Tuesday, April 3, 2012

Sức mạnh Mỹ trong thời khắc chuyển đổi

NgV




Ngày nay, với việc Mỹ đang cắt giảm lớn chi tiêu quân sự và rút quân khỏi các cuộc chiến hiện tại thì những ý định tương lai của nước này, và những nơi mà nước này sẽ tìm cách kiểm soát, đang ngày càng trở nên rõ ràng. Quan trọng nhất sẽ là Thái Bình Dương và Biển Đông.


"Đất nước chúng ta - Mỹ đang ở thời khắc chuyển đổi", Tổng thống Barack Obama khẳng định như vậy hôm 5/1 khi ông công bố một chiến lược quốc phòng mới. Điều đó có nghĩa là quy mô của quân đội Mỹ sẽ được thu hẹp và một số sứ mệnh chiến đấu được cắt giảm, đặc biệt là bộ binh cơ giới hóa ở châu Âu và chống phiến quân ở Tây Nam Á. Mục tiêu là để tập trung nhiều hơn vào các khu vực khác của thế giới, đặc biệt là Đông Nam Á và Thái Bình Dương, và vào các mục tiêu khác: chiến tranh trên mạng, các chiến dịch đặc biệt và kiểm soát biển. "Lực lượng chung của Mỹ sẽ nhỏ gọn hơn và sẽ tinh giản hơn", trích lời Bộ trưởng Quốc phòng Leon E Panetta. "Nhưng... lực lượng ấy sẽ nhanh nhẹn hơn, linh hoạt hơn, sẵn sàng triển khai nhanh chóng, sáng tạo, và tiên tiến về công nghệ".

Theo hai ông Obama và Panetta, chiến lược mới phản ánh những hoàn cảnh đã thay đổi cả ở trong và ngoài nước. Mỹ, bị suy yếu do khủng hoảng tài chính, đang gánh một khoản nợ khổng lồ. Bộ Quốc phòng phải thực hiện các khoản cắt giảm chi tiêu lên tới 487 tỷ USD trong 10 năm tới theo Đạo luật Kiểm soát Ngân sách 2011; và có thể có thêm nhiều khoản cắt giảm nữa nếu Quốc hội không đạt được thỏa thuận về các biện pháp tiết kiệm ngân sách bổ sung trong những tháng tới đây. Ở nước ngoài, sức ép quân sự không hề thuyên giảm bất chấp việc Mỹ đã rút quân khỏi Iraq, và rồi sẽ thoái lui khỏi Afghanistan: Mỹ đang đối mặt với nhiều mối đe dọa mới về xung đột tiềm ẩn, chẳng hạn với Iran và Triều Tiên, chưa kể bóng ma ngày càng to lớn của một Trung Quốc đang trỗi dậy.

left align image

Nhìn lướt qua thì chính sách quốc phòng có thể được xem như một phản ứng thực dụng trước những hoàn cảnh địa chính trị và tài chính đã thay đổi, cung cấp một lực lượng nhỏ hơn nhưng có năng lực tốt hơn nhằm đối phó với những hiểm họa tương lai. Nhưng nếu xem xét kỹ hơn thì có thể thấy rõ một ý định chiến lược lớn hơn. Đối mặt với một sự xói mòn không thể tránh khỏi về vị thế của một siêu cường duy nhất và sự trỗi dậy của các đối thủ đầy tham vọng ở châu Á, Mỹ phải tìm cách giữ vững vị trí đứng đầu toàn cầu của mình bằng cách tiếp tục thống trị ở các khu vực trọng yếu của thế giới và các hình thức chiến đấu then chốt. Đặc biệt, nước này sẽ nhắm tới việc thống trị rìa biển của châu Á, theo một hình cung từ Vịnh Ba Tư và Ấn Độ Dương tới Biển Đông và tây bắc Thái Bình Dương. Điều này sẽ đòi hỏi phải duy trì sự ưu việt của Mỹ trong chiến tranh không quân và hải quân, và tiếp tục thế vượt trội trong chiến tranh mạng, công nghệ không gian và các lĩnh vực đặc biệt khác. Chống khủng bố sẽ vẫn là một nhiệm vụ quan trọng của Lầu Năm Góc, nhưng sẽ được giao phó chủ yếu cho Lực lượng Đặc nhiệm vốn được trang bị các máy bay sát thủ không người lái và các trang thiết bị công nghệ cao khác.

Giải quyết việc thu hẹp các cam kết và lợi ích ở nước ngoài - hoặc, như một số người nghĩ, xử lý việc suy giảm của một đế quốc - chưa bao giờ dễ dàng. Các cường quốc lớn khác mà đã phải đảm trách những nỗ lực như vậy - Anh và Pháp sau Thế chiến II, Nga sau sự sụp đổ của Liên Xô - đều thấy rõ việc đó là cực kỳ khó khăn. Thông thường, họ dấn mình vào các cuộc mạo hiểm quân sự khờ dại, chẳng hạn như cuộc tiến chiếm Ai Cập (Suez) năm 1956 của Anh-Pháp và cuộc xâm lược Afghanistan năm 1979 của Liên Xô - những hành động càng đẩy nhanh sự sụp đổ của đế chế thay vì trì hoãn điều đó. Khi Mỹ tấn công Iraq năm 2003, nước này đang ở đỉnh điểm sức mạnh, nhưng phong trào nổi dậy kế đó kéo dài quá lâu và hao tổn quá nhiều - ước tính 3 nghìn tỷ USD - đến nỗi Mỹ đã mất đi quyết tâm (và phần lớn khả năng của nước này) nhằm chống lại bất kỳ một cuộc chiến trên bộ kéo dài mới nào ở châu Á. Từ đây, ít có khả năng Obama hoặc một vị tổng thống nào khác của Mỹ, dù là người Dân chủ hay Cộng hòa, sẽ cho phép một chiến dịch quan trọng tương tự như những lần can thiệp vào Iraq và Afghanistan.
Obama và các cố vấn cấp cao của ông, nhận thức rất rõ về lịch sử này, đã quyết tâm tránh mắc phải những sai lầm chiến lược của các lãnh đạo tiền nhiệm. Nhưng nếu họ nhận ra sự dại dột khi cố gắng giữ tất cả các cam kết ở nước ngoài, biết rằng nó sẽ làm đất nước phá sản, thì họ sẽ không định thực hiện một sự thu nhỏ các lợi ích nước ngoài, cho rằng điều này là một công thức tạo ra những hỗn loạn và suy giảm lớn hơn. Thay vào đó, họ đang tìm kiếm một con đường trung dung, chọn cách giảm bớt các cam kết của Mỹ ở một số khu vực - đặc biệt là châu Âu - trong khi đẩy mạnh năng lực của đất nước nhằm chiếm ưu thế ở các khu vực được cho là quan trọng nhất đối với uy thế toàn cầu tiếp tục của nước Mỹ.

Kiềm chế Trung Quốc

Điều này có nghĩa là thống trị khu vực tây Thái Bình Dương và kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc. "Ở rất nhiều khía cạnh, một Thái Bình Dương rộng lớn hơn sẽ là phần năng động và quan trọng nhất của thế giới đối với các lợi ích Mỹ trong nhiều thập niên tới", trích lời Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William J Burns hồi tháng 11 năm ngoái. "Nơi đó gồm hơn một nửa dân số của thế giới, rất nhiều nền kinh tế quan trọng nhất của thế giới, các đồng minh then chốt và các cường quốc đang nổi lên".
Theo ông Burn, để tiếp tục mạnh mẽ và phồn thịnh thì Mỹ phải tập trung sức lực của mình vào khu vực này và đảm bảo rằng Trung Quốc không giành được sức mạnh và sự ảnh hưởng trước bất lợi của Mỹ. "Khi châu Á trải qua những thay đổi sâu rộng, chúng ta cần phải phát triển cấu trúc ngoại giao, kinh tế và an ninh để có thể giữ được nhịp độ".
"Cấu trúc" mới này có rất nhiều mặt, cả quân sự và phi quân sự. Trên mặt trận ngoại giao, Washington đã xây dựng các mối quan hệ với Indonesia, Philippines và Việt Nam, và nối lại quan hệ chính thức với Myanmar. Nhà Trắng cũng nỗ lực củng cố thương mại giữa của Mỹ với châu Á, và thúc đẩy thành lập một hiệp ước thương mại vùng, Hiệp định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Điều đó chắc chắn là để chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc và ảnh hưởng của nước này ở Đông Nam Á. Chẳng hạn, bằng cách phục hồi quan hệ với Myanmar, Mỹ đã giành được một tiếng nói ở một đất nước mà Trung Quốc, mãi cho tới gần đây, chỉ có vài đối thủ ít ỏi; TPP theo đề xuất loại trừ Trung Quốc dựa trên cơ sở luật pháp.

Cùng với những động thái về kinh tế và ngoại giao là các sáng kiến quân sự quan trọng. Để các nước châu Á lớn mạnh và phồn vinh, các nhà chiến lược Mỹ tin rằng, họ phải được tự do tiếp cận Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương (cùng với các tuyến đường biển kết nối như Eo biển Malacca và Biển Đông) để nhập khẩu những nguyên vật liệu thô cần thiết (đặc biệt là dầu lửa) và xuất khẩu hàng hóa. Như ông Burns giải thích hồi tháng 11: "Sự lớn mạnh của châu Á ấn tượng tới mức nó không chỉ tái tạo các nền kinh tế và thành phố của châu Á mà còn kéo ngược bản đồ địa chiến lược. Ví dụ, một nửa lượng hàng hóa của thế giới đi qua Biển Đông".

Bằng cách thiết lập sự thống trị hải quân ở Biển Đông và các vùng biển gần kề, Mỹ có thể sử dụng một kiểu sức mạnh ép buộc tiềm tàng đối với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực, như hải quân Anh từng làm. Các nhà chiến lược hải quân Mỹ từ lâu đã biện hộ cho một lập trường như vậy, tuyên bố rằng lợi thế đặc biệt của Mỹ nằm ở khả năng nước này kiểm soát các tuyến đường biển lớn của thế giới - một lợi thế mà không một cường quốc nào có được. Giờ đây, dường như là chính quyền Obama đã đi theo quan điểm đó. Điều này được hàm ý rõ ràng trong những hành động mà ông Obama công bố trong chuyến thăm tới khu vực hồi tháng 11. Bất kể thực tế cắt giảm ngân sách, ông khẳng định ở Canberra: "Chúng tôi sẽ phân bổ các nguồn lực cần thiết để duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ của mình tại khu vực" và sẽ "tăng cường sự hiện diện của mình ở Đông Nam Á". Chủ trương này sẽ bao gồm những đợt triển khai quân thường xuyên hơn của các tàu chiến Mỹ và các cuộc tập trận tại khu vực. Bên cạnh đó, ông Obama cũng công bố thành lập một căn cứ quân sự mới của Mỹ ở Darwin, trên bờ biển phía bắc Australia, và tăng viện trợ quân sự cho Indonesia.

Hiện diện và ngăn chặn

Việc thực hiện tầm nhìn địa chính trị to lớn này có những hàm ý rõ ràng đối với sự phát triển của chính sách quân sự, và điều đó được phản ánh rõ trong chính sách chiến lược mà hai ông Obama và Panetta đã công bố hồi tháng 1. "Như tôi đã nói rõ ở Australia", ông Obama nhấn mạnh, "chúng tôi sẽ tăng cường hiện diện ở [khu vực] châu Á - Thái Bình Dương và những hạn chế về ngân sách sẽ không được áp dụng gây bất lợi cho khu vực then chốt đó".
Panetta nói thêm: "Quân đội Mỹ sẽ nâng cao sức mạnh tổ chức của mình và tập trung vào sự hiện diện tăng cường, phóng chiếu sức mạnh, và khả năng ngăn chặn ở châu Á - Thái Bình Dương".
Mặc dù bản thân tài liệu chính sách không xác định những thành phần quân sự cụ thể nào sẽ được củng cố, rõ ràng là trọng tâm đó sẽ được đặt vào các lực lượng hải quân - đặc biệt là các chiến đoàn hàng không mẫu hạm - cũng như các tên lửa và máy bay tân tiến. Do đó, trong khi quân đội Mỹ sẽ chứng kiến một sự tinh giản về sức mạnh tổng thể của mình từ xấp xỉ 570.000 binh sĩ hiện nay xuống còn 490.000 người trong vòng 10 năm tới, Obama đã bác bỏ các kế hoạch về bất kỳ một sự cắt giảm nào ở hạm đội hàng không mẫu hạm của hải quân. Mỹ cũng sẽ đầu tư một cách cơ bản vào các vũ khí nhằm đánh bại các năng lực "chống-tiếp cận/từ chối khu vực" (còn được biết đến là A2/AD) của các kẻ thù tiềm năng - các máy bay, tên lửa, và tàu chiến được thiết kế để chế ngự lực lượng tấn công Mỹ (đặc biệt là các hàng không mẫu hạm) ở những khu vực tranh chấp. Bởi vì Trung Quốc được cho là sẽ mở rộng khả năng tấn công các lực lượng hải quân Mỹ hoạt động ở Biển Đông và các khu vực khác nằm ở ngoại biên nước này, các lực lượng Mỹ sẽ được trang bị các vũ khí phòng thủ tốt hơn để chống lại những khả năng được gọi là A2/AD đó.
Như kế hoạch mới của ngũ Giác Đài nêu ra: "Để ngăn chặn được các kẻ thù tiềm năng và không cho họ đạt được các mục tiêu của mình, Mỹ phải tiếp tục duy trì khả năng nhằm phóng chiếu sức mạnh ở các khu vực mà trong đó, sự tiếp cận và tự do hoạt động của chúng ta bị thách thức" - một sự ám chỉ rõ ràng tới Biển Đông và Đông Hải, cũng như các vùng biển ngoài khơi Iran và Triều Tiên. Ở những khu vực này, được biết những đối thủ tiềm năng "chẳng hạn như Trung Quốc" sẽ dùng "các biện pháp bất đối xứng" - tàu ngầm, tên lửa chống hạm, chiến tranh mạng - để đánh bại hoặc vô hiệu hóa các lực lượng Mỹ. Cho nên, "quân đội Mỹ sẽ đầu tư như được yêu cầu để đảm bảo khả năng hoạt động ở những môi trường A2/AD". Điều này có nghĩa là Mỹ sẽ đặt ưu tiên cao nhất vào việc chế ngự rìa biển của châu Á, ngay cả khi phải đối mặt với sự phản đối từ Trung Quốc và các cường quốc đang lên.
Michael Klare/America’s maritime power “Our nation is at a moment of transition"
Le Monde Diplomatic (English Edition)
Thanh Thảo dịch
Nam Yết chuyển

No comments: