Ðầu tháng 9-96,
báo Ngày Nay ở Houston có đăng một lá thư, tác giả là một người đàn bà
ký tên Nga (Sàigòn) gửi cho người yêu cũ Duy, tức Ðại Tá Không Quân Ðặng
Duy Lạc, người đã viết đoản văn "Giòng Ðời" trên Ðặc san Ngàn Sao của
Hội Không Quân Houston, số mùa Hè 92 với bút danh Duy Lạc.
|
Tr/Tá Phạm Văn Phạm Phi đoàn 524 (Thiên Lôi),
Kingbee Đặng Quỳnh PĐ219,
Trung Tá Đặng Duy Lạc ( sau này là Đại Tá) bắt tay với
Trung Tá Nguyễn Văn Nghĩa (PĐT/PĐ 219) hình chụp năm 1973 Trung Tá Nghĩa vừa mới gắn lon
|
"Giòng Ðời" là một bài văn hồi tưởng về cuộc tình lỡ của tác giả trong thời niên thiếu.
Ðó
là mối tình đầu, như rất nhiều mối tình đầu dang dở khác, ở cái thời
đại mà tình yêu trai gái coi như trái cấm bởi vòng rào luân lý, và quan
niệm tương giao nam nữ khắt khe của xã hội đương thời. Biết bao mối tình
trong sáng, ngây thơ, chất phác, như những đóa hoa yêu e lệ nở rụt rè,
rồi tan vỡ, để lại trong văn chương nhiều chuyện tình đẫm lệ, dư âm còn
mãi đến bây giờ. Trong phần giới thiệu, Ngày Nay viết:
"...
Tác giả (Duy Lạc) kể lại mối tình đầu của mình vào thời niên thiếu, lúc
cắp sách đến trường huyện với một người con gái tên Nga học cùng lớp.
Lúc đó, vào dịp toàn dân kháng Pháp, 1945. Thời thế sau đó đổi thay, ông
Duy Lạc vào Nam, rồi trở thành một Sĩ quan Không Quân Việt Nam Cộng
Hòa. Còn cô Nga trở thành một người lính của phía bên kia, vượt Trường
Sơn vào Nam". Chuyện
không ngờ là tờ Ngàn Sao lọt được về Sàigòn, và cô Nga ngày xưa được
đọc bài "Giòng Ðời" và sau đó, viết một bài chuyển ra ngoài với tên "Hồi
Âm Giòng Ðời"... Ðây là một bức thư tâm tình riêng tư
giữa hai người bạn lòng, nhưng tình tiết ghi lại một giai đoạn phân ly
nghiệt ngã của đất nước..." Bài
"Hồi Âm Giòng Ðời" đăng trên Ngày Nay đã gây một xôn xao dư luận, nhất
là trong dư luận Không Quân. Ở một vài nơi, có những báo khác đăng lại.
Ðây là chuyện tình cảm động của thế hệ chúng ta, với đầy đủ tính cách bi
thương, lãng mạn, chung thủy và đằm thắm biết bao, trong bối cảnh đau
thương của đất nước, với cuộc phân tranh đối đầu chủ nghĩa, huynh đệ
tương tàn. Lý
Tưởng dăng lại bài văn "Hồi Âm Giòng Ðời", vì thứ nhất, ngoài
tính chất bi thảm của một câu chuyện đầy bi thảm, còn vì cái đoạn kết
bất ngờ và đau xót là Ðại Tá Ðặng Duy Lạc đã chết đường đột, ít ngày sau
khi bài báo được phổ biến. Có thể chăng, lá thư tình gởi muộn đã làm
anh rúng động và cảm xúc, vì ăn năn, hờn trách mình ngày xưa đã rụt rè,
yêu không dám ngỏ và đã hiểu lầm, hóa nên cuộc tình thành chia biệt 40
năm...? Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều... (Kiều) Phải
chăng chính cái tâm "quán tưởng" theo kinh Phật mà Nguyễn Du đề cập đến
rất nhiều lần trong truyện Kiều, đã khiến con
người nòi tình nghệ sĩ Ðặng Duy Lạc tưởng tượng thêm ra những tình tiết
đẹp đẽ cho mối duyên dang dở, để càng nặng lòng tiếc nuối, âu sầu, đắm
đuối mình trong niềm ai oán với trò chơi nghiệt ngã của định mệnh? Anh
khổ dau, dằn vặt bởi giòng chữ bùi ngùi thương tội "Anh đã từ phương xa
lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một vết thương, rồi anh lẳng
lặng ra đi không một lời từ biệt..." khiến "Anh Duy thân mến" của Nga
đã bơi ngược giòng đời, day dứt niềm thương, đem xuống tuyền đài mối
tình đằng đẳng chưa tan. Thứ
nữa, "Hồi Âm Giòng Ðời" của Nga Sàigòn có một giá trị văn chương cao
vượt trên "Giòng Ðời" của Duy Lạc khó
mà phủ nhận. Người nữ đó đã sống hết ngả truân chuyên, trôi cuốn theo
giòng cuồng lưu vận nước, vô độ thảm thương hơn thân phận Thúy Kiều, khổ
đau và tủi nhục trên cả Lara trong "Dr. Jivago", vượt xa cơn khốn khó
của Catherine Barkley trong "A Farawell To Arms". Những nhân vật nữ đa
truân của văn chương nhân loại. Người đàn bà tên Nga đã cho đi ở lứa
tuổi thanh xuân đẹp đẽ đó, cả cuộc đời nàng vì lý tưởng thiêng liêng
dành cho đất nước, thủy chung ôm giữ mối tình đầu câm lặng cùng niềm u
oán... Ðể bốn chục năm sau, bàng hoàng sống lại nguyên tròn cảm giác bồi
hồi xưa cũ, nửa đêm ngồi viết lá thư dài, gửi "Anh Duy dấu yêu" những
lời nồng nàng tha thiết, bây giờ mới ngỏ... Ðể tim người tình năm xưa
quặn thắt và đau buốt nhức,
tay cầm tờ thơ cũng run lên, như trước đây, bên trời xa mù tắp, Nga
cũng run lên "còn hơn bị B-52 trải thảm", khi đọc "Giòng Ðời" trên giai phẩm Ngàn Sao. Thiên
tình sử đã được viết ra bằng những giòng chữ đầm đìa ngấn lệ, văn
chương tới độ chân thành, cảm động, khiến hoe rưng người đọc. Thêm vào
đó, "Hồi Âm Giòng Ðời" còn là một tác phẩm sâu sắc, tát thẳng vào mặt
chế độ với những giòng chữ viết ra từ một người theo cách mạng... Ðó là
tâm trạng não nề của "người đàn bà góa bụa mái tóc đã bắt đầu điểm sương
ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng trái đất... "Hồi Âm Giòng Ðời" nói lên đầy đủ cái thảm kịch của
thế hệ chúng ta, của phần số đau thương bất hạnh dân tộc ta gánh chịu.
Lý Tưởng trân trọng mời bạn đọc theo dõi và cảm xúc với từng giòng chữ
phô diễn chân thành tâm trạng người viết, để hiểu tại sao cái khổ đau
ray rứt đã khiến ông Ðại Tá Phi công Khu trục Ðặng Duy Lạc không gượng
nổi, phải từ giã anh em, từ giã bạn bè để ra đi mang theo tình yêu thánh
hóa sang bên kia thế giới... (Ðào Vũ Anh Hùng)
======================================================
GIÒNG ÐỜI Duy Lạc.
Tôi
sinh ra vào thế hệ của thập niên 30. Thế hệ của chúng tôi chịu nhiều
xáo trộn điên đảo nhất trong giòng lịch sử 60 năm của dân tộc
(1930-1990).
Chúng
tôi may mắn là nhân chứng của nhiều sự hưng vong của bao chế độ và cuối
cùng được nhìn tận mắt sự sụp đổ ngoạn mục của chế độ Cộng sản bạo
ngược khắp thế giới. Ðó cũng là một niềm an ủi cuối đời cho thế hệ chúng
tôi, những người chống cộng sản phải bỏ nước ra đi lang thang, bơ vơ,
chịu nhiều bất hạnh, mang nhiều nổi đau buồn trên đất khách. Ngày
xưa từ tuổi nhi đồng qua thời niên thiếu, chúng tôi chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của luân lý đạo đức Khổng Mạnh qua các tập "Luân Lý Giáo Khoa Thư" ở
nhà trường. Trong xã hội lúc bấy giờ, một thời văn
chương lãng mạn của các nhà thơ: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư,
Hàng Mạc Tử, Chế Lan Viên.v.v... và nhóm chủ trương Tự Lực Văn Ðoàn của
Nhất Linh đã mang lại cho chúng tôi một ít mơ mộng về tình yêu (Hồn Bướm
Mơ Tiên), hay ý thức mơ hồ về các hoạt động cách mạng (Ðôi Bạn). Sau đó
từ năm 1935-1945, dòng nhạc tiền chiến trữ tình và lòng yêu nước của
Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Phạm Duy,Tô Vũ, Ðặng Thế Phong.v.v... đã thật sự
thấm nhập tâm hồn tuổi trẻ vừa lãng mạn vừa khơi động tình yêu tổ quốc
của tuổi thanh niên. Kế
đến thế chiến thứ hai vào giai đoạn chót bộc phát dữ dội. Bom đạn của
chiến tranh bắt đầu tàn phá quê hương.
Nương theo sự thất trận của Nhật, nhiều phong trào yêu nước chống Pháp
nổi dậy, cuối cùng đi đến ngày 19-8-1945, ngày toàn quốc khởi nghĩa mà
bọn Việt Minh Cộng sản quỷ quyệt cướp lấy công đầu. Và cũng từ hoàn cảnh
đó, đám thanh niên thế hệ chúng tôi một số vào rừng, vào bưng, vào
chiến khu để theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc. Một số khác vì còn
trẻ tuổi, phải bỏ thành phố tản mác về vùng quê để tạm lánh cư. Cũng
như mọi gia đình khác, cha mẹ chúng tôi vội vã bỏ hết gia sản chạy về
vùng quê miền Trung. Từ đó đời tôi bắt đầu một khúc quanh: cơ cực cũng
lắm, hạnh phúc cũng nhiều, chạy dài suốt một thời niên thiếu. Tôi
dần dần yêu thích cảnh sống đồng quê. Say sưa với núi cao, biển rộng,
rừng thông, đồi cát, ruộng mía nương khoai với những hình ảnh của đình
chùa, miếu mão. Tôi yêu thương làng tôi qua lũy tre xanh. Con đường nho
nhỏ thông reo. Ngôi đình cổ kính nằm bên chân đồi. Tôi mê nhất những
buổi trưa hè ngồi nghe tiếng thông vi vu, réo rắt một điệu nhạc buồn như
tiếng sáo diều từ lưng đồi vọng lại. Tuổi
thơ của tôi thấm đậm tình quê hương từ những ngày tháng êm đềm thơ dại
đó. Những năm đầu kháng chiến, gia đình tôi chưa đến nỗi sa sút. Tôi
được đi học tại trường Trung học cấp huyện, cất ngay trong làng. Ở miệt
thôn quê thời kháng chiến,
sự học hành bị gián đoạn nên học sinh tuy ngồi chung lớp nhưng tuổi tác
chênh lệch nhau. Trong lớp "Ðệ nhất niên" của tôi có độ mươi cô nữ
sinh. Các cô thuộc người làng hoặc từ những làng kế cận đến học. Phần
nhiều nữ sinh thuộc gia đình giàu có trong đám hương mục ngày xưa như
Chánh Tổng, Xã Trưởng, Hương Lý, Hương Hộ.v.v...
Các cô tuy là gái quê nhưng trông cũng xinh đẹp lượt là lắm.
Tôi
thời đó học hành dốt nát, chỉ thích lêu lỏng ngoài đường. Chuyện nhà
trốn tránh, chuyện bạn bè thì mau mắn. Tôi lang thang suốt xóm trên làng
dưới, tập đàn ca với đám nữ sinh cùng lớp, ít khi có mặt ở nhà ...
Công việc nặng nhọc trong gia đình tôi giao cho chú em kế gánh vác. Mẹ già nhiều lúc mắng mỏ rầy la, tôi vẫn trơ mặt thịt. Ðã
vậy tôi còn tơ tưởng yêu đương. Tôi yêu tha thiết một cô em tên Nga
cùng lớp. Em ngồi dãy bàn trước mặt. Tôi còn nhớ chiếc áo chemise lụa
mỏng và chiếc quần lãnh đen của em. Em có đôi mắt nhung huyền sâu thẳm
như đáy hồ thu mà tôi tự nguyện chết đuối trong đó những lần em quay lại
nhìn tôi cầu cứu. Ðôi môi em đỏ hồng gợi cảm. Những lúc em ban phát cho
tôi một nụ cười cám ơn khi tôi cho cóp bi bài toán là những lần tim tôi
như ngừng đập. Em thường
liếc xéo tôi mỗi khi tôi trêu chọc. Cái nguýt dài, con mắt có đuôi, kèm
theo một nụ cười mỉm của cô gái dậy thì, có lúc là một "message" ưng
chịu kín đáo của thời đó. Thật
tình lúc bấy giờ tôi không đoán được Nga có cảm tình gì với tôi chưa.
Nhưng riêng tôi, tôi đã mê tít nàng. Cứ mỗi ngày cô em nghỉ học là mỗi
ngày tôi thẩn thờ nhớ nhung. Tôi tương tư nàng như Nguyễn Bính tương tư
"Cô hàng xóm" Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái dậu mồng tơi
xanh dờn... Tuy
yêu thương mê mẩn như thế, tôi chưa dám nói một lời yêu thương cùng
nàng. Hồi đó tôi đen đúa xấu trai. Tóc chải bảy ba có thên một chút
tango ổ quạ ngay trước trán (thời trang 1945). Tôi gầy đét và cao lêu
nghiêu như cây sậy. Thật tình nhìn kỹ tôi chả giống con giáp nào! Tôi
chỉ được tiếng "người Sàigòn" và một chút tài mọn về đàn ca hát xướng.
Vì vậy, tôi chủ quan nghĩ rằng em đã cảm tình với tôi. Một hôm vào dịp
nhà trường tổ chức đi cắm trại qua đêm ở một rừng dừa ven biển. Dĩ nhiên
tối hôm ấy có đốt lửa trại và thi đua văn nghệ, giữa mấy trăm học sinh
cùng trường. Tôi táo bạo ghi tên tham dự, cốt để chứng tỏ
với Nga về khả năng văn nghệ của mình.. Ðêm hôm đó, trước đám đông đảo
học sinh, tôi đơn ca bản nhạc "Nhớ Chiến Khu", một bài ca tủ của tôi,
"Còn đâu trong chiến khu trên rừng chiều. Bên đèo tiếng suối reo, ngàn
thông réo..." Tôi đang mơ màng vừa ca vừa diễn xuất bộ mặt sầu sầu của
anh Vệ quốc Quân nhớ nhà, nào ngờ đến đoạn cao nhất của bài hát, một
phần vì khớp, một phần vì nhìn thấy cô nàng đang theo dõi mình, tự nhiên
tôi té giọng kim, dứt đoạn, rồi ngừng ngang nửa chừng. Tôi đúng như
trời trồng giữa tiếng vỗ tay la ó của đám học sinh. Tôi xấu hổ, tay chân
thừa thải, mặt đỏ bừng chỉ muốn độn thổ cho xong. Tội nghiệp Nga, nàng
cúi đầu thương hại cho tôi. Rồi
có một lần, chuyện phải đến đã đến, Nga ngỏ lời mời tôi đến nhà nàng
chơi vào chiều thứ bảy. Tôi sung sướng nhận lời. Dịp này nhất định tôi
sẽ bộc lộ tâm sự với nàng bằng một lá thơ. Mấy ngày liền tôi ngồi nắn
nót viết bức thư tình đầu tiên. Tôi còn nhớ rõ bức thư viết dài và hay
lắm. Tôi diễn tả mối tình say đắm của mình. Văn chương lãng mạn và ướt
át vô cùng. Trong
bức thư tôi còn làm dáng về vốn Pháp văn của mình bằng hai câu bất hủ
"L'homme sans amour comme La Terre sans Lumière" mà tôi thuổng được ở
mấy bức thư tình của bà chị tôi. Chiều hôm ấy, tôi băng mấy cánh rừng
dương để
đến nhà nàng. Nhà
Nga xinh xắn bao quanh bởi một vườn cau và một hàng rào bông bụp tím
nhạt. Vườn có nhiều hoa và cây ăn trái. Tôi dạo chơi thơ thẩn trong vườn
cùng nàng suốt buổi tối. Nàng bóc bưởi mời tôi ăn. Tôi trèo cây hái khế
tặng nàng. Cứ như thế mãi cho đến khi trăng treo đầu ngọn cau và hoa
bưởi bắt đầu tỏa hương thơm ngát, tôi mới từ giã nàng. Trước khi về tôi
dúi vội bức thư vào tay nàng. Nàng ngập ngừng e thẹn nhận lấy thư tôi. Sau
ngày trao bức thư tình, tôi cảm thấy yêu đời, mơ mộng nhiều hơn. Và
trong khi tôi nao nức đợi chờ
hồi âm, thì hởi ơi! Hai câu Pháp văn bất hủ tôi viết cho nàng được loan
truyền khắp nơi nhất là trong đám nữ sinh. Mấy bà chị họ, mỗi lần gặp
tôi đều tủm tỉm cười, làm tôi xấu hổ vô cùng. Tôi loáng thoáng đoán rằng
tôi đã lầm và quá chủ quan, chớ nàng không hề yêu thương hay tình cảm
gì với tôi. Nàng đã đem bức thư của tôi bêu rếu để làm trò cười. Từ đó
tôi không nhìn nàng. Tôi đau khổ hận đời, hận nàng và trốn học luôn... Cho
đến một ngày trước khi xuống tàu bỏ trốn vào Nam, vì vô tình hay cố ý,
Nga chận tôi trên con đường làng vắng vẻ, gương mặt xanh xao, ánh mắt
buồn buồn. Nàng khóc thật nhiều và giải thích với tôi rằng
nàng đã yêu tôi. Chuyện bức thư là lỗi bất cẩn của nàng (Nga cho người
bạn gái mượn quyển sách trong đó có dấu bức thư). Nàng
trách tôi tại sao bỏ học và trốn tránh không nhìn mặt nàng. Lần đầu
tiên tôi run run cầm tay nàng, nhìn sâu vào đôi mắt lệ nhạt nhòa, thổn
thức không nói một lời, bởi vì ngày tôi nhận được hạnh phúc tình yêu đầu
đời và cũng là ngày tôi xót xa chia tay mối tình học trò ngắn ngủi đó.
Ngày hôm đó, tôi đau đớn vĩnh biệt Nga mà chính nàng không hề hay biết. Con thuyền đưa tôi vào Nam chập chùng giông bão. Giông bão xô dạt
con thuyền. Giông bão ngay trong lòng tôi... Tôi
có người em kế, cùng trạc tuổi. Chúng tôi là hai thái cực. Chú Lâm hiền
hòa thích sống trong gia đình. Tôi mê cuộc đời hải hồ lang bạt. Lớn
lên, hai anh em cùng vào quân đội. Tôi đi lính Không Quân đồn trú tại
Pleiku. Chú đi sĩ quan Thủ Ðức đóng đồn ở Daksut. Những ngày cao nguyên
sôi động, nhiều lần từ trời cao, tôi xót xa nhìn chú bị vây hãm dưới
đồn. Anh em tuy đóng quân cùng một vùng nhưng chả bao giờ gặp nhau.
Thỉnh thoảng hành quân ngang đồn, tôi bay thấp để chào chú, hoặc liên
lạc FM để thăm hỏi sức khỏe và nhắn tin nhà, thế thôi. Vậy mà chú Lâm
vẫn vui vẻ sống cuộc đời gian khổ bộ
binh. Mãi
đến ngày bỏ nước ra đi, chú ra đi một mình không kịp đón gia đình vợ
con. Những năm tháng xa quê hương, chú Lâm vẫn sống cảnh đơn lẻ ở một
tiểu bang xa lắc xa lơ. Nhưng mấy năm gần đây, chắc có lẽ chịu hết nổi
cảnh "Ðồn Lẻ Chiều Xuân" chú đã âm thầm bước thêm bước nữa để nếm mùi
"một cảnh hai quê". Thật tội nghiệp! Hôm
Tết vừa qua, nhân dịp đi công tác cho hãng ở Hà Nội. Lâm ghé Sàigòn
thăm nhà và về làng thăm quê cũ. Một sự việc bất ngờ và cảm động là chú
Lâm đã tìm được dấu tích của Nga ngày xưa. Ðuợc biết nàng
đã trốn ra Bắc năm 1956 và sau ngày Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam,
nàng trở về với quân hàm Ðại úy và là vợ lẽ của một ông tướng già Việt
cộng. Hiện nay nàng đang ở Sàigòn, khu cư xá sĩ quan Chí Hòa và ông
tướng già đã chết. Trước khi trở về Mỹ, Lâm có đến tìm gặp nàng. Nga
sững sốt mừng rỡ khi nhận ra Lâm em của tôi. Nàng vui vẻ kể chuyện xưa
về tôi với chú Lâm và nói rõ lý do vì sao nàng bỏ xứ ra đi. Trong câu
chuyện thăm hỏi, Lâm đã cố khơi lại chuyện tình ngày xưa của chúng tôi.
Lâm nói: "Anh tôi vẫn nhắc nhớ về chị." Nàng cúi đầu lặng lẽ, giọng buồn
buồn: "Dạ vâng, tôi đoán thế." Và nàng cảm động cho biết người làng đã
kể: Có lần tôi một mình lái xe về thăm vườn cũ tìm lại người xưa, và
người xưa không còn nữa.
Lâm tiếp tục thăm dò: "Chị có biết anh tôi ngày xưa làm gì không?" "Dạ
tôi biết, nghe nói anh ấy là một phi công trong Không Lực Cộng Hòa."
"Chị có oán hận, căm thù gì chúng tôi không?" Nga lắc đầu cười chua
chát, "Tôi không nghĩ đến điều đó, và chẳng bao giờ nghĩ như vậy, nhất
là đối với anh ấy..." Nàng
trả lời với đôi mắt mơ màng xa vắng. Chắc có lẽ chú Lâm đã vô tình khơi
dậy những kỹ niệm thời học trò của nàng. Những kỹ niệm tưởng như đã
chôn vùi dưới lớp bụi thời gian sau bốn mươi năm xa cách. Và
trong buổi chiều hôm đó, theo lời
nhật xét của chú Lâm. Nga như "lội ngược giòng thời gian" tìm sống lại
quảng đời con gái ngây thơ, cùng với mối tình thơ mộng và đẹp nhất của
đời nàng. Vì đó là mối tình đầu và mối tình không có đoạn cuối. ===================================== Hồi Âm "GIÒNG ÐỜI..." - Nga Sàigòn.
Em
ngồi viết lá thư này cho anh khi cơn mưa vừa mới tạnh. Cơn giông miền
nhiệt đới ào ạt, kéo dài độ chừng hai tiếng đồng hồ, nhưng cũng đã làm
cho cái nóng oi bức của Sàigòn dịu bớt. Mưa đã dứt, chỉ còn những giọt
nước nhỏ thỉnh thoảng tí tách rơi trên miếng tôn mỏng hứng nước bên hiên
nhà. Nghe tiếng giọt nước gõ đều đặn, rồi nghe tiếng nhịp tim mình đập,
em bỗng thấy hình như mình mang một tâm trạng bồi hồi. Ðặt bút viết là
thư này cho anh, lòng em cũng cảm thấy bồi hồi như thủa ấy cầm tay anh
lần đầu, mà không ngờ cũng là lần chào ly biệt....
Không biết rồi lá thư này có thể đến tay anh? Nếu may mà thư đến, đọc
xong anh sẽ nghĩ gì? Thôi em cũng liều... Cầm bằng như gió mang đi. Tuần
trước em đến thăm chị Hạnh, người bạn làm việc cùng cơ quan với em
trước đây. Chị ấy xin phục viên sớm, vì đồng lương nhà nước trả không đủ
sống. Chưa kể là đôi ba tháng nhà nước không có tiền phát cho nhân
viên. Chị Hạnh bây giờ làm nghề buôn chui sách báo nước ngoài. Ở chỗ này
thì em phải giải thích thì anh mới rõ tại sao ngày nay nước mình lại có
cái nghề lạ như vậy. Từ ngày các nước xã hội chủ nghĩa anh em ngưng
viện trợ, nhà nước cần ngoại tệ nên họ đã mở cửa, khuyến khích người
Việt ở nước ngoài về thăm quê hương. Tuy có lệnh kiểm soát gắt gao ở
các cửa khẩu hải quan những món hàng quốc cấm như sách báo tuyên truyền
của phe tư bản, nhưng tệ nạn tham nhũng tràn lan không có cách gì ngăn
cản nổi. Vì thế, du khách chỉ cần đút lót vài ba bao thuốc thơm, chiếc
đồng hồ rẻ tiền..v.v... thì cái gì to như con voi qua cũng lọt. Người
dân ở quê nhà bây giờ không ai thèm đọc báo nhà nước, ngày nào ngày ấy
tin tức đều nhai đi nhai lại một luận điệu cũ rích. Người ta còn khôi
hài nói rằng chỉ có tin tức khí tượng là không sặc mùi tuyên truyền, còn
hầu hết đều... cuội! Vì thế dân chúng mới lén lút thuê hoặc mua lại báo
chí bằng Việt ngữ hay bằng ngoại ngữ xuất bản tại nước ngoài. Gặp em, chị ấy vội kéo vào buồng trong nói nhỏ: - Này Nga, tôi có món quà này, chắc Nga sẽ thích vô cùng Em chưa kịp hỏi chi ấy món quà gì, chị Hạnh đã dúi vào tay em một tờ báo. Chị nói: - Dấu cho kỹ vào người đi! Về nhà, chờ đêm khuya thanh vắng rồi hãy đem ra đọc. Ðọc để xúc động vì "người ta" còn nhớ tới mình! Nhìn
trang bìa tờ báo có hình một nửa chiếc máy bay phản lực đậu trên phi
đạo và tên tờ báo là Ngàn Sao, lại nghe chị Hạnh nói bóng gió xa xôi, em
linh cảm một điều gì đó rất mơ hồ. Nửa năm trước, chú Lâm từ bên Mỹ đi
công tác cho hãng về Việt Nam đến thăm em. Chú ấy nhắc đến anh, đến tình
cảm anh vẫn âm thầm dành cho em. Giác quan thứ sáu xui em liên tưởng
đến một điều gí đó (mơ hồ thôi) rằng anh, chàng Phi công Cộng Hòa lãng
mạn, có thể đem chuyện tình hai đứa dệt thành văn? Cầm tờ báo trên tay,
em run còn hơn bị B-52 trải thảm hay như hồi sơ tán phòng không ở Việt
Bắc. Chị Hạnh trấn an:
- Làm gì mà run dữ vậy? Bề nào Nga cũng là cựu sĩ quan quân đội nhân dân, công an nào dám đụng đến? Em
run không phải là sợ công an khám xét thấy mình mang món hàng quốc cấm.
Em run vì không hiểu điều dự đoán của mình có phải là sự thực. Em run
vì liên tưởng đến người bạn năm xưa vẫn còn nhớ đến mình. Anh đừng cười
em già rồi mà còn vớ vẩn. Chị
Hạnh là người bạn sát cánh với em vào thời kỳ chiến đấu dọc Trường Sơn.
Chị
ấy cũng là con nhà tiểu tư sản như mình, nên em thường nhỏ to tâm sự
trong những lúc dừng quân. Em có kể cho chị ấy nghe về anh, người bạn
học cùng trường thủa thiếu thời. Về
nhà, chờ đêm khuya thanh vắng, mọi người đều đã say giấc nồng, em len
lén đem tờ báo ra chong đèn lên đọc. Em đọc từng trang, rồi em dừng lại ở
bài viết mang tên tác giả Duy Lạc, "Chắc chắn là anh đây rồi?!" Em tự
nhủ: Quả nhiên đúng như điều em dự đoán. Thời gian trôi nhanh quá anh nhỉ? Thấm thoát đã bốn mươi năm rồi còn gì? Bao nhiêu tấn tuồng dâu bể diễn ra! Bao
nhiêu nước chảy dưới cầu! Hai mái tóc xanh của đôi trẻ ngày nay đã bắt đầu điểm trắng. Chiến
tranh bùng nổ, anh từ Sàigòn về lánh nạn ở quê nhà. May mắn thay giặc
chưa thể tràn về vùng đất của mình, nên chúng ta có một thời kỳ bình
yên. Khí thế bừng bừng của phong trào giành độc lập xứ sở bốc cao khiến
tất cả thanh niên hăm hở lên đường làm anh vệ quốc quân. Tuy bọn mình
còn nhỏ mà trong trí óc non nớt cũng đã thấy lòng rộn ràng vui thích như
đi trẩy hội ngày Xuân. Em còn nhớ đêm liên hoan, anh hát bài "Nhớ Chiến
Khu". Lúc bấy giờ nghe giọng anh run run, em cứ tưởng anh vì cảm thương
nỗi nhớ nhà của anh vệ quốc quân trong núi rừng thâm
u; nào dè anh run ...vì ánh mắt ngưỡng mộ va say mê theo dõi của em.
Thì ra nhãn lực của em cũng khá đấy anh Duy nhỉ? Dạo
ấy lần đầu tiên nghe anh trả bài thầy giáo, em mới để ý thấy cách phát
âm của anh khác với những học trò con trai trong huyện. Chẳng hạn, "mờ
mịt" thì anh phát âm thành "mờ mịch" hay "vui quá" thành "vui góa". Và
còn nhiều chữ độc đáo nữa... Mới
đầu bọn học trò trong lớp, rồi về sau bọn học trò của cả trường thường
nhại cách phát âm ấy để trêu ghẹo anh. Thoạt tiên em cũng cười hùa theo
bọn chúng, nhưng thấy anh chẳng phản
ứng gì, mà chỉ nhún vai cười khỉnh rất là... Sàigòn, tự nhiên em đâm ra
thích cái giọng ấy mới kỳ chứ! Mỗi lần đến giờ học, em đều cầu mong
thầy giáo gọi anh lên trả bài để em được nghe cái giọng ngồ ngộ ấy. Anh
còn nhớ lần đi cắm trại đầu tiên do nhà trường tổ chức trước vụ Hè 51
không? Lớp mình chia làm bốn toán mà anh thì ở toán A, còn em ở toán B.
Khi đến nơi, ai nấy đều lo căng lều dựng trại của toán mình, trong lúc
đó anh lại chạy sang loay hoay giúp em làm chuyện này chuyện kia. Cử chỉ
lăng xăng của anh có vẻ vụng về, khiến cho em vừa buồn cười vừa cảm
động. Vì thế, buổi tối họp lửa trại, em mới lén dúi vào tay anh củ
khoai em vùi trong bếp lúc nấu cơm chiều. Em còn trêu: - Trại sinh bên toán B ăn hết "thịch" (thịt) cá rồi, em chỉ còn củ khoai nóng này tặng anh dùng đỡ cho "dzui"! Chẳng
những anh không giận vì bị em nhái giọng, anh chìa tay ra cầm củ khoai
một cách hồn nhiên, mà miệng còn ấp úng nói gì nghe không rõ, em bỗng
cảm thấy thương anh chi lạ! Dân
trong làng kế cận khu cắm trại, tối đến xong việc đồng áng cũng ra tham
dự trò chơi lửa trại của đám học sinh. Ánh lửa
hồng chờn vờn nhảy múa ngọn thấp ngọn cao, nhịp nhàng lung linh với
tiếng đàn guitar bập bùng của anh tạo nên cảnh tượng kỳ ảo rất liêu
trai. Con Thủy, con gái ông Xã Tài; con Nhạn, con gái ông Lý Trân, ngồi
bên em cứ huých cùi chỏ vào hông em từng chập, mỗi lần chúng nó trông
thấy anh gật gà gật gù theo điệu nhạc trầm bổng. Dường
như lúc bấy giờ anh say sưa với âm thanh của từng nốt nhạc, không thèm
biết gì đang xảy ra chung quanh. Khách quan nhận xét, cả huyện mình đâu
có cậu học trò nào chơi đàn ngọt như anh? Chúng nó cũng khoái và để ý
"người Sàigòn" có mái tóc chải bảy ba tango lắm đấy! Anh có biết rằng
anh đã lọt vào mắt xanh của bọn
học trò con gái tinh quái ấy không? Em
còn nhớ tính anh ít nói. Trong lúc mọi người ngồi huyên thuyên, thình
thoảng anh chêm một câu pha trò hóm hỉnh mà nhiều khi người nghe không
tinh ý, phải mất ba, bốn ngày sau mới hiểu. Cái tính "nghịch" ấy ngày
nay anh vẫn không bỏ. Trong bài "Giòng Ðời", em vẫn đọc thấy thấp thoáng
cái văn phong đó. Anh
cao lớn, nhưng không gầy như cây sậy và anh đâu có đen đúa xấu trai như
anh tự chế diễu mình trong bài văn? Lại còn bày đặt tự chê mình học
dốt! Xong
màn văn nghệ và đọc tin thời sự về những chiến thắng công đồn đả viện
của bộ đội cụ Hồ cho dân chúng nghe, bọn học trò chạy xuống bờ biển nô
đùa với sóng nước. Em nhớ đêm đó trăng lên muộn và trời trong xanh không
một vẩn mây. Hình như đốm lửa trại cuối cùng tàn lụi rồi trăng mới lên.
Khác với những học trò khác cùng lớp, anh không xuống bờ cát giỡn nước,
giỡn trăng. Em thấy anh ngồi tựa lưng vào một cây dừa lả ngọn và đôi
mắt đăm chiêu nhìn ra trùng khơi. Anh ngồi yên một cách thư thái, tự
tại, đẹp như một pho tượng! Em
biết rồi, người đó đang mơ mộng vì người đó đang yêu?! Lúc
bấy giờ những cơn sóng bạc đầu phản chiếu ánh trăng nhấp nhô vờn nhau
xô vào bờ, có làm cho tim anh xao xuyến, hởi người nghệ sĩ với cây đàn? Em
là con gái, trời ban cho em cảm nhận bén nhạy hơn con trai. Kinh nghiệm
đời trải qua, chắc bây giờ anh đã hiểu rõ điều đó. Hồi ấy, mới thoáng
thấy cử chỉ ân cần và ánh mắt trìu mến của anh nhìn em trong lớp học,
ngoài sân trường, em đã đọc được ý nghĩ thầm kín của anh. Nhưng em là
con gái, đặc biệt vào thời buổi ấy, luân lý và bản tính rụt rè của phụ
nữ đâu cho phép em có một cử chỉ gì gọi là biểu đồng tình, dù trong thâm
tâm em cũng rất cảm mến anh. Cũng có những đêm nằm một mình vẩn
vơ bên cửa sổ ngắm trăng, bỗng nhiên ngửi thấy mùi hoa cau bưởi từ đâu
đưa lại, em chợt thèm có anh bên cạnh để... ngắm anh (!) Hoặc để luồn
những ngón tay thon nhỏ của mình vào tóc người yêu. Ðó là cái rạo rực
rất tự nhiên của người con gái ở tuổi dậy thì khi biết mình đang có một
anh chàng đang ngấm nghé. Em
đã đọc đi đọc lại nhiều lần lá thư anh trao. Vì sự bất cẩn của em, con
nhỏ Thủy - con gái ông Xã Tài - đọc trộm lá thư em dấu trong sách cho
mượn, thế là nó đem đi mách lẻo với mọi người, gây ra sự hiểu lầm đáng
tiếc khiến anh sinh lòng oán hận em. Nếu lá thư ấy bị một người bạn gái
nào khác đọc thì chẳng đến nỗi nào.
Ðằng này con nhỏ Thủy vốn thầm yêu trộm nhớ anh, nên khi nó vớ được lá
thư là nó kháo ầm lên để anh phải thẹn thùng với đám bạn gái của em và
hai bà chị họ. Nghĩ lại, em chẳng phiền trách gì nó. Âu cũng là tại sợi
chỉ hồng không se duyên cuộc tình chúng mình! Ngày
anh cầm tay em lần đầu (và cũng là lần cuối), em đã khóc, đã hết lòng
gạn hỏi tại sao anh bỏ học và cố tình lẩn tránh em. Anh cứ lầm lì im
lặng. Không ngờ bữa đó anh đã quyết định xuống tàu trở lại chốn phồn
hoa. Tuổi trẻ thường hay đặt tự ái quá cao! Anh đi biền biệt để lại cho
em nỗi nhớ đoạn trường. Em thẩn thờ biếng nhác việc học hành và công
việc trong nhà. Ba
mẹ không hiểu chuyện cứ rầy la. Bỗng nhiên em cũng sinh lòng trách cứ
anh. Anh đã từ phương xa lại, mình gặp gỡ nhau, anh gieo vào lòng em một
vết thương, rồi anh lẳng lặng ra đi không một lời từ biệt. Bạn bè em
một đôi đứa đem lòng thương hại, vài đứa trêu ghẹo em mang mối sầu tương
tư. Em lại càng giận anh hơn. Năm
1954, hiệp định Giơ-ne-vơ chia đôi đất nước. Một số người trong làng xã
tập kết ra Bắc. Gia đình em vẫn ở lại vì thuộc thành phần địa chủ. Tổng
Thống Diệm về nước, đẩy mạnh chiến dịch Tố Cộng. Gia đình em không bị
ảnh hưởng gì, vì người ta biết thời ấy ai cũng chống Tây. Nhưng chỉ có
một số cán bộ Tố Cộng của
ông Diệm lợi dụng quyền thế, thấy em có nhan sắc nên họ gây nhiều khó
dễ để cưỡng bách em trao thân gởi phận. Nếu em liều mình nhắm mắt đưa
chân, chắc chắn em sẽ cũng được yên thân. Nhưng tính em ương ngạnh,
không chấp nhận sự hà hiếp, em bèn tìm đường lên núi để rồi ngả về phía
bên kia. Thân gái dậm trường, liều mình bỏ gia đình ra đi đến phương
trời vô định, em nào muốn làm một cuộc phiêu lưu? Nhưng định mệnh nghiệt
ngã đã đẩy em thành một kẻ ruồng bỏ quê hương! Anh Duy yêu dấu, Nhiều
đêm em đã khóc, vì nỗi bơ vơ của mình nơi
xứ lạ quê người. Em nhớ đến anh thật nhiều. Nhớ đến kỹ niệm của những
đêm trăng ở làng quê mình, của những buổi chiều hai đứa rong chơi lang
thang trên bờ ruộng lúa vừa mới gặt, của mùi hương ngai ngái từ gốc rạ
thoảng đưa trong gió. Và em còn nhớ đến cái giọng Sàigòn ngồ ngộ của anh
nữa! Sự
đãi ngộ ở miền Bắc không tốt đẹp như những gì mà "người ta" đã ngọt
ngào dụ dỗ em. Cũng như những bộ mặt đàn ông nham nhở (xin lỗi anh) tìm
đủ mọi cách chiếm đoạt em. Ở vào bước đường cùng, lần này em đành nhắm
mắt đưa chân. Em kết hôn với một ông sĩ quan già hơn em mười lăm tuổi.
Trong bài "Giòng Ðời" anh kể rằng em làm lẽ một
viên tướng già là không đúng sự thực. Nhưng mà thôi, không sao! Làm vợ
chính thức hay làm lẽ, số phận em vẫn hẩm hiu "bên cạnh chồng nghiêm
luống tuổi rồi!" Chiến
tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt. Phi cơ oanh tạc hầu như mỗi
ngày. Ða số nhân dân miền Bắc đều mong mỏi được quân đội miền Nam giải
phóng, vì họ hết chịu đựng nổi đói khổ và cuộc sống hắc ám, rình rập. Em
là người miền Nam tập kết muộn. Tập kết vì tưởng mình sẽ đến một nơi
như thiên đàng, chứ không phải vì lý tưởng hay bị huyễn hoặc bởi cái chủ
nghĩa hứa hẹn không còn cảnh người bóc lột người! Em chỉ tha thiết một
điều: Chiến tranh sớm chấm dứt, hòa bình mau
trở lại để em được quay về xóm làng xưa. Em tình nguyện xung phong đi
chiến trường B (tức là xuôi Nam ) với hy vọng nhìn lại Bố Mẹ già và đàn
em dại. Em lên đường như một người tìm về nơi chôn nhau cắt rốn, chứ
không phải là kẻ lên đường "làm nghĩa vụ quốc tế" như người ta cổ võ đề
cao. Trở về đó, em lại nghe tin đồn phong phanh rằng anh đã trở thành
người phi công khu trục của chính quyền Sàigòn. Chao ôi! có lần nào anh
say sưa oanh kích mà dưới ấy là chỗ đóng quân của em? Nếu chẳng may bị
trúng đạn phòng không, anh nhảy dù xuống và em là người băng bó cho anh,
thì không hiểu bọn mình phải xử trí ra sao trong tình huống ấy? May mà
điều ấy không bao giờ xảy ra để chúng ta khỏi bị ngỡ ngàng. Có
lần em nhặt được tờ truyền đơn kêu gọi chiêu hồi từ trên phi cơ thả
xuống. Em vội dấu kỹ tờ truyền đơn vào lần túi áo trong để chờ dịp thuận
tiện là trốn thoát, nhưng cơ hội không bao giờ đến với em cả! Khi
miền Nam được "giải phóng", em nghĩ rằng đây là cơ hội em có thể tìm
gặp người bạn tình năm xưa. Em biết rằng gặp nhau thì đôi ta mỗi đứa ván
đã đóng thuyền, không còn hy vọng gì chấp nối, nhưng ít nhất mình cũng
còn được thấy nhau sau mấy mùa chinh chiến. Niềm hy vọng ấy vội tan biến
khi em biết rằng anh đã ra đi nước ngoài. Tâm tình em xen lẫn hai nỗi
buồn, vui: Buồn
vì không gặp được anh và vui vì anh không phải rước cảnh tù đày. Anh
còn nhớ Loan, em gái của em. Nó kết hôn với Cảnh, một người Thiếu tá
trong quân đội Cộng Hòa. Chồng nó bị đưa đi "học tập cải tạo", rồi chết
vì lao lực trong rừng thiêng nước độc và vì thiếu dinh dưỡng. Loan nhờ
chồng em can thiệp cho Cảnh. Như anh biết đấy. Tuy chồng em là tướng
Việt cộng mà cũng đành bó tay bất lực. Từ đó Loan không bao giờ nhìn mặt
em nữa. Chị em cật ruột bỗng hóa thành kẻ thù. Nỗi khổ tâm ấy do ai gây
ra, mà một mình em phải hứng chịu sự khinh khi của gia đình? Tại sao em
phải chịu nhiều điều oan nghiệt thế hở anh Duy? Năm
kia, chú Lâm về Sàigòn, chú
ấy kể rất nhiều chuyện về anh. Em vô cùng xúc động vì anh vẫn giữ được
trong ký ức hình ảnh và tình cảm trân trọng đối với người bạn gái đầu
đời. Vận nước điêu linh, thế hệ chúng mình chẳng may phải hứng chịu
nhiều thua thiệt. Thật là vô lý khi hai kẻ yêu nhau trở nên vô tình quay
mũi súng bắn vào nhau. Ước mong sao những lớp người thuộc thế hệ mình
nhìn rõ chân lý để cùng nhau xây dựng lại xứ sở hoang tàn bởi một thứ
chủ nghĩa ngoại lai phi nhân. Mình phải có bổn phận nói rõ cho con cháu
nên lấy thương yêu, chứ không phải hận thù, bù đắp những lỗi lầm của
người đi trước. Có như thế thì mới hàn gắn được những đổ vỡ lớn lao
trong quá khứ. Ðúng
bốn mươi năm trước, dưới rặng dừa ở làng quê, anh e ấp trao em lá thư
tỏ tình. Anh nao nức chờ đợi hồi âm. Em chưa kịp hồi âm thì không may
xảy ra chuyện hiểu lầm. Bốn mươi năm sau, (nhờ đọc được bài văn của anh
trên báo), từ phương trời này, một người đàn bà góa bụa và mái tóc đã
bắt đầu điểm sương lại ngồi viết thư cho người bạn tình xa cách nửa vòng
trái đất để kể lể chuyện đời. Xin cám ơn anh đã cho em một chút nắng
trong buổi chiều tàn, "Một Chút Mặt Trời Trong Ly Nước Lạnh!" Ðời em
truân chiên đã gặp nhiều bất hạnh, nhưng kể từ khi đọc những dòng tâm tư
của anh trên trang báo, em cảm thấy được an ủi phần nào. Bây giờ thì em
mới biết ở nơi cuối trời xa thẳm kia có một chàng trai Sàigòn thủa
nào vẫn còn giữ trong tim hình ảnh và kỹ niệm đằm thắm của người yêu
ban đầu. Thư
viết cho anh đã khá dài. Những giọt nước mưa trên mái nhà cũng đã thôi
gõ đều đặn xuống tấm tôn. Ðêm đã xuống từ lâu. Cảnh vật yên lặng như tờ,
nhưng dường như trong tiềm thức em vẫn nghe tiếng sóng biển rì rào và
âm thanh xào xạc của những ngọn lá dừa cọ xát vào nhau. Biết bao giờ hai
chúng ta có thể lại cùng nhau dạo chơi hóng gió chiều và nghe sáo diều
trên đường làng quê cũ anh nhỉ? Ấy chết! Em lại lẩn thẩn mất rồi! Ðừng!
Chúng mình không nên gặp lại nhau để anh còn giữ trong trí nhớ hình ảnh
con bé Nga mười mấy tuổi, má lún đồng tiền và nụ
cười răng khểnh. Em
xin dừng bút. Cầu chúc anh dồi dào sức khỏe và gia đình gặp nhiều sự
may mắn, an khang, thịnh vượng. Và xin anh nhớ cho rằng ở nơi xứ sở
nghèo khó này vẫn có một người luôn luôn thương nhớ anh. Thân ái, Em gái anh, Nga Tái bút: Ðể tránh sự kiểm soát của nhà nước, em trao lá thư này cho một sĩ quan sắp sang Mỹ theo diện H.O. và nhờ ông ta gửi
đến chú Lâm bằng đường bưu diện. Em
hy vọng rằng chú Lâm vẫn còn ở tại địa chỉ mà chú cho em trước đây. Ðọc
thư em, ước mong anh sẽ hài lòng khi thấu rõ tâm tình của em.
Đào Dân chuyển
|
No comments:
Post a Comment