Hải quân từ BTL rất quen và thích
các món thịt nguội và lade..“..
Éo le trong chuyến hải hành cuối cùng Soái Hạm-(HQ 1) lại bị mắc cạn…
Cũng phải mất đến 4 giờ đồng hồ để HQ-1 được tầu HQ-801 kéo khỏi mắc cạn
và để chuyển một số người sang HQ-801. Sĩ quan hiện diện trên tầu
HQ-801, đứng ra phụ trách việc khó khăn kéo tầu HQ-1 ra khỏi chỗ cạn là
Đại Tá Hải Quân Bùi Cửu Viên, Chỉ Huy Trưởng TTHL/HQ Cam Ranh, vì ông là
người có nhiều kinh nghiệm về loại tầu 800…
Sau
vài ngày đoàn Tầu ra đến điểm tập trung ở Côn Sơn đúng như kế hoạch của
Tư Lệnh Cang, trong lúc Tư Lệnh tái phối trí Đoàn Hạm Đội, về Miền Tây
như kế hoạch để tái hoạt động. Không rõ sẽ chọn là Côn Sơn hay Đảo TaMátSu (nơi
Vua Gia Long từ ẩn trú trước khi về chiếm lại Đất Liền). Đó là kế hoạch
mật không được Tư Lệnh công bố. Tuy nhiên chiếc tầu nào không khiển
dụng thì được đánh chìm, để thành lập một đội ngũ Hạm Đội. Lúc này xảy
ra những trục trặc làm vỡ một phần kế hoạch vì đón người từ Năm Căn từ
Phú Quốc của Trung Tá Nhượng không thi hành đúng lệnh!
Vì Thủy Thủ Đoàn HQ 801 có nhóm người muốn về, trong đó có Hạm Trưởng
Nguyễn Phú Bá (vì nội bộ gia đình) cũng xin được rời bỏ Hạm Đội Di Tản
trở về đất liền trên Tầu Dầu HQ 472, hướng về tới Vũng Tầu. Ở Côn Sơn
trong những ngày đầu tháng 5-75, “Bộ Tư Lệnh HQ- Ngoài Khơi” do Tư Lệnh
Cang đã chỉ định Đại Tá Bùi Cửu Viên làm hạm trưởng HQ 801 từ đó.. Lúc
ấy tầu phải lo ngày 2 bữa cơm cho khoảng 2,000 đầu người, trong số này
có cha Cao Văn Luận Cha Chu Quang Minh (nghe nói có thể có 2 vị tướng
nhưng không xuất hiện). Vì lo ngại Hạm Trưởng Bá-sẽ mang HQ 801 bỏ Đoàn
Hạm Đội quay về, khiến nhiều người vội nhẩy sang HQ 9, trong số này có
cả Trung Úy ca sĩ Vũ Trọng Thanh (BĐ-CTCT-HQ), sau này đến Hoa Kỳ, có
con gái nối nghiệp là ca sĩ Thùy
Hương-Trung Tâm Asia. HQ 801 tiếp tục hải trình “thuận buồm suôi gió”
từ khi có Hạm Trưởng Bùi Cửu Viên chỉ huy…
Khi
Chiến hạm rời bến, người ta nhìn thấy ngọn lửa đang bốc cao từ Kho Đạn
Thành Tuy Hạ và Kho Xăng Nhà Bè. Mặc dù trước đó cũng có nhiều người rời
Sài Gòn từ khu vực Quân Cảng vùng Cát Lái hướng về Phú Quốc. Trong lúc
này Phi Trường Tân Sơn Nhất và Bộ Tư Lệnh Không Quân đã là trọng điểm
của những đợt pháo kích, nhiều cấp tướng và cấp tá đã cho biết họ không
còn tìm được máy bay để rời Sài Gòn. Hình ảnh Bộ Tư Lệnh Hải Quân và
sông Sài Gòn bị pháo kích cũng trong tầm tiên liệu và lo âu như ở phi
trường, nhưng làn sóng người vẫn kéo về thật đông.
Sáng sớm ngày 30 tháng 4, tuân lệnh từ nội các chính phủ, HQ Trung Tá Lê Như Linh cho phát ra lời kêu gọi “các chiến hạm đừng rời bến”
mà một số hạm trưởng, sĩ quan nghe được trên hệ thống truyền tin nội
bộ. Riêng HQ Đại Tá Nguyễn Văn Tấn, quyền Tư Lệnh BTL/HQ kể lại với tôi
sau này”sau khi đi họp với Tướng Vĩnh Lộc từ 7 giờ 30 sáng, có cả ông
Vanuxem cựu tướng lãnh Pháp trong buổi họp này. Tướng Vĩnh Lộc đã ra
lệnh Hải Quân phải cung cấp chiến hạm cho ông“. Trở về BTL/HQ ngay
sau đó, Đại Tá Tấn đã ra lệnh cho Sĩ Quan Báo Chí, và phóng viên Võ Hà
Anh (người xướng ngôn viên của chương trình Phát Thanh Hải Quân)
viết các lời kêu gọi của Tư Lệnh HQ “ban hành lệnh cho anh em chiến sĩ tiếp tục giữ vững tay súng” mà không đi đâu cả“. Sĩ Quan Báo Chí cũng như phóng viên HQ lúc ấy cả hai người không ai viết hoặc đọc lời kêu gọi này.
Cựu Trưởng khối CTCT BTL-Hải Quân là Đại Tá Trần Văn Triết “đã rời nhiệm sở, trước đó đã nắm quyền kiểm soát, cho phép từng người xuống chiến hạm“. Cũng vẫn theo lời Tướng Chí và Hạm Trưởng Hùng cho biết: “ông Triết đã rời bến nhanh chóng và có mặt ở Phi đầu tiên, mà không đi theo 3 phân đội di tản của HQVN…”.
Lúc
bấy giờ đi vào nơi phòng làm việc ở Bộ Tư Lệnh HQ không còn ai còn ngồi
tại chỗ, phòng nào cũng vắng người, tôi còn trông thấy HQ Thiếu Tá Trần
Bá Hạnh, còn ra vào văn phòng làm việc, chuyện trò với anh em đoàn
viên, nét mặt trầm tĩnh. Lúc ấy bước vào Tiểu Ban Điện Ảnh, tôi nghe bản
tin đặc biệt qua radio lập đi, lập lại cách 5-10 phút, loan tin: “tân nội các Vũ Văn Mẫu đòi trục xuất cơ quan DAO và lực lượng Hoa Kỳ..”
Anh em làm ở BTL-HQ đều biết “Thực
sự Tướng Cang, là người lâu nay có uy thế liên lạc chặt chẽ với Bộ Tổng
Tham Mưu, với Dinh Độc Lập, với cả ông Thiệu… Ông nổi danh từ khi tham
gia đảo chánh 1-11-63 thành công, ông rất ít nói… Nhưng gần cuối tháng
Tư, ông Cang để cho Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy có HQ Thiếu Tá Phước
(Tacoma-WA) đi cùng, thay mặt ông là “con thoi” với ông Dương Văn Minh
khi cần..”. Thiếu Tá Phước đã kể lại sau này.
Các
chức vụ quan trọng kề cận Tư Lệnh Chung Tấn Cang như: Phó Đề Đốc Nguyễn
Hữu Chí, Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động Biển; HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn, Tư
Lệnh Hạm Đội; HQ Đại Tá Đỗ Kiểm, Tham Mưu Phó Hành Quân BTL-HQ; Đại Tá
Luân, Chỉ Huy Trưởng Khối Tiếp Vận; Đại Tá Phạm Mạnh Khuê-tân Tham Mưu
Trưởng Hành Quân Biển, thế chỗ Đại Tá Sơn vào ngày chót; Phó Đề Đốc Diệp
Quang Thủy, Tham Mưu Trưởng Hải Quân; Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng, Tư
Lệnh Hành Quân Lưu Động Sông; Đại Tá Dõng, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm
99. Những cách biệt cá nhân không còn nữa, cuộc di tản mang họ lại gần
nhau.
Riêng
trường hợp cá nhân tôi, chỉ là một sĩ quan rất trẻ, lúc ấy mang cấp bậc
Trung Úy, và phục vụ trong lãnh vực Thông Tin-Báo Chí. Trong ban Thông
Tin Báo Chí, tôi là trưởng Tiểu Ban Báo Chí, trong ban còn có ba Thượng
Sĩ-Phóng Viên Báo Chí Hải Quân và một Thượng Sĩ-Báo chí (được tu nghiệp
từ Hoa Kỳ) nhưng không phải là phóng viên hoặc không có nhiệm vụ viết
tin. Tiểu Ban Báo Chí còn có hai đoàn viên và hai nữ nhân viên dân
chính. Chúng tôi thuộc Ban Thông Tin BTL/HQ do HQ Trung Úy Nguyễn Tất
Ứng là Trường Ban Thông Tin, còn có hai tiểu ban khác nữa, một người bạn
cấp bậc Trung Úy là trưởng Tiểu Ban Ấn Loát Hội Họa, có “Thượng Sĩ Tư
Cầu” là
phụ tá và Vũ Thái Hòa cũng là nhạc sĩ kiêm họa sĩ trong Ban Ấn-Họa,
trong ban này có một đoàn viên tên Hào (cùng định cư tại WA) có người
anh là nhà văn Đào Vũ Anh Hùng bên KQ. Trung Úy Chương An Hòa là trưởng
Tiểu Ban Điện Ảnh, với phụ tá là Thượng Sĩ Sủng chuyên lo về hình chụp,
quay phim (rất gần gũi trực tiếp với các vị tư lệnh), tiểu ban này còn
có vài đoàn viên phụ tá.
Tôi muốn nhắc đến một chút về sự quan tâm chọn sĩ quan về làm ngành
thông tin báo chí, mà Nguyễn Tất Ứng là một thí dụ. Trước 1968, Ứng quen
biết và hoạt động với Cha Hoàng Quỳnh, chỉ qua một buổi gặp gỡ sơ giao
giữa linh mục Quỳnh và Tư Lệnh Trần Văn Chơn, khi Cha Quỳnh chỉ thộ lộ
vô tình: tôi có một giáo dân cũng là sĩ quan HQ có tinh thần cao tên là
Nguyễn Tất Ứng… Không ngờ chẳng bao lâu sau, Tư Lệnh Chơn đã đích thân
cho tìm ra Ứng, ban hành lệnh thuyên chuyển Trung Úy Ứng về làm thông
tin-báo chí.
Đó cũng là trường hợp Trần Trọng Thức. Vì tôi là bạn cùng học với Ứng,
nên chúng tôi làm việc chung rất hết lòng. Ứng không lên tầu kịp, phải
cùng ở “trại Cải Tạo” chung trại với tôi, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Văn Khoa,
nhạc sĩ Nguyễn Văn Hóa… khi được thả về: người đi theo đường H.O.,
người chọn vượt biển… Ứng ở trong số những người theo đường vượt biển,
đã cùng với vợ mới cưới cùng chìm sâu… trong lòng biển Đông.
Tôi còn nhớ trong những giây phút hoang mang ấy chúng tôi những người
bạn thân quen ngoài Ứng, còn có HQ Trung Úy Phạm Vĩnh Xuân (nhà thơ Hà
Thúc Sinh), và HQ Đại Úy Đặng Phú Thiệt (ban Nghiên Cứu Kế Hoạch-và ban
Tuyên Vận cùng phòng Tâm Lý Chiến) tốt nghiệp từ Đại Học Chiến Tranh
Chính Trị được chính Tư Lệnh Chơn “kéo” về phục vụ trong cùng Khối CTCT
Hải Quân.
Gần cuối tháng 4-75, Đặng Phú Thiệt cũng từng bàn với tôi, “mình chiếm đoạt một tầu loại nhỏ càng sớm càng tốt rời Sài Gòn ra đi khi bị bỏ rơi..”,.
Thân hơn nữa, tôi còn có HQ Trung Tá Trịnh Tiến Hùng, ông cũng là “cánh
tay mặt” của Đại Tá Sơn, sau khi lo cho người thân và nhân viên thuộc
cấp, chính ông cũng muốn giúp tôi mang gia đình lên tầu HQ với ông (nếu
không có phương tiện di tản nào khác). Sau này tôi được biết ông Hùng
thay vì lên Chiến Hạm, đã có phương tiện máy bay đi vào ngày cận chót.
Như
phóng viên báo chí Hải Quân-Thượng Sĩ Nguyễn Viết Kim tức nhà văn Người
Khăn Trắng, trong ngày 29 tháng 4, nhân việc đi săn tin tức, chở tôi
trên chiếc xe Honda đàn ông đỏ của anh, tâm sự với nhau những lời từ
giã, vì vợ con anh đã ra Vũng Tầu và chờ ra khơi rồi. Anh đang tìm đường
gấp rút ra đi. Chúng tôi nói những lời chia tay từ đó. Trong cơn hỗn
loạn ngày 29-4, thế mà tôi còn gặp Nick Út, Lara (ban Báo Chí Gia Long),
gặp Đệ, ông Ba Lê, Huỳnh (của các hãng thông tấn Hoa Kỳ)… tất cả đều
bối rối… chẳng khác gì tôi.
Như
nhà văn Võ Hà Anh, vừa là Thượng Sĩ phóng viên Báo Chí và cũng nổi
tiếng thời ấy in nhiều tiểu thuyết tên Dung-Võ Hà Anh, Anh rất chu đáo
và lo cho anh em “trong phòng” Báo Chí. Chúng tôi, còn có Thượng
Sĩ phóng viên Triều Dương, Thượng Sĩ Báo Chí Hà Minh Trung, và cô dân
chính Cẩm Vân (học xong năm thứ Tư Công Pháp) để giúp có những giấy tờ
lên máy bay đặc biệt do cơ quan DAO cấp cho thân nhân người Hoa Kỳ… Vợ
chồng nhà văn Dung – Võ Hà Anh, sau vài năm ở lại, lặn lội ngược xuôi
rồi cũng định cư tại Pháp.
Như
HQ Thiếu Tá Nguyễn Đình Sài, tác giả của vài bài thơ hay, thường cho
tôi đọc thời ấy vẫn rất giữ “quân phong quân kỷ” cùng với nhóm sĩ quan
BTL-HQ phải vào doanh trại kiểm soát các toán sĩ quan và đoàn viên trực
gác canh phòng mỗi đêm cho đến hết những đêm cuối… cho tới giờ lên tầu
khuya 29 tháng Tư…
Và
chúng tôi vẫn gặp bạn cũ, HQ Đại Úy Lê Rĩnh, sĩ quan tùy viên của Phó
Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng (là người chí thiết với Tướng Hoàng Cơ Minh tại
vùng Bắc-Mỹ Châu); Nhà thơ Hà Thúc Sinh say mê làm thơ và dịch sách từ
đó, là Trung Uý đơn vị trưởng Hải Tiếp Vụ trong Hải Quân Công Xưởng. Tuy
nhiên Hà Thúc Sinh giống như Võ Hà Anh, Nguyễn Tất Ứng và trường hợp
của nhiều người khác, họ cũng không liên lạc được với máy bay của DAO,
(dù có chủ đích) nhưng với con số người quân đội cần bốc khỏi Sài Gòn
ngày càng tăng, nhiều quân nhân và giới chức Hoa Kỳ vẫn chưa kịp lên máy
bay rời Sài Gòn được…
Và dù biết danh sách các địa điểm trực thăng đón và có danh sách được đón đi, tôi cũng chẳng màng “đi qua điểm hẹn, hoặc chờ nghe bài hát White Christmas sẽ phát trên làn sóng phát thanh quân đội Hoa Kỳ”,
được cho biết mật từ một tuần trước.. như phóng viên báo chí Thượng Sĩ
Võ Hà Anh đã căn dặn, như lời dặn của một cô dân chính (thông dịch viên
tại Phòng 2 thuộc Khối Hành Quân) có uy tín và tiếng nói với Phó Đề Đốc
Nguyễn Hữu Chí. HQ Đại Úy T. trước từng ở Phòng Hai trước năm 1970, vào
khoảng 9 tới 10 giờ sáng 30 tháng 4 trở lại nhìn lại Phòng Hai “vô BTL coi thế nào”
theo yêu cầu của Phó Đề Đốc Nghiêm Văn Phú
đang đợi ngoài sông Vàm Cỏ. Đại Úy T lái Giang Tốc Đỉnh PBR, về đậu
ngay bờ vách trước BTL, về chỉ để từ giã chốn làm việc năm xưa.. Gặp Đại
Úy Tạo đang đứng kiểm soát cổng BTL-HQ, vì là bạn thân thiết cho Đại Úy
T. biết “theo lệnh nghiêm ngặt của Đại Tá Tấn “nắm quyền” Tư Lệnh HQ, ra lệnh không cho ai vô Cao Ốc Mới” nơi có Phòng Hai, nhưng Đại Úy T (**) đã mãn nguyện trở về, nhìn lại Phòng Hai trong những giờ phút cuối cùng của quân chủng.
Tôi
không còn gặp một bạn hữu hoặc nhân viên nào của Phòng Thông-Tin Báo
Chí nữa, mỗi người tán loạn mỗi nơi, như phóng viên Hải Quân-Triều
Dương, Nguyễn Tất Ứng, Thượng sĩ Hà Minh Trung, Dân Chính Cẩm Vân (nhân
viên Dân Chính bị cho nghỉ việc vài ngày trước vì lý do ngân sách Quốc
Phòng không còn để trả lương dân chính)…
Đêm
29–4, vào lúc tôi còn bận tìm người thân trong gia đình, tại Bộ Tư
Lệnh, sĩ quan và đoàn viên họ gọi nhau ơi ới, mở lối đi về hướng cầu tầu
cho quân nhân “Xuống tầu đi kìa, gấp lên tầu rời bến đêm nay...”
Chiếc TV được mang ra đặt giữa cổng ra vào từ đêm 21-4, ông Thiệu đọc
diễn văn từ chức vẫn chớp hình mà không ai muốn nhìn. Không gian đến rợn
người, tôi lại rời BTL, lái xe về nhà với ý định mang gia đình vội vàng
xuống chiến hạm ra đi theo bạn bè, đồng đội.
7- Chi Tiết Di Tản Của Hải Quân Và Ông Armitage
Lúc
này có một sĩ quan liên lạc cấp tốc từ Hoa Thịnh Đốn cử tới là cựu
Thiếu Tá Richard Armitage, , cấp tốc đến VN cùng với Thứ Trưởng Quốc
Phòng đặc trách về Không Quân, Armitage về Hải Quân trong kế hoạch thu
gom chiến cụ và nhân viên HK. Sau này về Mỹ ( thời TT Bush và Bộ Trưởng
Powell ông là thứ trưởng Bộ Ngọai Giao), vẫn giao tiếp với người Việt.
Đề Đốc Trần Văn Chơn lại có cái nhìn khác, ông nói: “Ai đó đánh bóng
tên tuổi ông ta- kệ họ, Armitage chỉ là một sĩ quan liên lạc với Đoàn
Chiến Hạm HQVN… không hơn không kém!” Trong khi bản tin tức từ Chiến Hạm
USS Kirk viết rằng “Armitage góp công lớn trong việc cho quân nhân và
người tị nạn tạm cư tại Phi” trái ngược với lời phát biểu của Đề Đốc
Chơn rằng, khi chính quyền Phi ngăn cản, ông đã can thiệp và thuyết phục
để Phi Luật Tân dành cho người tị nạn thiện cảm và đón nhận“.
Ai cũng có thể hiểu Armitage đã đóng vai trò theo dõi, đôn đốc cuộc “Di
Tản- Lui Binh” êm thắm và “bí ẩn” từ ý muốn của chánh phủ Hoa Kỳ chứ
không hẳn là như “phê phán” của Đề Đốc Chơn và Tư Lệnh Chung Tấn Cang.
Chính vậy Phó Đô Đốc Cang từng cho biết: “ông Armitage cũng không làm điều gì to tát và không tỏ lộ là “người” có quyền chỉ huy trong cuộc di tản như chúng ta lo ngại”… khi nhắc tới vai trò sĩ quan Hoa Kỳ này.
Đối
với chính phủ Hoa Kỳ, có thể ông Armitage lãnh trách vụ trong chiến
dịch mang về quân nhân, viên chức Hoa Kỳ và “chiến cụ chiến lược”, liên
quan đến Hải Quân Mỹ, hoặc gì tàng trữ bí mật còn sót lại. Toàn thể quân
nhân HK tại Sài Gòn lúc ấy chỉ còn khoảng 900 người và chánh phủ HK
quan tâm nhất, cần mang ra khỏi VN an toàn càng sớm càng tốt.
Phó
Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng kể lại: “đã hướng dẫn sĩ quan liên lạc Armitage
thăm quan sát vùng cầu Bình Lợi, quan sát khu Quân Cảng và HQCX sau đó
đi xuống Chiến Hạm HQ 3 rồi chuyển qua HQ 5, và sau đó đón Tướng Cang và
Tướng Diệp Quang Thủy từ một Tiểu Đỉnh lên Soái Hạm, thay vì xuống
chiến hạm từ Bộ Tư Lệnh như bao nhiêu người khác để bảo mật vì đã có sự
chen lấn ở Bến Tầu.
8- Ai Là Quyền Tư Lệnh Cuối Cùng Trên Đất Liền?
Chiều
hôm 29-4-75, Nhóm Báo Chí Hải Quân nhận lệnh theo dõi các diễn biến đi
họp tại Tổng Tham Mưu, như lời kêu gọi. Khuya 29 và rạng sáng ngày 30
tháng 4 lại được lệnh từ Đại Tá Tấn, vai trò của nhân vật số 1 của HQ;
Đại Tá Tấn cũng mời Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng từ Miền Tây về cùng ông
chỉ huy, Tướng Thăng nói “ Chờ tôi lấy trực thăng và sẽ có mặt tại BTL.”
Và đến gần trưa 30 tháng 4 vài giờ trước khi Tổng Thống Minh chính thức
đọc lời đầu hàng lại có sự “xuất hiện” của Đại Tá Trịnh Xuân Phong, Đại
Tá Trần Bình Phú, Trưởng Khối Nhân Viên Bộ Tư Lệnh được Tư Lệnh Cang
(hay ông Tấn) chuyển lại quyền chính thức ra
mặt, ở lại kiểm soát, chỉ huy Hải Quân?.
Nhiều người gọi ông Đại Tá Tấn là Tư Lệnh cuối tháng Tư, và ông cũng ra lệnh cho vài hạm trưởng trong ngày 29-4- “nhân danh Tư Lệnh”
(dù không nói rõ Tư Lệnh tên gì), nhưng không xác định Tư Lệnh là chính
ông hay không? Người ta thấy trong ngày 29 tháng Tư, ông Tấn trong quân
phục đại lễ HQ, có hai xe Jeep Quân Cảnh hộ tống vào Bộ Tư Lệnh HQ.
Người
ta tin rằng Đại Tá Tấn đã được Tổng Thống Dương Văn Minh bổ nhậm bằng
khẩu lệnh ngay sau khi biết ý định của Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang
xin có kế hoạch di tản. Ông Minh nói, “Các anh cứ việc đi và cho mang
theo hai người thân cũng là sĩ quan cao cấp VNCH”, đồng thời từ chối
lên một chiến hạm chuẩn bị chu đáo “dành riêng để nghinh đón Nội Các và
di tản các giới lãnh đạo quốc gia”.
Sau 16 năm tù “cải tạo” cay đắng nhục nhằn, xin đi Hoa Kỳ tị nạn, Đại Tá
Tấn cho biết có ý định định cư tại thành phố Seattle cùng với Đại Tá Dũ
(Cơ Khí), sau đó ông Tấn chuyển về Cali. Khi liên lạc lại được nhau tại
Hoa Kỳ, khi tôi hỏi ông “có phải là quyền Tư Lệnh ngày 30-4 không?” Đại Tá Tấn “giữ thái độ yên lặng với quá khứ- trải qua 16 năm tù khổ nhục mà…!” và ông đã xác nhận vai trò của ông vào “chỉ huy giờ phút chót trong nỗ lực tuyệt vọng này là đúng“. Sau vài lần trò chuyện qua điện thoại, ông Tấn cho biết ông không có dịp giao tiếp trong cộng đồng nhiều…
Bấy
giờ nhiều cánh quân VC đã vào tới Sài Gòn, xe tăng T-54 đã nghiến lòng
đường phố Sài Gòn tới góc đường Đinh Tiên Hoàng, Hiền Vương, Hai Bà
Trưng và nhiều nơi khác. Mặt khác đoàn quân CS Bắc Việt cũng trên đường
tiến tới ủi xập cổng sắt Dinh Độc Lập (đến chính xác vào khoảng thời
gian đã thoả thuận với giới chức Tòa Đại Sứ HK) và họ đòi chánh phủ VNCH
phải đầu hàng.
Vài
giờ trước đó, HQ Đại Tá Trần Bình Phú, Trưởng Khối Nhân Viên BTL-HQ
cũng được các sĩ quan tham mưu và nhân viên có mặt lúc ấy xác nhận ông
là người “ra mặt” chỉ huy tại Bộ Tư Lệnh HQ. HQ Trung uý Đỗ Anh Tuấn em
vợ của Đại Tá Trần Bình Phú cùng với HQ Trung Tá Phan Ngọc Xuân chỉ huy
trưởng Tổng Hành Dinh BTL/HQ tiếp tục cầm súng chỉ huy những vị này và
vài sĩ quan, hạ sĩ quan thuộc Khối An Ninh đi theo Đại Tá Tấn là những
người cuối cùng tôi gặp và từ giã ở vòng vây rào kẽm gai chằng chịt cản
lối ra vào.
9- BTL/HQ Bỏ Ngỏ Từ Lúc Tổng Thống qua Đài Phát Thanh, ban hành lệnh Buông Súng- Chờ Bàn Giao
Giờ
phút ấy tôi không nghĩ được: phải làm gì, bỏ chạy ra xe về đón gia đình
xuống tàu hay loanh quanh vài điểm hẹn “chờ Trực Thăng”? Không hiểu tại
sao giờ phút đó chúng tôi còn đủ bình tĩnh, không sợ pháo kích và T-54
càn nát người và tiến vào vòng rào Hải Quân không chừng. Một trong những
người may mắn cuối do ân huệ của Trung Tá Xuân (Tổng Hành Dinh) có cơ
hội lên tàu ngày cuối cùng tại Bến Bạch Đằng đó là nhà thơ Du Tử Lê (là
đại úy phòng Báo Chí-Tâm Lý Chiến).
Trong
giờ phút căng thẳng tôi nghe theo lời yêu cầu của người bạn, chỉ biết
Trung Úy Đỗ Anh Tuấn là người bạn tình nguyện trong “Công Tác Y Tế Xã
Hội” (COMITA) ở trường Taberd có cả Thiếu Tá Y Sĩ Trần Đức Tường -SĐDù.
Tuấn nói tôi lấy súng, bảo đứng cùng trong đội ngũ bảo vệ cuối cùng ở Bộ
Tư Lệnh dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phú. Tôi làm theo yêu cầu, cho
đến khi biết rằng: Thật sự tuyệt vọng rồi, như lời anh Đệ thông tấn viên
truyền hình ABC, anh Nick Út của hãng thông tấn AP, hai anh hôm trước
đến chia tay tôi tại BTL/HQ và muốn rủ cô em Bình Minh cùng theo anh lên
máy bay Hoa Kỳ. Họ đưa tôi bản tin từ tờ New York Times từ
ngày 24-4-75 viết về sự thất thủ đã là sự thực không chối cãi được khi
viện trợ Hoa Kỳ cho VNCH đã bị ngưng. Chấm dứt bao nhiêu năm sát cánh:
với 58,000 người lính Hoa Kỳ tử vong có lúc quân số lính Mỹ ở VN lên tới
trên nửa triệu người, cũng như tổng cộng gần 200 tỷ đô la đã tiêu pha
cho cuộc chiến tranh VN, với khoảng 500 triệu cho tài khoá năm cuối. Thế
mà bản tin những ngày cuối cùng tôi nghe được qua radio cho biết “viện
trợ của HK sẽ không bằng hiện kim mà viện trợ bằng thuốc lá-(bán ra tính
thành tiền?) dự trù cho tài khoá sau 1975 cũng bị cắt đứt. Hải Quân lúc
ấy có quân số trên 40 ngàn chiến sĩ… nhưng viện trợ nay thực sự bị cắt
ngang rồi!
“Hãy
rời Sài Gòn ngay hôm nay đi – không thể là ngày mai!”. Phóng viên AP,
Nick Út, và Đệ của Hệ thống Truyền hình Hoa Kỳ ABC và ông phóng viên Ba
Lê của Truyền Hình Nhật NHK cùng nói như vậy. “Đừng để quá muộn!”
Cũng vào gần buổi trưa, Trung Tướng Vĩnh Lộc rời Bộ TTM và Trung Tướng
Trần Văn Trung cũng đi vào Bến Bạch Đằng tìm gặp Đại Tá Tấn tìm tầu ra
đi. Lúc này thì công trường Bạch Đằng cũng vẫn còn nhiều người chen lấn.
Trước đó một giờ, Tiến Sĩ Lê Đình Chi, cùng với gia đình ông có Lê Đình
Cẩm, Nguyễn Hữu Phúc (Puyallup-WA), Huyên (Pháp)… là những người thân
cũ trên một chiếc xe van đến cổng BTL kiếm chúng tôi tìm đường ra đi, họ
gặp được tôi, may mắn nhưng cũng đang vô cùng bối rối, may mắn gặp được
Trung Tá Linh chờ cùng đi với họ trên bất cứ chiếc tầu nào đó, nếu giờ
phút “thua trận” tan hàng xảy đến.
Về sự kiện rời Bến Bạch Đằng trưa ngày 30-4, HQ Thiếu Tá Tuần Giang Trần Thiện Hiệp sau này khi gặp nhau, thường kể lại: “trong
một may mắn bất ngờ sau khi chờ đợi được đi theo cựu Tư Lệnh Trần Văn
Chơn, biết ý định của ông Chơn, Hiệp đã nhẩy xuống chiếc LCM Giang Cảnh
đậu gần HQCX, nhờ vậy mà có cơ hội mang theo được hai vị tướng Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa vào giờ chót.”. Tướng Trần Văn Trung và Tướng Vĩnh
Lộc lúc ấy là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực đã đến gặp Đại Tá Tấn, báo
tin đã có văn thư “tan hàng” của Tổng Thống Minh mà ông có mang theo
đây. Trong việc này Đại Tá Tấn kể lại: “chính tôi đã giúp
Tướng Vĩnh Lộc Tổng Tham Mưu Trưởng rời Sài Gòn, đúng vào lúc tướng Nguyễn Hữu Hạnh lên thay“.
Tướng
Vĩnh Lộc trước đó cũng đã từng kêu gọi “giữ vững tay súng”; trước đó
Tướng Lộc cũng miệt thị Đại Tướng Viên về hành động đào tẩu. “Nhưng
vào sáng ngày 30 tháng Tư, Tướng Vĩnh Lộc đã nhờ Trung Uý Hùng (Quân
Cảnh) trên xe Jeep Quân Cảnh hộ tống đưa ông tới Đài Phát Thanh Sài Gòn
để (ông) gửi đi thêm một thông điệp mới”. Thay vì tới đài phát thanh,
Tướng Lộc đã đổi hướng về phía Bến Chương Dương và chia tay.. ở Bộ Tư
Lệnh Hải Quân” theo lời Trung úy Hùng chua chát, kể lại với các bạn tù thời đi tù “cải tạo” Suối Máu. Trong khi đó Đại Tá Tấn thì kể rằng “(hai
người đã gặp nhau từ sáng sớm khi
họp chung ở TTM); rồi đến trưa có biến cố mới- Tướng Vĩnh Lộc đã đến
BTL-HQ tìm đường ra đi, cho biết: “đã có giấy tờ chính thức sẽ bàn giao
(đầu hàng) của Đại Tướng Dương Văn Minh“.
Vào
sáng ngày này, hệ thống vô tuyến liên lạc nội bộ hành quân có rất nhiều
lời gọi tha thiết từ máy của các tướng tá, sĩ quan Bộ Binh thiết tha
kêu gọi: “Các anh Hải Quân ơi, chờ chúng tôi đi với, hãy cứu lấy
chúng tôi vì phi trường Tân Sơn Nhất cũng đã tan nát rồi. Đâu còn ngã
nào để tránh CS đâu? – VC đã vào tới. Hải Quân đừng đi vội, kiên nhẫn
chờ cứu chúng tôi.” Hạm Trưởng Hùng (HQ-2) kể lại với lòng ngậm ngùi như dao cắt, sau bao năm đã trôi qua…
* * *
Nhưng
bấy giờ là trưa 30 tháng Tư – “quá muộn thật rồi”… Các nẻo đường đã rền
tiếng xe tăng T-54, qua Lăng Cha Cả, qua cầu Trương Minh Giảng (có
chiếc bị bắn lử bốc cháy cao ngút), T-54 qua Bà Quẹo, có nơi bị Biệt
Động Quân và Nhảy Dù chống trả và tiếng đạn pháo kích thi nhau rền vang
rất gần, và súng đã cùng với quân phục mũ nón vung vãi chất đống khắp
nẻo đường từ BTL/HQ về tới Phú Nhuận nơi tôi đang cư trú tạm để gần với
BTL-HQ hơn.
Khác
với Đại Tá Tấn có mặt ngày 30-4, rồi ở lại, rồi… đi tù trên 16 năm, Đại
Tá Phú cũng xuất hiện như chớp nhoáng từ sáng đến trưa- ngày 30-4;
nhưng Đại Tá Phú cùng Trung Úy Tuấn “đã kịp rời Bến Bạch Đằng ra biển lớn ngay vào giờ phút ông Minh đọc lời đầu hàng trên radio”. Tuấn đã kể lại cho tôi nghe sau này, khi biết tin anh đã định cư ở miền Đông Hoa Kỳ với gia đình.
Và
giờ phút cuối cùng ấy đã đến, đã xảy ra thật. Nhanh chóng như một chợp
mắt. Từ đó radio đã nhiều lần đọc lời kêu gọi buông súng và “bàn giao”.
Thôi thế là hết tất cả, không theo tầu di tản về Miền Tây, không ra Phú
Quốc, và cũng không được theo tầu ra khơi đi tị nạn. – Thôi… đành thôi.!
Tôi rời Công Trường Bạch Đằng có tượng đài Đức Thánh Trần uy linh, tay chỉ về hướng biển.
Nơi cổng vào Bộ Tư Lệnh, tôi tìm Tuấn, tìm Trung Tá Linh, tìm gia đình
các bạn, TS Lê Đình Chi, sau đó tôi lái xe lách xe qua những tốp người
đang hôi của tại khách sạn và căn cứ Mỹ tại các cao ốc xung quanh Bộ Tư
Lệnh Hải Quân, để về nhà đón người thân yêu ra đi.
Tôi
về thẳng nhà đón gia đình, trở lại Bến Bạch Đằng và chạy tiếp tới Đặc
Khu Rừng Sát để tìm tàu rời Sài Gòn, thì bến bờ đã trở thành hoang vắng…
Vô phương trong lúc tiếng pháo kích nổ vang đây đó.
Lòng cảm thấy như ông Dương Văn Minh đã mở “Lỗ Lù”
(*) của chiến hạm đời tôi…. Lúc ấy tôi cảm thấy như đã quá muộn, tôi
như lặng lờ chết chìm, chìm dần… khoan thai xuống lòng biển.
Như
từ đáy biển sâu, tôi cầu mong cho vài chục chiến hạm và vài chục ngàn
quân nhân và dân chúng miền Nam đi thoát được, khai mở ra những đợt
thuyền nhân kế tiếp, Nếu họ không tập trung chiến đấu ở Miền Tây được,
thì cũng tiếp tục “Khai phá mở mang bờ cõi sơn hà theo bước chân tiền nhân” bằng hình thức “mang Việt Nam ra khơi tới khắp Năm Châu, tận cuối chân trời và trên toàn cõi địa cầu.”
No comments:
Post a Comment