Trong việc tranh chấp tại quần đảo Hoàng Sa giữa
Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và Trung Quốc, cao điểm là cuộc đụng độ vũ trang
ngày 19-01-1974, đã đánh một dấu mốc quan trọng trong chính sách “tằm ăn lá
dâu” của Trung Quốc trên biển Đông nói chung và quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa của Việt Nam nói riêng. Sự kiện diễn ra trong bối cảnh liên quan mật
thiết đến những chuyển biến có tính chất bước ngoặc trong nội bộ của các
nước có tranh chấp, đồng thời cũng là một hệ quả của mối quan hệ quốc tế
một thời gian dài trước đó. Bài viết này, sẽ phân tích sự kiện hải chiến
Hoàng Sa dưới góc độ báo chí đương thời của VNCH và báo chí nước ngoài, để
làm rõ thái độ và dư luận về vụ hải chiến Hoàng Sa.
I. QUYẾT TÂM BẢO VỆ QUẦN ĐẢO HOÀNG SA CỦA CHÍNH
QUYỀN VIỆT NAM
CỘNG HÒA
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam theo các
điều khoản của Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21-7-1954 đã để lại một khoảng
trống trong việc bố phòng ở biển Đông, tạo cơ sở cho một số nước chiếm đóng
trái phép quần đảo Hoàng Sa. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính
quyền đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến Hoàng Sa như cho khai thác
phân chim, thành lập công ty khai thác tài nguyên ở Hoàng Sa tại Sài Gòn,
xây dựng các cơ sở hạ tầng như: nhà ở, cầu cảng, phân xưởng, nhà thủy
văn... Năm 1974, việc tranh chấp trên quần đảo Hoàng Sa lên đến cao độ bằng
cuộc đụng độ vũ trang, báo chí VNCH và nước ngoài đã theo dõi, cung cấp đến
bạn đọc trong nước và ngoài nước âm mưu xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc,
đồng thời nêu lên những căn cứ thể hiện tính chính nghĩa đối với quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam và quyết tâm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
mình.
Ngày 11/01/1974, Trung Quốc tuyên bố quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Quốc, Bộ Ngoại giao VNCH đã
phản ứng rất quyết liệt. Trong những cuộc họp báo tại Sài Gòn, phát ngôn
viên Bộ Ngoại giao và Tổng trưởng Ngoại giao VNCH đã tố cáo trước dư luận
thế giới về tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc. Trong một cuộc
họp báo “đặc biệt” được tổ chức tại phòng họp của Bộ Ngoại Giao VNCH, quy
tụ đông đảo Đại diện báo chí trong nước và ngoài nước vào chiều 15/1/1974,
Tổng Trưởng Ngoại giao Vương Văn Bắc đã lên tiếng tố cáo trước quốc dân và quốc
tế về việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền VNCH trên quần đảo Hoàng Sa; ngày
16/10/1974, Bộ Ngoại giao VNCH ra Tuyên bố về việc Trung Quốc vi phạm chủ
quyền VNCH trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày hôm sau
(17/1/1074), Tia Sáng đăng bài phản đối những hành động gây hấn của Trung
Quốc đã đe dọa đến hòa bình khu vực, vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa. “Đây là hành động trắng trợn chà đạp lên chủ quyền và sự
toàn vẹn lãnh thổ của VNCH…Trước những hành vi thô bạo đó, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam Cộng hòa rất căm phẫn và quyết không dung thứ…sẽ cương
quyết bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình và dành quyền thi
hành mọi biện pháp thích nghi cho mục đích ấy”[1].
Trước tình hình đó, VNCH đã có những hành động
tương ứng để đối phó, trước hết là giải quyết mâu thuẩn bằng biện pháp hòa
bình. Tia Sáng ngày 19/01/1974 có bài với nội dung sau: “Hoàng Sa là một
quần đảo có 130 đảo lớn nhỏ cách bờ biển Đà Nẵng 320 cây số đang chứa đựng
sẵn một tài nguyên vô tận, chất phosphate và tương lai dầu hỏa dưới thềm
lục địa của đảo này. Hai nguồn lợi này đã được coi như nguyên nhân thúc đẩy
Trung Cộng tranh quyền, lấn đất với Việt Nam Cộng hòa kể từ đầu tháng
1-1974 đến nay. Nhân dịp này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng yêu cầu Hội
đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc sử dụng những biện pháp khả thi và cần thiết
nhằm điều chỉnh lại tình trạng vừa xảy ra kể trên”[2]. “Sở dĩ chưa có việc gì
đáng tiếc xảy ra vì chưa có dấu hiệu cho thấy số người này của Trung Cộng
có ý xây nhà cửa, di dân đến chiếm đất và phía người Trung Cộng cũng không
hề nổ súng vào phía quân lực Việt Nam Cộng hòa. Quần đảo Hoàng Sa lại không
có dân chúng sinh sống nên nhẹ gánh cho quân đội phòng trú tại đây khỏi bảo
vệ sinh mạng người dân… Một quyết định nổ súng có thể xảy ra một cuộc chiến
tranh tệ hại, do đó quyết định quan trọng này phải được cân nhắc cẩn
thận”[3].Biện pháp vũ trang là biện pháp cuối cùng một khi những đòi hỏi
chính đáng của nhân dân và chính quyền VNCH không được đáp ứng.
Sau khi chiến sự đã xảy ra, “Ngoại trưởng Vương
Văn Bắc lại một lần nữa xác nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
những lãnh thổ bất khả phân của Việt Nam Cộng hòa, căn cứ vào những dữ kiện
hợp lý về địa lý, pháp lý và thực tế. Việt Nam Cộng hòa sẽ không chịu khuất
phục bất cứ một áp lực nào để phải từ bỏ phần lãnh thổ này của quốc
gia”[4]. Trong phương án giải quyết sau khi Trung Quốc xâm chiếm quần đảo
Hoàng Sa, chính quyền VNCH đã nêu quan điểm là cần huy động sức mạnh nội
lực và ngoại lực. “Muốn bảo vệ chủ quyền, chính phủ phải đạt được nhân tâm
trong quốc nội và thế độc lập ngoại giao ở quốc ngoại”[5]và “trong vụ Hoàng
Sa, Việt Nam Cộng hòa đã trông cậy trước hết vào lực lượng của chính mình
để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ”[6]. Đồng thời, đây là mâu thuẩn có tính
chất quốc tế, bởi vậy, “Tổng thống VNCH cũng đã gởi văn thư tới các Quốc
trưởng hoặc nguyên thủ các quốc gia thân hữu với Việt Nam Cộng hòa nhằm
trình bày các tiến trình của vụ Hoàng Sa, cùng chứng tỏ tính chính nghĩa
của VNCH trong vụ này”[7]. Chính quyền VNCH truyền đi thông điệp việc xâm
chiếm quần đảo Hoàng Sa nằm trong âm mưu thường xuyên bành trướng lãnh thổ
của Trung Quốc. Vấn đề này thể hiện rõ trên trang chính Tia Sáng ngày
01/02/1974. Bài báo đăng một thông luận đề cập lịch sử tranh chấp tại quần
đảo Hoàng Sa là một đề tài nóng và liên quan đến nhiều nước. Tuy nhiên,
Việt Nam đã thủ sẵn những bằng chứng hùng hồn hơn ai hết về chủ quyền của
mình đối với quần đảo này. “Nhật từ bỏ tranh chấp từ năm 1951, vấn đề chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu vẫn là đề tài tranh chấp
giữa Việt Nam, Trung Hoa và cả Phi Luật Tân cũng như đã có bận với Nhật
Bản. Tuy nhiên, VNCH đã thủ sẵn những bằng chứng hùng hồn hơn hết về chủ
quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa cả về phương diện lịch sử địa dư và
pháp lý”[8].
Trong quan điểm giải quyết vụ Hoàng Sa của chính
quyền VNCH lúc bấy giờ, Hãng AFP của Pháp đã bình luận: “VNCH vẫn chưa mất
đảo Hoàng Sa và chỉ mất khi nào chịu từ bỏ tranh đấu về chủ quyền của quần
đảo này”[9]. Trong khi đó, Hãng UPI tại Sài Gòn ngày 28/01/1974 đưa tin
VNCH sẵn sàng chuẩn bị mọi mặt để bảo vệ Hoàng Sa bằng hành động quân sự. “Không
quân Nam Việt cũng di chuyển các phản lực cơ ra Đà Nẵng để có thể can thiệp
mau lẹ... Các đơn vị gồm có Thủy quân lục chiến, người nhái và một toán truyền
tin và tham mưu đang tiến đến quần đảo Hoàng Sa. Lực lượng này cố bao vây
các quần đảo Duncan Drummond và Robert. Những nguồn tin báo chí khác có nói
đến sự hiện diện của phi cơ Phantom F4 có thể đương đầu với Mig 21, nhiều
đơn vị hải quân của quân đoàn 3 và 4 cũng được gọi đến để tăng cường cho
Quân khu I”[10]. Hơn nữa, chính quyền đã có một kế hoạch liên hoàn để bảo
vệ các quần đảo khác của mình. “Một nguồn tin hữu quyền nói với phái viên
viết bài này rằng những nỗ lực phòng thủ lúc nào cũng được chuẩn bị và chắc
chắn đã được tăng cường bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải, là các quần đảo ngoài
khơi VNCH. Hai khu vực quần đảo Trường Sa và Phú Quốc đã được đặt trọng tâm
trong kế hoạch bảo vệ của quân lực VNCH kể từ khi Hoàng Sa bị Trung Cộng
chiếm đoạt”[11]. Ngày hôm sau, hãng TTH đưa ra lời tuyên bố Ngoại trưởng
Vương Văn Bắc: “Việt Nam Cộng hòa bằng mọi phương pháp sẽ lấy lại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, vì một nước bị xâm chiếm đất đai có quyền dùng mọi
phương tiện chính trị, quân sự để lấy lại phần đất đã bị chiếm mất”[12].
II. THÁI ĐỘ CỦA CÁC NƯỚC LỚN CÓ LIÊN QUAN
1. Thái độ của Nga
Trong quan hệ quốc tế năm 1974, cục diện chính
trị thế giới đã có nhiều thay đổi trong thế “hai cực” của chiến tranh lạnh,
đặc biệt là sau sự kiện năm 1972 khi Trung Quốc và Mỹ ký Thông cáo chung
Thượng Hải. Sự kiện này tạo ra bước ngoặt quan trọng, liên quan trực tiếp
đến tình hình của Việt Nam như thúc đẩy nhanh tiến trình ký kết Hiệp định
Paris, tạo một điều kiện thuận lợi để Trung Quốc tăng cường các hoạt động
quân sự, đi đến xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trong bối
cảnh đó, Nga thể hiện phản ứng không hài lòng Trung Quốc khi “đi đêm” với
Mỹ và có những hành động nhằm giữ thế cân bằng quyền lực ở khu vực Đông Nam
Á, Châu Á - Thái Bình Dương.
Ngay sau khi hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa diễn
ra, báo chí của Nga đã có những phản ứng gây gắt. Ngày 27-01, tờ Sự Thật
(Pravda), cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Xô Viết cho rằng: “hành động
quân sự của Trung Cộng tại Hoàng Sa như một chủ trương bành trướng lãnh thổ
và là một mối đe dọa cho các quốc gia Á Châu, việc sử dụng vũ khí để giải
quyết tranh chấp đất đai không thể nào tha thứ được”[13]. Trong khi đó, Đài
BBC, ngày 27/01/1974 đã phân tích tình hình và nhận định mối quan hệ giữa
các quốc gia trong vụ Hoàng Sa“. Có nhiều lý do để giải thích sự kiện mới này,
một lý do là vì Trung Cộng quan tâm không hẳn là với mục đích chiếm các hải
đảo cho Trung Cộng mà để đảm bảo rằng các quần đảo nhỏ ấy rải rác ở vùng
phía Tây Thái Bình Dương không rơi vào tay các siêu cường Hoa Kỳ hay Liên
Xô...”[14]. Có nghĩa là Liên Xô sẽ giảm ưu thế của mình một khi Trung Quốc
làm chủ quần đảo Hoàng Sa, ý thức hệ chính trị đóng một vai trò thứ yếu
trong thái độ của Liên Xô đối với tranh chấp tại quần đảo Hoàng Sa. Vấn đề
ý thức hệ cũng thể hiện rất rõ trong thái độ của Trung Hoa quốc gia tại Đài
Loan khi “TrungHoa Quốc gia ở Đài Loan cũng tuyên bố đại diện cho lục địa
và Đài Loan còn có quân đội đóng tại một số các hải đảo nhỏ”[15]. Và, sự
việc không đóng khung tại quần đảo Hoàng Sa mà “còn tranh giành về quần đảo
Trường Sa quá về hướng Nam về hai nhóm quần đảo khác nhỏ hơn”[16].
Đối với các quan chức, lãnh đạo của chính quyền
VNCH, họ cũng đồng quan điểm về thái độ là của Liên Xô đã ủng hộ VNCH và
phản đối hành động xâm lược bằng vũ lực của Trung Quốc. Hãng TTH tại Sài
Gòn ngày 01/02/1974 đã đưa tin phỏng vấn các Nghị sĩ VNCH về vụ Hoàng Sa.
Nghị sĩ Trương Vi Trí cho rằng: “Việc Trung Cộng xua quân chiếm quần đảo
Hoàng Sa chỉ có mục đích chiến lược. Theo ông, quần đảo này không có dầu
hỏa cũng không dồi dào các khoáng sản như dự đoán. Ở đây chỉ có thể đặt một
đài kiểm soát di chuyển của các tàu bè trên mặt biển cũng như sự điều động
các lực lượng Hải quân”[17]. Bản chất của sự kiện Hoàng Sa năm 1974 nằm trong
chiến lược cân bằng quyền lực giữa các cường quốc trên thế giới, cụ thể là
kìm hãm ảnh hưởng của Nga tại Châu Á - Thái Bình Dương. “Vụ Hoàng Sa không
chỉ đóng khung trong eo biển Đông Dương mà còn có một tầm vóc tranh chấp
quốc tế về quyền lợi trên mặt và dưới đáy sâu biển cả”[18].
Từ những nhận định trên, cho thấy sự kiện Hoàng
Sa ngày 19-01-1974 trên bình diện quốc tế có hai vấn đề: Một là, bản chất
của vụ Hoàng Sa là sự tranh chấp chiến lược trên biển giữa Nga và Trung
Quốc, cụ thể là Trung Cộng quyết phá vỡ sự ưu thế đường biển của Nga nhằm
khống chế Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, cho nên trong vụ này Nga phản đối
rất gây gắt. Hai là, sự kiện Hoàng Sa năm 1974 về bản chất là sự đụng độ
kinh tế về tranh giành tài nguyên dưới đáy biển giữa Trung Quốc và nhóm tư
bản quốc tế.
2.2. Thái độ của Mỹ
Ngày 27/01/1974, sau khi Bộ Ngoại giao VNCH tố
cáo những hành động vũ lực, xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, khẳng định ý
chí chiến đấu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời gửi văn thư tới
các Quốc trưởng hoặc nguyên thủ các quốc gia “thân hữu” nhằm trình bày các
tiến trình của vụ Hoàng Sa, cùng chứng tỏ tính chính nghĩa của mình. Trước
thái độ thờ ơ của Mỹ, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH nói thanh minh và trách móc
trên Tia
Sáng rằng: “việc yêu cầu Hoa Kỳ dồn hạm đội thứ 7 can thiệp là
hoàn toàn vô căn cứ ”[19]. Điều này phản ánh hai vấn đề: trên thực tế Mỹ đã
không hỗ trợ VNCH và can thiệp trong vụ hải chiến Hoàng Sa dù có cả một Hạm
đội kề bên; hai là đã là một “đồng minh thân cận” thì việc hỗ trợ đồng minh
khi có chiến sự là một điều đương nhiên. Thái độ này chứng tỏ Mỹ có thể sẵn
sàng bỏ rơi một đồng minh “nào đó” để theo đuổi quyền lợi riêng của mình để
thực hiện chiến lược quốc gia.
Việc Trung Quốc dừng vũ lực xâm chiến quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam trên thực tế cũng ảnh hưởng đến vai trò chiến lược
của Mỹ ở khu vực này, chứ không riêng gì Liên Xô. Đài BBC nhận định rằng
Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa “để đảm bảo rằng các quần đảo nhỏ ấy rải
rác ở vùng phía Tây Thái Bình Dương không rơi vào tay các siêu cường Hoa Kỳ
hay Liên Xô hoặc rơi vào tay các đồng minh của hai siêu cường này”[20].
Quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung Quốc tất nhiên có ảnh hưởng xấu đến Mỹ,
tuy nhiên đằng sau đó Mỹ được cái lợi lớn hơn là “nhờ tay” Trung Quốc kiềm
chế ảnh hưởng của Liên Xô, Mỹ không phải ra tay và có “tiếng xấu” trên cộng
đồng quốc tế. Đó chính là một lý do để Mỹ chọn thái độ “không có phản ứng
rõ rệt, im lặng”. Chính thái độ này của Mỹ đã bị các Nghị sĩ VNCH lên tiếng
chỉ trích mạnh mẽ. Họ cho rằng “đúng lý ra Việt Nam phải được sự hỗ trợ tối
đa của các quốc gia trong thế giới tự do” và “12 quốc gia tham dự việc hình
thành Hiệp định Paris 27-1-1973, nhất là Hoa Kỳ, phải có thái độ và nghĩa
vụ rõ rệt trong vụ này”[21], Đồng thời bài báo cũng đưa ra thêm một lý do
là “vì trong giai đoạn hòa dịu, các quốc gia này không muốn làm mất lòng
Trung Quốc vì sợ mất một thị trường tiêu thụ béo bở”[22].
Một lý do quan trọng khác để dẫn tới thái độ của
Mỹ trong vụ này, bởi tính chất của vụ Hoàng Sa chỉ là một “thắt nút” trong
việc tranh chấp các đảo và quần đảo ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương giữa
nhiều nước với nhau, không riêng gì giữa Trung Cộng và VNCH. Điện Tín, ngày
06/02/1974 có bài bình luận, đưa ra nhận định: “nếu vì dầu lửa mà các nước
đồng minh của Mỹ lộn xộn với nhau thì Mỹ sẽ khó binh ai, bỏ ai. Cho nên
trong vụ này, người ta có thể đoán tư bản tài phiệt Mỹ sẽ cố gắng sắp xếp
sao cho nội vụ sớm ổn thỏa… đồng thời đã có một nguyên tắc chung đã được Mỹ
và Trung Hoa đồng ý là không ai được chiếm ưu thế ở vùng Đông Nam Á”[23].
Chính vì lẽ đó, trong vụ Hoàng Sa, VNCH đã không hy vọng gì vào Mỹ mà đã
đưa ra quyết tâm “cần kích động lòng tự ái dân tộc mà còn phải có hậu thuẫn
của nhân dân, được sự yểm trợ của các nước bạn và không lệ thuộc vào
ai”[24], dù là đồng minh của Mỹ hay không vì Mỹ không thể ủng hộ tất cả
đồng minh của mình trong tình thế mâu thuẩn trên biển ở khu vực biển Đông
nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung[25]. Trước sự lên tiếng của
VNCH, điều mà Mỹ chỉ muốn làm trong lúc này là lặng lẽ quan sát diễn biến
tình hình từ xa như: “Hoa Kỳ đang giúp Việt Nam theo dõi trên quần đảo
Hoàng Sa và đảo Hải Nam nhưng ở vào một khoảng cách an toàn. Hoa Kỳ đã
thiết lập một đài ra đa bằng phi cơ hay bằng khu trục hạm của Hạm đội 7 ở
Nam Hải nằm về phía Đông Bắc Hoàng Sa độ 160 cây số. Đài ra đa này liên lạc
với một đài ra đa của Nam Việt ở Đà Nẵng, việc này giúp cho Sài Gòn và Hoa
Thạnh Đốn mọi điều nghe thấy trên các đảo”[26]. Trong vụ Hoàng Sa, Mỹ lặng
lẽ quan sát và chỉ can thiệp một khi quyền lợi của mình bị ảnh hưởng nghiêm
trọng.
III. VIỆC TRAO TRẢ CÁC BINH SĨ VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sau khi cuộc hải chiến xảy ra, cả hai có những
thiệt hại nhất định dù ưu thế quân sự nghiêng về Hải quân Trung Quốc. Bởi
vậy, việc bắt chiến sĩ Hải quân VNCH làm tù binh theo những thông tin báo
chí lúc bấy giờ có những sắc thái khác nhau. Trong tổng số các chiến sĩ
VNCH tham gia vụ Hoàng Sa, sau cuộc đụng độ đã phân tán thành 4 bộ phận
khác nhau. Bộ phận thứ nhất, điển hình là các chiến sĩ thuộc Tuần dương hạm
Lý Thường Kiệt (HQ-16), dù bị trúng đạn nhưng Tuần hạm dương vẫn còn hoạt
động được và về đến Sài Gòn, “ngày 30-1-1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt
trúng đạn Trung Quốc về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch
Đằng với sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ đoàn”[27]. Bộ phận thứ hai
là do phương tiện chiến đấu bị hư hỏng nên không thể hoạt động hoặc bị
chìm, sau đó được cứu trợ bởi tàu nước ngoài như trường hợp của 23 thủy thủ
thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10). “Chiếc hộ tống hạm trên chở 82 thủy thủ
nhưng tàu của Hòa Lan chỉ cứu vớt được 23 người. Theo thiếu tá Trần Văn
Ngà, phụ tá phát ngôn viên quân sự trong số 23 chiến sĩ khi về tới Đà Nẵng
có hai người chết là Đại úy phó hạm trưởng và một hạm viên, 21 thủy thủ còn
lại có 2 người bị thương nặng”[28]. Bộ phận thứ ba là do Hải quân Trung
Quốc bắt làm tù binh, “tổng số người mất tích theo lời phát ngôn viên quân
sự là 116 nhưng nhà cầm quyền Trung Quốc nói họ chỉ cầm giữ 48 người”[29].
Và, bộ phận thứ tư chính là những chiến sĩ VNCH đã bị mất tích trên biển.
Các binh sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10)
sau khi bị hỏa tiển của Hải quân Trung Quốc bắn trúng hầm chỉ huy và bị
chìm, trong khi đó tàu của Hải quân Trung Quốc đi ngang qua chứng kiến tình
trạng này nhưng họ không đến bắt mà bỏ đi như lời khai của các bĩnh sĩ của
Hộ tống hạm này, sau khi được cứu vớt và về đến đất liền: “Chúng tôi có thể
sắp bị bắt làm tù binh. Tôi ngoắc thủy thủ đoàn trên tàu của Trung Cộng,
thủy thủ đoàn cũng ngoắc lại nhưng không đến cứu”[30]. Có một câu hỏi được
đặt ra là việc bắt binh sĩ VNCH làm tù binh được phát ra từ cấp có thẩm
quyền cao nhất của Trung Quốc, hoặc của Chỉ huy trưởng lực lượng tham chiến
tại Hoàng Sa hay chỉ là quyết định của các thuyền trưởng riêng lẻ trong lực
lượng Hải quân Trung Quốc? Bởi việc có một “chỉ thị” nhất quán sẽ nói lên
những hàm ý về tính chất của tranh chấp và việc giải quyết mâu thuẫn sau
đó. Trên thực tế, các chiến sĩ VNCH bị bắt chủ yếu những chiến sĩ đóng quân
trên quần đảo Hoàng Sa như Địa phương quân, nhân viên khí tượng và 14 nhân
viên thuộc HQ-4 đã đổ bộ lên đảo Cam Tuyền trước đó. Trung Quốc không bắt
các chiến sĩ trực tiếp tham chiến trên 4 tàu chiến của Hải quân VNCH làm tù
binh mặc dù điều đó nằm trong tay của Hải quân Trung Quốc như trường hợp
của các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm HQ-10.
Ngay sau khi các chiến sĩ thuộc Hộ tống hạm Nhật
Tảo (HQ-10) được cứu vớt và về đất liền, Ngoại trưởng VNCH lên án Trung
Quốc: “đã xâm chiếm các phần lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa và bắt đi một cách
trái phép 121 binh sĩ của Quân lực VNCH, vì vậy Trung Cộng phải có nhiệm vụ
trả tự do ngay cho các người này, chứ không cần phải có một thời gian nào
đó thuận tiện như là Tân Hoa Xã đã loan tải mới đây”[31]. Dưới áp lực về
ngoại giao và tổ chức Hồng Thập Tự quốc tế, Trung Quốc đã tiến hành trao
trả tổng số 48 tù binh, nhưng không được trao trả 1 đợt mà thành 2 đợt và
tổ chức trong im lặng.
Đợt thứ nhất được trao trả vào ngày 31-01-1974
“gồm 4 chiến sĩ VNCH và 1 người Mỹ tại Shumchun thuộc biên giới tỉnh Quảng
Đông và Hương Cảng”[32]. Đợt thứ hai vào ngày 17/02/1974 có “43 tù binh
VNCH vừa được Trung Quốc thu hôm chủ Nhật có thủy thủ Lý Chánh Hùng người
Việt gốc Hoa”[33]. Trong số đó “có 13 hải quân, 23 chiến sĩ địa phương
quân, 4 chiến sĩ công binh và 3 nhân viên khí tượng thuộc Đài khí tượng
Hoàng Sa”[34]. Trong đợt trao trả thứ nhất, chỉ có 5 tù binh, trong đó có người
Mỹ, đồng nghĩa với việc liên quan đến quan hệ giữa Trung Quốcvà Mỹ, điều
này hiển nhiên sẽ tác động quyết định đến việc Trung Quốc cần trao trả càng
sớm càng tốt. Trong lần trao trả thứ hai, “có thủy thủ Lý Chánh Hùng người
Việt gốc Hoa. Vì anh ấy là tù binh duy nhứt nói được Hoa ngữ nên anh đã làm
thông dịch viên cho tù binh VNCH. Thủy thủ Lý Chánh Hùng nói rằng anh không
muốn ở lại Hoa lục vì mỗi ngày anh và các đồng đội phải trải qua 3 tiếng
đồng hồ tuyên truyền chính trị của Trung Quốc mặc dù Trung Quốc cho ăn uống
khá”[35], vậy Trung Quốc cần giam giữ tù binh trong thời gian lâu hơn và có
người Hoa để “tuyên truyền chính trị” nhằm xuyên tạc những sự thật lịch sử.
Và, vô hình chung làm lộ rõ sự “bất chính” của Trung Quốc đối với sự kiện
hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Về thái độ của Trung Quốc và tổ chức Hồng Thập Tự
quốc tế muốn quá trình trao trả tù binh càng yên lặng càng tốt với lý do là
vì sự tế nhị của biến cố Hoàng Sa. Các nhà báo của VNCH đi theo đoàn thực
hiện trao trả, các báo tại Trung Quốc cũng như báo quốc tế đã không được
phép tiếp cận các tù binh. “Hồng Thập Tự quốc tế muốn việc thả tù càng yên
lặng càng tốt. Số người tiếp đón phái đoàn không quá 10 vì hệ thống an ninh
tại phi trường Kaitak được tăng cường tối đa, không một ai vô phận sự cần thiết
được lọt vô khu vực phi cơ HKVN đậu, kể cả các nhà báo tại Hương Cảng.
Khoảng hơn 10 phóng viên Việt Nam tháp tùng phái đoàn đi đón các chiến sĩ
VNCH đã bị giam lỏng gần 2 giờ đồng hồ. Phái đoàn viên phi hành vào nhà ga
được các nhân viên tại đây hỏi han lung tung về chuyến bay đặc biệt này.
Khi đó họ mới vỡ lẽ ra, vì từ trước họ chỉ biết hôm nay có cuộc trả tự do
tại biên giới Trung Cộng, Hương Cảng, chớ không hay gì về vụ đón người của
Việt Nam Cộng hòa”[36]. Căn cứ vào thái độ của các nước có liên quan, vào
số lần, sự im lặng bất thường và “tuyên truyền chính trị” đối với tù binh
cho thấy đằng sau đó là sự e dè, bất chính và có sự sắp đặt từ trước của
Trung Quốc.
Ngược lại, VNCH muốn “đường đường chính chính”
trong việc trao trả tù binh, được báo chí xâm nhập để chứng minh tính
“chính nghĩa” và là một “nạn nhân” như thế nào. Việc này VNCH không thể làm
theo ý mình vì việc trao trả tù binh diễn ra trên ở Trung Quốc và do họ
quyết định thời gian, địa điểm. Tuy nhiên, chính quyền VNCH đã chứng minh
tính “chính nghĩa” bằng cách khác là tổ chức đón tiếp các chiến sĩ tham
chiến khi về Việt Nam và thưởng cho họ một cách nồng hậu, các chiến sĩ trở
thành đại diện cho ý chí của Việt Nam trong việc chiến đấu để bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trước hết là đối với các chiến sĩ chiến đấu trở
về nhưng không bị bắt làm tù binh. Ngày 30-1-1974, “Tuần dương hạm Lý
Thường Kiệt về tới Sài Gòn và được đón tiếp trọng thể tại bến Bạch Đằng với
sự tham dự của nhiều thân nhân thủy thủ đoàn. Đề đốc Trần Văn Chơn, Tư lệnh
Hải quân VNCH đã trao Anh Dũng Bội tinh cho Trung tá Lê Văn Thứ, Hạm trưởng
HQ.16 cùng một số sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên thủy thủ. Các nữ sinh
cũng choàng vòng hoa chiến thắng và sau đó các thân nhân thủy thủ đoàn được
mời lên thăm chiến hạm”[37]. Đối với các tù binh được trao trả, khi về
đếnSài Gòn, có“một buổi lễ tiếp đón vô cùng long trọng sẽ được Phủ Tổng ủy
Dân vụ phối hợp với Tổng Cục chiến tranh và các Tòa Đô chánh tỉnh Gia Định,
với sự tham dự các đoàn thể sinh viên học sinh của các Hội đồng dân cử, các
thân hào nhân sĩ. Tổ chức ngay tại phòng khách Danh dự phi trường Tân Sơn
Nhất”[38]. Đồng thời, để “tưởng thưởng những chiến sĩ Hải quân can trường
chiến đấu tại Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao đã hướng dẫn một phái đoàn do ông
Nguyễn Hoàn, Tổng Thư ký Bộ Ngoại giao hướng dẫn đã đến Bộ Tư lệnh Hải quân
trao tặng một ngân phiếu một triệu đồng cho các thương binh và gia đình của
tử sĩ Hải quân tham chiến tại Hoàng Sa ngày 19-01-1974 vừa qua. Cũng trong
dịp này, ông Hoàn đã đã ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng, lòng hy sinh
quả cảm cũng như sự chiến thắng vẻ vang của các chiến sĩ Hải quân chống đế
quốc xâm lăng Trung Cộng để bảo vệ chủ quyền và sự bảo toàn lãnh thổ của
VNCH. Ngoài ra, để ghi ơn các anh hùng tử sĩ cao đậm đã ngã gục lại hải đảo
Hoàng Sa trong chiến trận vừa qua, tên tuổi của một số anh hùng có thể sẽ
được chính quyền chấp thuận cho đặt tên một số đường phố tại Thủ đô”[39].
Những hành động trên của chính quyền VNCH là những phản ứng thể hiện sự
đồng thuận cao giữa chính quyền - người dân và các tầng lớp khác nhau trong
xã hội đối với việc bảo vệ chủ quyền một cách chính đáng.
IV. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Trong bài này, thông qua nguồn tư liệu là báo chí
đương thời, mặc dù báo chí chịu tác động bởi tác nhân chính trị, tuyên
truyền. Tuy nhiên, yếu tố tuyên truyền chính trị đóng vai trò thứ yếu vì tư
liệu báo chí được chọn lọc theo uy tín và sự độc lập tương đối của các cơ
quan báo chí quốc tế; đối với báo chí VNCH thì dù có chịu ảnh hướng bởi yếu
tố tuyên truyền như thế nào đi nữa thì vẫn có giá trị tư liệu cao vì đó là
quan điểm chính thống của chính quyền và nhân dân VNCH về việc phản đối
Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của mình. Các hãng thông tấn lớn, có uy tín trên
thế giới đã ủng hộ lập trường của VNCH và lên án bất kỳ nước nào có ý định
thôn tính hoặc dùng vũ lực để thôn tính Hoàng Sa, Trường Sa, tạo ra một dư
luận mạnh mẽ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của VNCH trong
công cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Từ những thông tin báo chí phản ánh về sự kiện
Hoàng Sa 1974, đã khẳng định, làm rõ và gợi mở ba vấn đề lớn, có thể tham
khảo cho việc giải quyết mâu thuẩn hiện tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
và biển Đông nói chung.
Thứ nhất, báo chí lúc bấy giờ đã nói lên việc
chính quyền VNCH đã nỗ lực không ngừng nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, cả về
biện pháp chính trị và vũ trang; tạo ra một sự đồng thuận cao nhất trong xã
hội để lên án hành động xâm lược này cũng như đề cao những chiến sĩ Hải
quân tham chiến tại Hoàng Sa một cách trọng thể. Bởi vậy, trong việc giải
quyết tranh chấp lãnh thổ hiện nay, yếu tố nội lực, tức sự đồng thuận giữa
chính quyền và các tầng lớp nhân dân là cực kỳ quan trọng, nếu chính quyền
và nhân dân chia làm hai “thái cực” thì việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ sẽ là
một thất bại hoàn toàn.
Thứ hai, trên cơ sở các bài báo đã dẫn trong bài
này, cho thấy dường như Trung Quốc không có những phản ứng “mạnh mẽ” trước
những thái độ phản đối xâm phạm chủ quyền của VNCH mà Trung Quốc chỉ dùng
vũ lực bất chấp sự lên án của thế giới; đồng thời nuốn mọi việc coi như
việc đã rồi, “im chuyện” không cần nói đến, như việc Trung Quốc chỉ tuyên
truyền đối với tù binh VNCH mà không dùng công cụ báo chí để công khai sự
việc, chứng minh sự bành trướng, làm càn, lén lút, bất chính của Trung Quốc
trong vụ Hoàng Sa. Điều này đồng nghĩa với việc công tác tuyên truyền và
công khai thông tin trong giải quyết tranh chấp là một việc “cần phải có”
cho Việt Nam hiện nay, sự mù mịt thông tin sẽ không khai thác được cả hai yếu
tố nội lực và ngoại lực để giải quyết tranh chấp; tránh rơi vào tình thế là
“việc đã rồi”, không cần giải quyết nữa, phải đấu tranh liên tục và huy
động cá nhân, tổ chức dưới sự chỉ đạo của chính quyền Trung ương chủ động
tham gia việc chuẩn bị hồ sơ pháp lý để giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, phân tích vụ hải chiến Hoàng Sa và thái
độ của các nước liên quan cho thấy tính chất quốc tế của nó. Đó không còn
là vấn đề của một quốc gia riêng lẻ mà phải được đặt trong mối quan hệ quốc
tế ngày càng phức tạp, đặc biệt là chiến lược của Mỹ và Nga ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Yếu tố ý thức hệ sẽ trở thành vai trò thứ yếu trong
quan hệ quốc tế ngày nay, quyền lợi của quốc gia là trên hết và trong vụ
Hoàng Sa năm 1974 cũng đã chứng minh điều này. Bởi vậy, muốn giải quyết
tranh chấp thì phải xây dựng được thế độc lập của quốc gia trong giới lãnh
đạo, đồng thời khai thác được mâu thuẩn trong quan hệ quốc tế, chủ động
tham gia quá trình cân bằng thể chế, nhằm tận dụng sự ủng hộ của càng nhiều
nước càng tốt, tối đa hóa những bất lợi và cảnh giác với những cái bắt tay
ngầm giữa các nước lớn như trường hợp Mỹ và Trung Quốc trong vụ hải chiến
Hoàng Sa năm 1974.
Võ Hà
vanhoanghean
___
[1]
“Ngoại trưởng Vương Văn Bắc cực lực phản đối Trung Cộng cho người đổ
bộ lên quần đảo Hoàng Sa”, Tia Sáng, ngày 17/01/1974.
[2] “Vụ Hoàng Sa, Bộ Ngoại giao
Việt Nam Cộng hòa khẩn báo lên Liên Hiệp Quốc”, Tia Sáng, ngày 19/01/1974.
[3]
“Vụ quần đảo Hoàng Sa, một đơn vị VNCH đổ bộ lên phía Tây đảo
Robert”, Tia Sáng, ngày 19/1/1974.
[4]
“Ngoại trưởng Bắc đòi trao trả ngay 121 binh sĩ quân lực Việt Nam
Cộng hòa bị Trung Cộng bắt giữ”, Tia Sáng, ngày 28/01/1974.
[5]
“Hoàng Sa, quần đảo cá, chim và phốt phát”, Điện Tín, ngày
06/02/1974.
[6]
“Ngoại trưởng Bắc đòi trao trả ngay 121 binh sĩ quân lực Việt Nam
Cộng hòa bị Trung Cộng bắt giữ”, nđd.
[7]
“Ngoại trưởng Bắc đòi trao trả ngay 121 binh sĩ quân lực Việt Nam
Cộng hòa bị Trung Cộng bắt giữ”, nđd.
[8]
“Tìm hiểu mộ biến cố tầm vóc quốc tế Hoàng Sa mang tên Định
Hải-Trường Sa còn gọi là bão tố”, Tia Sáng, ngày 01/02/1974.
[9]
“Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa: Vẫn tiếp tục tranh
đấu đòi chủ quyền Hoàng Sa”, AFP, ngày 28/01/1974.
[10]
“Nguồn tin quân sự tại Sài Gòn Hải quân Việt Nam Cộng hòa trở lại
bao vây quần đảo Hoàng Sa”,UPI, ngày 28/01/1974.
[11]
“Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đặt trọng tâm vào nội
lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia sáng, ngày 31/01/1974.
[12]
“VNCH sẽ chiếm lại Hoàng Sa bằng mọi phương diện quân sự và chánh
trị”, THH, ngày 02/02/1974.
[13]
TheoSự Thật (Pravda), ngày 27/01/1974.
[14]
“Vụ Hoàng Sa còn lôi kéo thêm vài tranh chấp khác”, BCC, ngày 27/01/1974.
[15]
“Vụ Hoàng Sa còn lôi kéo thêm vài tranh chấp khác”, nđd. Bởi vì
Trung Cộng và Trung Hoa quốc gia có chung một thái độ trong vụ tranh chấp
tại quần đảo Hoàng Sa, cho nên trong bài viết này, việc sử dụng danh xưng
quốc gia là “Trung Cộng” hay “Trung Quốc” đều có thể chấp nhận được. Tuy nhiên
để nội dung rõ ràng hơn thì chúng tôi sử dụng đúng danh xưng lúc bấy giờ.
[16]
“Vụ Hoàng Sa còn lôi kéo thêm vài tranh chấp khác”, nđd.
[17]
“Giới lập pháp tiếp tục lên tiếng Hoa Kỳ cần phải có thái độ rõ rệt
về vụ đảo Hoàng Sa”,THH, ngày 01/02/1974.
[18]
“Nhận diện thời cuộc vụ Hoàng Sa hé lộ”, Tia Sáng, ngày 02/02/1974.
[19]
“Ngoại trưởng Bắc đòi trao trả ngay 121 binh sĩ quân lực Việt Nam
Cộng hòa bị Trung Cộng bắt giữ”, Tia Sáng, ngày 28/01/1974.
[20]
“Vụ Hoàng Sa còn lôi kéo thêm vài tranh chấp khác”, BCC, ngày
27/01/1974.
[21]
“Giới lập pháp tiếp tục lên tiếng Hoa Kỳ cần phải có thái độ rõ rệt
về vụ đảo Hoàng Sa”, nđd. Nội dung Hiệp định Paris có một khoản ghi về sự
toàn vẹn lãnh thổ phải được bảo đảm.
[22]
“Giới lập pháp tiếp tục lên tiếng Hoa Kỳ cần phải có thái độ rõ rệt
về vụ đảo Hoàng Sa”, nđd.
[23]
Huỳnh Ngọc Diêu, “Hoàng Sa-Trường Sa”, Điện Tín, ngày 06-02-1974.
[24]
Huỳnh Ngọc Diêu, “Hoàng Sa-Trường Sa”, Điện Tín, nđd.
[25]
Trung Hoa quốc gia và VNCH là đồng minh thân mật của nhau lúc bấy
giờ, tuy nhiên trong vụ Hoàng Sa đã đồng quan điểm với Trung Cộng. Bởi vậy
Mỹ không muốn rơi vào vòng rối là bỏ rơi đồng minh một khi tình hình tranh chấp
trên biển phức tạp hơn. Mỹ chỉ muốn dung hòa các quyền lợi.
[26]
“Hoa Kỳ đang giúp Việt Nam Cộng hòa theo dõi trên quần đảo Hoàng Sa
- Hải Nam”, AP, ngày 16/02/1974.
[27]
“Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đặt trọng tâm vào nội
lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia Sáng, ngày 31/01/1974.
[28]
“Sau trận hải chiến - không thực phẩm chỉ còn một ít nước, thủy thủ
đoàn còn lại tìm mọi cách bắt cá để ăn - hỏa tiễn STYX trúng phòng chỉ
huy”, AP, ngày 28/01/1974. Chiếc tàu cứu các thủy thủ là tàu dầu
SKOPIONELLA của công ty Shell (Hòa Lan) trên đường đi từ Hồng Kông đến
Singapore vớt tại vị trí cách Đà Nẵng chừng 150 hải lý về hướng Đông.
[29]
“Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đặt trọng tâm vào nội
lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia Sáng, nđd.
[30]
“Sau trận hải chiến - không thực phẩm chỉ còn một ít nước, thủy thủ
đoàn còn lại tìm mọi cách bắt cá để ăn - hỏa tiễn STYX trúng phòng chỉ
huy”, nđd.
[31]
“Ngoại trưởng Bắc đòi trao trả ngay 121 binh sĩ quân lực Việt Nam
Cộng hòa bị Trung Cộng bắt giữ”, Tia Sáng, ngày 28/01/1974.
[32] “Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam
Cộng hòa đặt trọng tâm vào nội lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia Sáng,
ngày 31/01/1974. Người Mỹ này tên là Gerald Emil Kosh, 27 tuổi làm việc cho
Bộ Quốc phòng Mỹ đang giữ nhiệm vụ liên lạc với Hải quân Việt Nam tại Đà
Nẵng, tới Hoàng Sa ngày 15-01 trong một chuyến thường lệ.
[33]
“Mỹ đang giúp Việt Nam Cộng hòa trinh sát quần đảo Hoàng Sa, 43
chiến sĩ bị Trung Cộng bắt đã về tới Sài Gòn”, AP, ngày 17/02/1974.
[34]
“Boeing 727 của H.K.VN sẽ đi Hồng Kông sáng 17-2 tiếp đón”, Tia
Sáng, ngày 18/02/1974.
[35]
“Mỹ đang giúp Việt Nam Cộng hòa trinh sát quần đảo Hoàng Sa, 43
chiến sĩ bị Trung Cộng bắt đã về tới Sài Gòn”, nđd.
[36]
“Chuyến đi đón 5 binh sĩ do Trung Cộng thả: cả phái đoàn bị Giam
lỏng ở sân bay Kaitak”, Điện Tín, ngày 02/02/1974.
[37]
“Sau vụ Hoàng Sa, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đặt trọng tâm vào nội
lực bảo vệ Trường Sa - Phú Quốc”, Tia Sáng, ngày 31/01/1974.
[38]
“Boeing 727 của H.K.VN sẽ đi Hồng Kông sáng 17-2 tiếp đón”, nđd.
[39]
“Bộ Ngoại giao tặng các chiến sĩ Hải quân tham chiến đảo Hoàng Sa
một triệu đồng”, Tía Sáng, ngày 16-02-1974.
|
No comments:
Post a Comment