Sông Kỳ Cùng
-Ông
Trần Văn đâu???, ông Trần Văn đâu???
Tiếng gõ cửa rầm rập. Mợ dấu anh cả sau cánh cửa và phân trần với
đám Việt Minh:
-Chồng tôi đi vắng,
không có nhà.
Tên trưởng toán, mặt mũi đằng đằng sát khí quơ súng quát
tháo, sai cả bọn đi lục lọi quanh nhà. Mợ
nép mình dấu anh cả sau cánh cưả. mặc cho bọn thổ phỉ chia nhau xăm xoi
vào các chum vại, chúng lật tung mùng mền, chăn chiếu, đổ cả nồi niêu, cơm nước
văng tung toé ra trên nền nhà. Lùng sục khắp trong nhà, ngoài ngõ không thấy ba
đâu, cả bọn hậm hực rồi bỏ đi không quên
buông lời hằn học doạ dẫm:
- Bà khôn hồn gọi ông
ấy về đầu thú cách mạng đi.
Đợi cho đám Việt Minh đi khỏi, mợ nói với chúng tôi
-Giờ này ba các con
chắc đã vượt biên giới qua Tàu rồi.
Mợ hay kể chuyện về ba cho các con nghe, ba theo Việt Nam
Phục Quốc Hội hoạt động chống Pháp và chống Việt Minh, hay đem súng về nhà cất
dấu và thường đi khỏi nhà vào lúc ban đêm.
Lạng Sơn vào năm 1945-1946, Pháp và Việt Minh tranh nhau dành giật mảnh
đất biên giới này để dành quyền sử dụng đường thông thương qua Tàu và ngăn chặn
địa bàn hoạt động của các nhà cách mạng quốc gia ái quốc không ưa thực dân và
cộng sản. Cứ mỗi lần ba bị Pháp bắt đi tù thì ở nhà mợ lại sinh nở. Ba kể lại khi mợ sinh Trần thì ba bị Pháp bắt
giam tại nhà tù Sơn La nằm mơ thấy con chó lớn, đầu có hai cái xoáy. Khi mãn tù về đến nhà ba xoa đầu Trần và thấy
hai xoáy, ba thích lắm và dắt Trần đi chợ Kỳ Lừa chơi. Trên đường đi ra chợ,
một đoàn xe tăng của Pháp ầm ầm đi ngược chiều tung bụi mù trời. Bỗng một tràng
súng đại liên nổ vang, đầu Trần đau buốt, mắt nháng lửa. Ba nhoài người nằm úp
xuống che phủ thân Trần và Trần ngất đi lúc nào không hay. Lúc tỉnh dậy trần thấy mình nằm trên giường
trong nhà thương, đầu nhức ê ẩm, mùi ê te xông nồng nặc, ba đứng trầm ngâm bên
cạnh. Cô đầm y tá trong bộ quần áo trắng toát dịu dàng nựng cằm Trần và luôn
miệng khen:
-
Très joli, très
joli !!!
Về tới nhà, ba nói với mợ:
- Cũng may cho hai bố con, lính Tay trên xe tăng bị cướp cò súng , đạn liên
thanh bắn ria vào tường, vôi vữa văng ra trúng hai bố con nên chỉ bị xây sát chứ
không là ngủm rồi.
Ngày còn bé, Trần có chiếc bụng
ỏng, đôi chân xe điếu lỏng khỏng nên mất thăng bằng hay bị ngã. Ðám người Thổ giúp ba ép dầu trẩu để làm sơn thấy
vậy bèn đặt tên Trần là tu Cấp.
Trần hỏi tu Cấp nghĩa là gì, ông
già Báng, người Thổ cười lớn, nhe hàm răng đen xiêu vẹo, tay ông chỉ vào bụng Trần:
-
Tu Cấp là con cóc
ấy, bụng ỏng hay ngã thì gọi là Tu Cấp là phải rồi.
Trần oà lên khóc về mách Mợ, Mợ
chưa nói gì thì Anh Cả đã lòn ra phía sau tụt phăng quần Trần xuống. và chỉ cho
cả nhà nhìn đôi chân đầy sứt sẹo của Trần. Anh cả chế nhạo chân Trần đầy đồng
xu, đồng hào. Quá xấu hổ Trần dậm chân đành đạch, vừa kéo quần vừa chạy vội đến
rúc vào người mợ, vừa khóc nức nở. Mợ
mắng yêu anh cả và quay sang vỗ về Trần.
Anh cả có nước da đen bóng, anh có
nụ cười má lúm đồng tiền rất tươi, rất có duyên có lẽ vì vậy nên anh có nhiều bạn. Anh rất thích thể thao, bơi lội giỏi, đá banh
thì khỏi chê. Trần thương anh cả lắm và
phục anh ấy nữa nào là học giỏi này, nói tiếng Tây như gió. Bà đầm Rosa,
Trần hay gọi bà ấy là bà Dâu Da, dạy
Pháp văn tại trường Con Trai ( École des Jeune Fils) khen anh cả nói tiếng Tây
giọng parisienne. Tính anh cả rất thích
pha trò và chọc phá. Một hôm trong giờ
học Nhạc, ông Thày người Pháp gọi anh ấy lên trả bài đọc nốt nhạc. Cả lớp im lặng như tờ vì ông thày dạy nhạc
này rất khó, anh lững thững lên cạnh bàn
thày quay về phiá các bạn học, thản nhiên cất cao giọng:
-
Són, són, són
..ra quần.
Nhìn anh vừa hát tay vừa đánh nhịp
loạn sạ, cả lớp nhịn không nổi cười ồ lên.
Ông thày trừng mắt gõ thước kẻ đồm độp lên bàn, quát:
-silence!!! .
Quay trở về chỗ ngồi anh cả tủm
tỉm cười nháy mắt nhìn cả lớp đang tiu nghỉu ngồi im lặng. Không hiểu trong lớp có ai mách lại cho thày;
rốt cuộc anh Cả bị ông thày phạt hai
buổi consigne chép phạt cuối tuần.
Anh Cả rất ghét giờ Sử, vì học
toàn Sử Pháp mà lại có câu “nos ancêtres sont les gaulois”, nên anh hay cúp cua
giờ này. Bà Rosa rất thông cảm,thấy anh Cả học rất dễ dàng và rất giỏi nên hỏi
anh ở nhà có phải làm lụng gì không? anh
trả lời không phải làm gì. Một buổi
chiều sau khi tan học một lúc, bà Rosa dẫn một
đám học trò con gái cưng của bà của trường École des Jeunne Filles đến tận
nhà. Bà thấy anh cả đang xách nước tưới
cây sau vườn. Với đôi thùng trên tay, sững sờ nhìn thấy bà và
đám bạn học, anh cả chỉ còn biết cười
trừ.
Hôm ấy năm anh em hay rủ nhau thăm
động Tam Thanh. Con đường vào hang ngoằn ngoèo như con rắn. Nhìn đoàn người lũ lượt thắp đuốc làm bằng vỏ
bánh xe ô tô cắt ra và đốt lên để soi đường đi trong hang, Trần cảm thấy rời rợn lạnh cả gáy. Anh Sơn, anh trai kế của Trần đang đi, bỗng vấp chân ngã xuống vực, anh cả
nhanh tay kéo lên, may mắn anh Sơn không sứt sát gì. Từ đó anh Sơn có tên là anh Sụt.
Hang Tam Thanh là nơi dân Lạng Sơn
hay vào trú ẩn, mỗi khi có máy bay đồng minh hoặc cuả Pháp đến oanh tạc. Năm 1946, Pháp cho nhẩy dù chiếm lại Lạng
Sơn, dân chúng sợ hãy ùn ùn kéo vào Tam
Thanh lánh nạn. Một anh Việt Minh nổi cơn hăng tiết vịt nói:
-Cái hang này rất an toàn, Máy
bay Tây chẳng làm gì được.
Nói xong, anh ta làm oai đi về
phía cửa hang, tụt quần, chià mông làm công việc bài tiết. Bỗng có tiếng máy bay ào ào và một tràng liên
thanh nổ vang chát chúa, anh chàng Việt Minh mặt xanh như tầu lá, ôm đít đầy máu, chạy ào vào trong hang, một tay chỉ
ra ngoài lắp bắp nói với mọi người:
-Máy bay Pháp, máy bay Pháp.
Thỉnh thoảng mợ hay dắt Trần về
thăm ông ngoại gần hội Chi Chi bên tỉnh. Trần rất thích căn nhà tranh xinh đẹp
của ông ngoại với nền đất nện lên nước bóng loáng, vách quệt rơm trộn bùn. Nằm
trên tấm phản gỗ lim mát rượi, Trần nghe thấy tiếng đồng hồ quả lắc kêu tích
tắc, tiếng võng của ông ngoại kêu kẽo kẹt, cơn gió ấm ngoài đồng thổi lùa vào
nhà đem theo hương lúa chín. Cảnh tịch
mịch của đồng quê thật kỳ diệu và thần tiên đối với tuổi thơ của Trần, tâm trí Trần
bay bổng lên tít trời xanh và chìm dần vào tiếng Mợ ru:
Ðồng Ðăng có Phố Kỳ
Lừa.
Có nàng Tô thị có chuà
Tam Thanh.
Ai Lên xứ Lạng cùng
anh
Tiếc công bố mẹ sinh
thành ra em...
Căn nhà gạch chắc chắn
của ba mợ chỉ cách con sông Kỳ Cùng khoảng một trăm mét và cũng gần Ðền Kỳ
Cùng. Ngôi đền thật đẹp với kiến trúc cổ
kính, mái cong chạm trỗ rất tinh vi, toàn cảnh trông uy tráng và linh thiêng. Năm ấy nước sông Kỳ Cùng dâng cao, chảy siết
mấp mé cầu sông Kỳ Cùng, dân chúng lũ lượt gồng gánh đi chạy lụt. Ba mợ phải làm sà gỗ lên tận nóc nhà để cả
nhà lên đó ngồi tránh lụt. Căn nhà tranh
của ông ngoại chìm trong dòng nước chỉ nhô lên mái tranh ướt sũng.
Ba thì cứ bị Tây bắt giam khi thì ở nhà tù Lai Châu, khi thì
Sơn La. Lắm lúc lại bị Việt Minh săn đuổi ba phải chạy qua Tàu tạm lánh nạn, mợ
phải gồng gánh nuôi các con.
Sau khi đậu kỳ thi tuyển, anh cả được gửi về Hà Nội theo học Lycée Albert Sarraut với lời
giới thiệu của bà Rosa. Mặc dầu hoàn cảnh gia đình túng bấn, ba mợ cũng
chắt chiu mua cho anh cả một chiếc xe đạp Peugeout mới toanh, sắm cả máy ảnh và
đồng hồ nữa để anh khỏi thua kém đám con quan, con nhà giàu đồng học.
Việt Minh chiếm Lạng Sơn năm 1950, ba và anh em Trần đi máy bay di cư cùng đám dân Hoàng Triều Cương Thổ về Hà
Nội. Mợ ở lại Lạng Sơn để thuyết phục
ông ngoại đi theo, nhưng ông ngoại nhất định không chịu đi. Ba nói chị cả lên Lạng Sơn đón mợ về vì các
em không ai trông coi. Chị cả phải mặc bộ quần áo thâm, đội nón sơn đen đi bằng
đủ mọi phương tiện, nào đi bộ, xe thồ.. Trên đường đi bom đạn của Pháp thi nhau
oanh tạc, chị bị sốt rét ngã nước thưà sống thiếu chết. May có đồng bào Thổ chỉ
cho thuốc ngải uống nên hết bệnh. Chị thuyết phục được mợ bỏ buôn bán để về
trông nom gia đình.
Sông Hồng Hà
Tiếng súng liên thanh kêu ùng ục từ cánh đồng xa vọng lại,
trên không văng vẳng tiếng máy bay Dakota. Ánh mặt trời gay gắt trên đỉnh bầu
trời cao lộng xanh thẳm vẽ riềm cho những cụm mây bông trắng xoá. Từng ấy thứ
reo cái nóng gay gắt xuống miền châu thổ sông Hồng Hà làm cho những cánh
đồng lúa khô cháy sau vụ gặt. Chân của những người nông dân thêm nứt nẻ và lòng
dạ họ ngao ngán, khô héo. Ðám dân thiểu
số di cư được quốc trưởng Bảo Ðại cho tạm cư tại khu đình Ái Mộ sau đó rời về
Nội Châu, ngoại ô Hà Nội. Những truyền
đơn đày mầu sắc vẽ hình Quốc Trưởng Bảo Ðại và dân chúng vây quanh, với hàng
chữ: Ðồng
bào ơi, ôm lấy tôi, đến khi nào hết đói thì thôi. Hình ảnh các anh lính nhảy dù của quân đội
quốc gia được vẽ đội mũ lệch mầu đỏ trông thật hiên ngang, chất phác xuất hiện
trong các truyện bằng tranh màu được đám trẻ con chúng tôi vồ lấy đọc ngấu
nghiến. Trần thích nhất tờ giấy một đồng Bảo Ðại có in hình Đức Quốc Trưởng, mầu
sắc vàng, xanh lá cây rực rỡ. Mỗi khi được Mợ cho một đồng mới toanh, Trần ép
kỹ trong tập vở đi học để cho khỏi bị nhăn.
Một hôm tin quà viện trợ Mỹ đến. Đồng bào tập trung tại sân đình sắp hàng để
nhận quà. Những kiện hàng được mở ra
thơm phức, nào là quần áo đầy mầu sắc, nào là thực phẩm đóng hộp, nào là tập vở
học trò giấy trắng phau, với bút nến vẽ màu.
Mùi vị thơm tho của những món quà Mỹ viện trợ và hình ảnh hai bàn tay
nắm chặt trên các thùng quà đã in sâu
vào đầu óc non dại từ lúc đó. Những hộp bơ, phó mát, sữa bột do chính phủ
và nhân dân Mỹ tặng bị đồng bào người thổ , mán đổ đi không thương tiếc vì họ
chê mùi vị lạ không ăn được. Họ để dành
các hộp sắt để đựng nước.
Trần lãnh được một cái quần dạ mầu xanh lá cây có yếm che
ngực rất vừa và rất đẹp, nhưng Trần không chịu mặc chỉ vì cái yếm, trông có vẻ
yếm rãi trẻ con quá. Một hôm trời thật
lạnh, mợ bắt Trần phải mặc cái quần dạ này đi học. Trần vùng vằng , phụng phịu nhưng rốt cuộc chị cả cũng mặc được cái quần
cho Trần. Hôm ấy trên đê Yên Phụ, Trần
xấu hổ vì đám con gái chế nhạo cái quần có yếm của Trần. Trần tất tả chạy trước, đám con gái đuổi theo
vừa lêu lêu Trần. Ðám diễn hành trẻ con
thấp thoáng ẩn hiện sau những bụi táo ta và làn sương mù dày đặc phả xuống bờ
đê.
Năm 1953 anh cả tình nguyện vào quân chủng Không Quân của
Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Nhìn hình ảnh chụp anh cả ăn mặc thường phục
thật lịch sự , thắt cravat, đeo kiếng mát tươi cười cùng các bạn anh đi trên
đường phố Sài gòn, Trần thấy anh mình đĩng đạc, sang trọng và ra vẻ ”ông” lớn quá. Tấm bưu ảnh mầu có hình chợ Bến Thành và mùi trầm
cuả cái quạt được trạm trỗ công phu do anh cả gửi từ Sài Gòn biếu ba mợ đã làm Trần
ngất ngây về miền Nam, nơi ấy như một phần đất rất là xa la, không khác gì một
thành phố ngoại quốc và thật tân kỳ với những dinh thự, những chiếc xe taxi và
cyclo máy. Trần mong có một ngày nào sẽ
đặt chân đến thành phố này.
Không hiểu bị Việt Minh hoặc chó săn mật thám chỉ điểm, anh cả đã bị bắt giam tại bót Catinat vì bị tình nghi anh cả gia nhập Không Quân để qua Pháp phá hoại phi trường Marrakech hay Salon gì bên đó. Tại bót hắc ám này anh cả đã chịu đủ mọi món tra tấn của thực dân Pháp. Anh kể lại chúng đã cho anh đi tàu bay bằng cách treo ngược chân và đổ nước mắm và sà bông vào mũi. Sau cùng chúng đã phải thả anh ra vì thấy anh vô tội.
Hà Nội 1953, ba tiễn anh cả vào Sài Gòn học khoá sĩ quan Không Quân
Sau Hiệp Ðịnh Genève, đồng bào Hoàng Triều Cương Thổ lại một
lần nữa di cư về Ðà Lạt. Ngay từ lúc
đầu, những chú bò của cụ Diệm phát cho
đồng bào để làm ruộng bị ngả ra làm thịt.
Lần hồi tình trạng định cư được ổn định, mọi người tự túc lo làm ăn, Tùng Nghĩa trở nên trù phú. Trần đi học cùng với các cô Thái Trắng bằng
tuổi chị cả của Trần. Các cô gái cao
nguyên xinh đẹp này có họ Ðèo và chữ lót là Nàng hay mặc váy satin đen dài đến
gót chân ôm gọn bộ mông tròn tròn lẳn.
Chiếc eo thon của các cô nàng được thắt bằng những giải lụa xanh đỏ. Các cô mặc bộ áo cánh chẽn mầu trắng bó sát
những bộ ngực tròn trĩnh căng tràn nhựa sống, và được tô điểm thêm bằng một
hàng khuy bạc trạm trỗ rất tinh xảo.
Những thằng nhóc con tinh nghịch đã vấn giấy làm đạn, bẻ thành hình chữ
V gắn lên sợi dây cao su nhằm những bộ mông tròn được bọc bằng váy satin bóng
lưỡng của các cô Thái mà bắn sẻ khiến cho các cô ấy đau điếng la oai oái. Các cô nàng đuổi theo chúng tôi, bắt được Trần
là các cô ấy vẹo tai, bẹo má và cốc vào đầu đau điếng, nhưng chúng tôi chứng nào
vẫn tật đó.
Có lần cụ Diệm về Tùng Nghĩa thăm đồng bào thiểu số và ngủ qua
đêm. Trường Tiểu Học của Trần được quét
dọn thật sạch sẽ, trang hoàng rất đẹp để
làm chỗ ngủ và nghênh đón Tổng Thống. Đêm
đó dưới ánh lưả bập bùng, cụ Diệm tâm sự với đồng bào rằng ông rất nhớ ơn một
người miền núi đã cứu ông thoát khỏi sự lùng bắt của Việt Minh và ông đang tìm
người này để trả ơn. Các cô Thái trắng bạn học với Trần được dịp biểu diễn múa
xoè thật đặc sắc để Tổng Thống thưởng ngoạn. Cụ Diệm khoản đã đồng bào một bưã
tiệc được các đầu bếp giỏi nấu nướng rất cầu kỳ. Lần đầu tiên trong đời chưa bao giờ Trần được
ăn một bưã ăn ngon như vậy.
Đang làm cai phu lục lộ kiểng tại Dran, anh cả có giấy gọi gia
nhập Hải Quân và theo học tại Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Theo đề nghị
của anh cả, cả gia đình theo anh di chuyển
về Sài Gòn để tiện việc học hành cho các
anh em. Một buổi trưa đẹp nắng, anh cả
đèo Vespa đưa Trần vào thăm Quân Vận Hạm HQ 534 đậu tại cầu tầu sau trại Cửu
Long. Bước qua sàn tầu được sơn xám đậm còn thơm phức mùi sơn mới, Trần hồi hộp
theo anh cả vào cabin Hạm Trưởng, căn phòng nhỏ nhắn và thật ngăn nắp. Lần đầu tiên được bước xuống một chiến hạm
của Hải Quân Việt Nam
thật là kỳ thú. Trần say mê lật những
bức hình màu có vẽ ông hạm trưởng râu xồm ngậm ống vố trong cuốn truyện Tintin
bằng tranh trên bàn viết của anh cả,
choáng ngợp mộng viễn du. Anh cả kể
chuyện đi tầu ra Côn Sơn, Phú Quốc và hay đi qua mũi Cà Mâu. Trần nói anh Cả:
-Có khi nào anh đưa tay sờ Mũi Cà Mâu chưa?
Anh Cả trả lời:
-Khi còn ở Lạng Sơn, anh có sờ được cửa Ải Nam
Quan nhưng anh chưa bao giờ dám sờ mũi Cà Mâu cả, vì khi đi tầu mà với tay sờ
được Mũi Cà Mâu thì tầu anh đã nằm trên cạn rồi.
Hai anh em cùng cười vang và nhìn ra mặt sông đục ngầu phù
sa đang chảy siết theo chiều nước dòng ra khơi. Một cơn gió thoảng đem hơi mát
của nước sông phả vào mặt Trần thật dễ chịu.
Mùi nước sông, mùi tanh cá, mùi sơn mới, mùi dầu nhớt trộn lẫn với nhau thành
một mùi đặc biệt rất là Hải Quân. Chuyến thăm chiến hạm của anh cả đã ghi một kỷ
niệm đậm nét về tầu bè và đời thuỷ thủ.
Những chuyến viễn du của anh cả được chuyển về gia đình bằng
những bưu ảnh của nữ thần Tự Do, toà nhà chọc trời Empire
State Building,
kinh đào Panama, Subic Bay, Bangkok làm Trần say sưa
cuộc sống đi biển.
New York 1962, anh cả
và một em gái Mỹ đứng trên đài chỉ huy Hộ Tống Hạm Chi Lăng, chiến hạm đang băng ngang tượng nữ thần Tự Do
|
Anh cả dù theo Tây học và đi ngoại quốc nhiều; tuy nhiên con
người anh rất Việt nam. Anh rất nhớ
những ngày giỗ của gia đình, nếu không có việc bận lúc nào anh cũng có mặt để
lo việc cúng kiến. Tết đến là anh lãnh nhiệm
vụ xông nhà và không quên đem một đoá ngọc lan cài lên mái tóc điểm sương của
mợ. Anh hay nói mùi hương ngọc lan quyện
với mùi trầu cau mợ hay dùng dậy lên sự nồng ấm của tình mẫu tử. Các con của anh cả, thay vì anh cho đi học trường Tây thì anh lại gửi các cháu
vào học trường Việt.
Một hôm đi học về, anh cả dẫn tôi ra cổng trại Văn Thánh,
hai anh em đi bên nhau im lặng một lúc lâu, anh cả nhìn tôi hỏi:
-Trần có ý kiến gì khi
anh muốn tham dự toán đánh ra Bắc bằng tàu hải quân, Anh thì mới lập gia đình,
ba mợ đã già, các em còn đi học?.
Trần bàng hoàng khi anh cả đặt mình vào trường hợp quyết
định cho cuộc đời cuả anh và sự sống còn cuả gia đình, Trần chỉ dưng dưng nước
mắt và nhìn anh không cất nên lời.
Và anh đã làm gương cho các em và nối chí ba phải đánh cộng
sản ngay trúng tim cuả con quái vật này.
Mợ và chúng tôi đã ra Đà Nẵng thăm anh cả trên một chiếc
PGM, vưà đến cưả vịnh, chúng tôi thấy một con tàu nhỏ chạy nhanh như cắt bỏ lại
một vệt sóng vạch dài trên mặt biển xanh ngắt, Hùng, em Trần chỉ theo và hét
to:
-Chắc tàu cuả anh Lum
đó !!!
Hùng, cậu em út hay gọi yêu anh cả là anh Lum.
Các thuỷ thủ cũng chỉ chỏ và trầm trồ vận tốc cực nhanh cuả
chiến đĩnh; họ cho Trần biết đó là loại PT, tàu phóng lôi chuyên thả biệt kích
ra Bắc.
Gặp mợ và các em , anh
cả mừng lắm, anh cứ xoa cằm nói đuà:
-Tối hôm về, khi tàu
anh chạy qua Hòn Cọp, tụi VC chiếu đèn pha làm cháy cả râu anh.
Anh cả kể chuyện ra tận Hải Phòng,
Bạch Long Vĩ, Quảng Bình đổ quân, pháo kích, thả truyền đơn…và những vết đạn
chí tử cuả kẻ thù, khiến các em cứ phục lăn.
Sau mấy năm vất vả với mảnh bằng Tú Tài II ban Toán, Trần theo vết chân anh Cả, tình nguyện gia
nhập Hải Quân. Ngày mãn khoá cũng là ngày Trần chuẩn bị trở về Sài Gòn để nghỉ
phép và nhận lệnh thuyên chuyển. Khi
chiến hạm chở các tân Thiếu Uý mới ra
trường cặp bến Bạch Ðằng thì trời mưa lất phất. Anh cả mặc áo manteau bằng dạ
mầu tím than Hải Quân lái xe jeep ra tận cầu tàu đón Trần. Trần giơ tay thẳng tắp chào anh, lòng ấm áp
tình huynh đệ và cảm thấy hãnh diện và yêu quý anh hơn lúc nào hết.
Trong tuần nghỉ phép, anh cả cho tôi tham dự một chuyến tuần
tiểu do Thiếu Uý Lạc, K15 tại VC island, Cát Lái. Ông Thiếu Uý nổi tiếng sát Cộng này cho PBR
đi sâu vào các con lạch nhỏ síu, chỉ vưà vặn cho chiếc tiểu đĩnh này lòn lách
qua. Trong không khí thù nghịch ngột
ngạt chung quanh, Trần đã được Thiếu Uý Lạc cho thử một tràng tiểu liên AK,
chiến lợi phẩm cuả Giang Đoàn 51 Tuần Thám.
Trần được thuyên chuyển xuống Dương Vận Hạm Qui Nhơn HQ 504
sau khi phục vụ một thời gian tại Căn Cứ Hải Quân An Thới, Phú Quốc và Tuần
Duyên Hạm Phú Quý HQ 617. Chiến hạm
thuộc loại chuyên chở hơi cồng kềnh và lại hay đi về sông Sài Gòn luôn sau
những chuyến công tác vận chuyển ngắn ngày. Tháng 4 năm 1972, chiến hạm rời cầu
B trên đường đi công tác Thuận An trong mùa Hè đỏ lửa, lòng tầu chứa đầy chiến xa. Qua khỏi Nhà Bè, Trần
nhận trưởng phiên giang hành và chiến hạm kéo còi nhiệm sở tác chiến trong
sông. Thuỷ thủ đoàn với áo giáp, nón sắt
chạy thoăn thoắt đến các ụ súng, khoác
áo giáp, đội nón sắt và lên đạn một cách thuần thục. HQ 504 với vận tốc 10 gút
đang đi ngang Coupe de l'Est, đây là một khúc quẹo rất gắt do người Pháp đặt
tên. Trần ra lệnh cho phòng lái:
-Trái 15 ( 15 độ ).
Trần quan sát quán tính chiến hạm, thay vì mũi tầu sẽ qua
trái thì laiï quay vùn vụt qua phải, toán lính địa phương quân trong đồn tại
mũi đất hoảng hốt xách ba lô chạy ra khỏi đồn vì thấy mũi tầu lù lù đâm vào
đồn. Trần bình tĩnh cho tay lái số
không, mũi tầu tạm thời ổn định, Trần ra lệnh tiếp trái 20, mũi tầu lại vẫn
tiếp tục quay về phía phải. Rốt cuộc anh
chàng Hạ Sĩ Vận Chuyển cầm tay lái mắc tội lơ đễnh, lo ra nghe lệnh một đằng
lại lái một nẻo bị thay thế bởi ông Thượng Sĩ Trưởng Ngành và anh ta tạm thời
được Hạm Phó cho “ tĩnh dưỡng “ tại hầm lái tay*.
Xong công tác chuyển chiến xa cho đơn vị bạn tại Thuận An,
trên đường về bến Sài Gòn, HQ 504 được lệnh ghé Chu
lai chở giáo dân từ về Bình Tuy lập
nghiệp. Sau cả ngày điều khiển cần trục
bốc đồ đạc của đồng bào lên tàu, Trần
cảm thấy nao nao nhìn những giáo dân miền Bắc lại một lần nữa lại gồng gánh tản
cư.
Khi mũi tầu quay ra cửa biển Chu
lai thì vừng trăng tròn từ từ nhô lên khỏi chân trời toả ánh sáng dịu dàng trên
mặt biển gọn sóng lăn tăn. Bỗng cả ngàn
đồng bào không ai bảo ai, cùng cất cao tiếng hát:
Mẹ ơi đoái thương cho
nước Việt Nam
Lửa binh biến, chiến
tranh điêu tàn
Mẹ hãy ra ơn non nước
bình an
Cho Việt Nam
hát khúc vinh quang.
Cả tầu bàng hoàng đến rơi lệ trong tiếng hát trầm thống, nức
nở này.
Trần nhận phiên giang hành đưa HQ 504 từ Vũng tàu về Sài
Gòn. Thông thường khi chiến hạm về ngang
Kho 5 là Hạm Trưởng lấy quyền chỉ huy chiến hạm của Sĩ Quan Trưởng Phiên, nhưng
sao hôm nay Trần không thấy ông Hạm nói gì, Nhìn những chiếc ghe lao vùn vụt
qua mũi chiếc Dương Vận Hạm trọng tải trên 3000 tấn, Trần bình tĩnh ra lệnh lái và kéo còi để cảnh
báo các ghe thuyền qua lại trên sông. Trần
hay nghe các bạn Hải Quân có kinh nghiệm kể lại là theo sự mê tín của giới
thương hồ thì ghe nào vượt qua mũi được tầu lớn là sẽ làm ăn khấm khá nên thỉnh
thoảng có vài ba chiếc ghe bị tàu chẻ làm đôi.
Khi chiến hạm đi ngang Bộ Tư Lệnh Hải Quân và các chiến hạm có Hạm
Trưởng thâm niên hơn, nhân viên Giám Lộ thổi còi chào, Hạm Trưởng cùng Sĩ Quan
trên đài chỉ huy và trên boong cứng người giơ tay chào kính một cách nghiêm
chỉnh theo truyền thống lễ nghi của Hải Quân quốc tế. Còn cách Tân Cảng khoảng
200 mét, Hạm Trưởng bảo Trần kéo còi
nhiệm sở vận chuyển cặp cầu. Trần thở
phào nhẹ nhõm và đi vào nhiệm sở của mình.
Tầu cặp bến xong, Phân Ðội của Trần
miễn trực được phép đi bờ**, Trần vội
vàng kêu xe về thăm mợ. Trên đường đi,
lơ đãng nhìn phố phường Sài Gòn lũ lượt ngựa xe, Trần dồn trí tưởng tượng đến
món canh cua, rau đay thơm ngào ngạt ăn với cà pháo chấm mắm tôm mà mợ hay nấu
cho Trần ăn khi tầu về bến.
Sông Vàm Cỏ Ðông
Trần được thuyên chuyển đến Giang Ðoàn 54 Tuần Thám tại Bến
Kéo, Tây Ninh. Mợ cứ nhìn Trần cười để lộ hàm răng đen bị mất hai chiếc răng cửa và
nói:
-
Ðổi đi đâu không
đổi lại đổi về chỗ có tên Bến Kéo, nghe buồn cười quá.
Trần cũng chẳng hiểu tại sao người ta đặt tên nơi này là Bến
Kéo, chắc họ dùng để kéo gỗ quá. Nhưng
rồi công việc bận rộn, Trần cũng chắng có thì giờ tìm hiểu. Ðang ở chiến hạm đời sống quy củ, quân phong
quân kỷ được tôn trọng triệt để, Trần không thể chịu nổi nếp sống, bừa bãi,
phóng túng của nhân viên Giang Ðoàn. Mỗi
sáng thứ Hai, sau khi chào cờ thường có thanh tra quân phục. Là Chỉ Huy Phó
Giang Ðoàn, Trần đã yêu cầu một Thuyền Trưởng Giang Tốc Ðĩnh lột bỏ chiếc mũ
nồi đen trên đầu để thay thế bằng chiếc mũ trắng Hải Quân. Vàm Cỏ Ðông rộng
trung bình khoảng 100 mét, càng xuôi về vùng Gò Dầu Hạ càng nở rộng ra, tuỳ
theo mùa nước lúc đục ngầu phù sa, nước lúc trong mầu xanh rêu. Khi thì lục bình trôi đầy sông, các giang
đĩnh di chuyển rất vất vả; các thuỷ thủ thường có cây gậy một đầu có móc để móc
lục bình bị ống phản lực hút vào trong mùa lục bình. Những cánh hoa tím của những bè lục bình ẩn
hiện trong làn sương sớm hoà lẫn tiếng kêu buồn bã của loài chim bìm bịp đã
khiến cho mặt sông trở nên quạnh quẽ, cô liêu, gieo vào lòng đám thuỷ thủ nao
nao nỗi nhớ nhà. Một buổi tối, Trần và các sĩ quan độc thân đang đứng hóng mát dưới ánh đèn sáng choang
của căn cứ, bỗng một con côn trùng trông giống như một con dán thật to bay đụng
vào người Trần, rồi hai, ba rồi cả chục cả đàn cả trăm con bay ào ào tới đụng
bóng đèn rớt la liệt xuống đất. Trần coi
kỹ lại và bẻ một con ra làm đôi và khám phá ra được bọc nước thơm, Trần nói với
các bạn:
-
Mợ Tôi đã cho ăn
con này rồi, cà cuống đấy các bạn ạ, sau khi lấy bọc nước thơm, đem các chú cà
cuống này luộc lên ăn cũng bùi lắm.
Một nửa Giang Ðoàn nằm trên đất
liền gồm Phòng Hành Quân, phòng Chỉ Huy Phó và tháp canh cao ngất, một nửa nằm
trên các phao bằng thép là nơi có văn phòng Chỉ Huy Trưởng và nơi cư ngụ của
các sĩ quan và đoàn viên và là cầu tàu cho các giang tốc đĩnh cặp bến sửa chữa
hoăïc nghỉ bến sau khi đi hành quân về.
Vì lý do an ninh đề phòng đặc công thuỷ phá hoại nên nhân viên canh
phòng thường dùng lựu đạn công phá MK 3 ném vào những đám lục bình khả nghi
trôi gần đến cầu tàu, nhất là vào ban đêm.
Mới đầu Trần không quen với tiếng nổ chát chúa của lựu đạn nên hay giật
mình mất ngủ, tuy nhiên sau dần cũng quen đi.
Những cuộc hành quân phối hợp giữ
Giang Ðoàn và Tiểu Khu hầu như diễn ra liên miên trên bờ phía Tây của dòng sông
Vàm Cỏ Ðông. Theo Hiệp Ðịnh Paris, Sông
Vàm Cỏ Ðông, phía bắc Bến Sỏi là ngoài phạm vi hoạt động của Hải Quân Việt Nam. Cho nên nơi đây trở thành địa bàn của bọn
buôn lậu và là nơi giao liên, kinh tài của Việt Cộng. Một hôm vào sáng sớm Trần chỉ huy hai giang
đĩnh vượt qua Bến Sỏi, qua khỏi chừng 200 mét Trần thấy cả một rừng người chạy
túa lên đồi ẩn sau những gốc cây tìm chỗ nấp.
Trần cười thầm ra lệnh cho hai giang đĩnh xuôi dòng trở về lại Giang
Ðoàn.
Khoảng 1 tuần sau, vào lúc chạng
vạng sáng, Chỉ Huy Trưởng cao hứng cùng 1 trung đội Ðịa Phương Quân tùng đĩnh
mở một cuộc hành quân lục soát vào một số điểm khả nghi trên sông Vàm Cỏ Ðông
phía Nam Bến Sỏi. Khoảng vài tiếng đồng
hồ sau đó, đoàn giang đĩnh trở về trên sàn tầu chất đầy chiến lợi phẩm, nào là
máy phát điện, thuốc trụ sinh, máy tầu, gạo, mắm.. Chỉ Huy Trưởng nhìn Trần nở
nụ cười mãn nguyện. Biết thế nào Việt Cộng và bọn buôn lậu cũng lợi dụng khoảng
trống giữa các cuộc hành quân lục soát để tái hoạt động; cho nên ngay buổi trưa
hôm ấy, Trần dắt hai chiếc giang đĩnh án ngữ tại đầu kinh Tây Ninh. Chừng nửa giờ sau Trần để lại đầu kinh một giang đĩnh và dặn dò
thuyền trưởng giữ liên lạc thường trực,
và chỉ huy một chiếc giang tốc đĩnh cùng số nhân viên cơ hữu lao đi với
vận tốc tối đa về phía Bắc Cò Nổi, một cửa khẩu quan trọng của Việt Cộng trên
sông Vàm Cỏ Ðông.
Chiếc giang tốc đĩnh lao vùn vụt
trên sông, sóng rẽ ra hai bên mạn tầu như hai cánh dơi ào ạt bủa vào hai bờ
sông kêu dào dạt. Khoảnh khắc Bắc Cò Nổi
hiện ra trước mắt, hai tên Việt Cộng đội nón lá, mặc bà ba đen hốt hoảng nhảy
từ trên ghe lên bờ chạy giũa lằn đạn của khẩu đại liên 50 kép của giang
đĩnh. Trần cho đổ bộ lên bờ lục soát,
tịch thu được một bao lớn thuốc trụ sinh, quần áo, máy đuôi tôm... Trần cho nhân viên khiêng luôn chiếc ghe vắt
ngang trước mũi giang đĩnh đem về Giang Ðoàn.
Cũng tại cửa khẩu này trong những kỳ đi kích trước, Trần đã để lại một
tấm bảng với hàng chữ: Sông Vàm Cỏ Ðông Thuộc Quyền Kiểm Soát Của
Hải Quân Việt Nam.
Mấy hôm sau Trần trở lại thì thấy
mấy hàng chữ nguyệch ngoạc viết sai chính tả: Nếu Dậy Thì Hiệp Ðịn
Pa Di Không Có Nghĩa Lý Gì Sao???
Mất sức vì những buổi đi kích đêm,
trầm uất vì những yếu kém của các sĩ quan và đoàn viên trong việc duy trì kỷ
luật và bảo trì chiến đĩnh, thêm vào đó tình trạng ăn uống thiếu thốn, Trần đã
ngã bệnh và được đưa vào Viện Bài Lao Ngô Quyền. Trong thời gian điều trị, Trần đã gặp người
bạn thân cùng khoá vừa dự trận Hải Chiến Hoàng Sa và những nhân viên xuất sắc của HQ 504 cùng
nhập viện. Những thuỷ thủ yêu nghề này
đã miệt mài thi hành công vụ bảo trì chiến hạm trong tình trạng tối ưu, nhất là
thời gian chiến hạm đại kỳ*** tại Hải Quân Công Xưởng, Trần nghĩ thầm một trong
những nguyên nhân là do hít thở những bụi sét khi chạy rùa**** hầm chiến xa đã
góp phần vào sự tàn phá hai lá phổi của những nhân viên này.
Dòng sông Kỳ Cùng của thuở đầu đời
cho đến dòng sông Hồng Hà cuả thời niên thiếu nên thơ, dòng Vàm Cỏ Ðông tận tuỵ
cho đời hải nghiệp, cho đến dòng sông Tiền Giang cuả chuyến hải hành cuối cùng
vào biển Đông tìm tự do là những dòng sông luôn luôn chảy siết trong tâm hồn Trần
mỗi khi đứng trên ngọn hải đăng Point Loma, San Diego caủ quê hương thứ hai hướng
ra biển Thái Bình Dương, nhìn về quê hương đã 18 năm xa cách. Dĩ vãng nhìn lại không phải để hối tiếc,
nhưng là những kinh nghiệm xấu tốt và những kỷ niệm vui buồn để học hỏi, để bồi
hồi cho tuổi trẻ đã mất mát. Những dòng
sông đó vẫn chảy trên quê hương, những con thuyền vẫn xuôi ngược. Những chiếc
nón lá rách, những thân hình khẳng khiu ngoắc ngoải chèo thuyền trên những dòng
sông quê hương vẫn là những bức tranh bi thảm không tài nào thay đổi được trong
gần một thế kỷ qua trên một đất nước đày tai ương, lòng người ly tán vì những
cố chấp hẹp hòi thiển cận của một nhóm
người muốn độc quyền làm lịch sử.
Kỷ niệm ngày giỗ Ba 14/12/1970
Zuyên Hồng Trần, bổ
túc vào Mùa Đông 2013
Chú thích:
*Hầm lái tay: Khi
chiến hạm bị mất điện không sử dụng được tay lái điện thì phải sử dụng hệ thống
lái tay dưới hầm sau lái. Ðiều khiển lái
tay rất nặng và không chính xác. Hầm này
được dùng như Cải Hối Thất cho các nhân viên chiến hạm vi phạm kỷ luật. **Ði
bờ: Tiếng lóng của Hải QuânViệt Nam
để chỉ lúc tầu về bến, thuỷ thủ đoàn được phép đi chơi phố hoặc đi bát
phố. HQ Mỹ thì gọi là to go liberty.
***Ðại Kỳ: Thời gian
chiến hạm tu bổ , sửa chữa toàn diện.
****Chạy rùa: Khi chiến hạm bị nước biển ăn
sét, nhân viên phải dùng búa gõ sét cho bung ra hay dùng máy cạo sét, sau đó
sơn nhiều lớp sơn lót kỵ sét để bảo vệ vỏ thép của tầu. Tiếng lóng hải quân gọi máy cạo sét là rùa,
chạy rùa có nghĩa là chạy máy cạo sét.
No comments:
Post a Comment