Dr. Đỗ Kim Thêm L.L. M., M. A
June 29, 2013
June 29, 2013
Đỗ Kim Thêm
Prem Shankar Jha
Crouching Dragon, Hidden Tiger:
Can China and India Dominate the West?
Soft Skull Press, Berkely, 2010, ISBN 13: 978-1593762483
Vấn đề
Các
báo cáo quốc tế đều đi đến kết luận chung là những thành tựu kinh tế
đầy ấn tượng của Trung Quốc và Ấn Độ đang đe doạ thế giới. Điển hình là
BRIC Report của Goldman Sachs 2004 tiên đoán đến năm 2040 TSLQG Trung
Quốc sẽ vượt xa Hoa Kỳ và Ấn Độ sẽ vượt Nhật Bản. CIA Report Hoa Kỳ cũng
xác nhận mức sản xuất hàng hoá của Trung Quốc và cung ứng dịch vụ của
Ấn Độ trong tương lai sẽ dẫn đầu. Sự trổi dậy này đang gây nhiều lo âu
và tranh cãi trong công luận tại các nước phương Tây.
Lo
âu càng có cơ sở khi ưu thế ngoại thương của hai nước gia tăng và khả
năng ứng phó của chính giới phương Tây thu hẹp hơn, vì Hoa Kỳ, châu Âu
và Nhật Bản chưa chấm dứt thời kỳ suy trầm và nợ công lại tràn ngập làm
cho tiềm năng phục hồi kinh tế trở nên mơ hồ. Do đó, phương Tây sớm muộn
gì sẽ bị Trung Quốc và Ân Độ khống chế và nguy cơ này là một hiện thực
khách quan.
Nhưng
ngược lại, Prem Shankar Jha giải toả được lo âu khi lập luận là hai
nước không đủ sức tạo được vị thế siêu cường quốc tế, vì cả hai không có
thể chế thích hợp để giải quyết những bất công xã hội và xung đột chính
trị. Mọi kế hoạch của chính giới phương Tây không thể chỉ dựa trên
thành tựu kinh tế, mà còn cần các các yếu tố khác, toàn diện hơn của hai
nước này. Đó là nội dung thông điệp của tác giả trong tác phẩm “Rồng nằm, Cọp ẩn: Liệu Trung Quốc và Ấn Độ có thể khống chế phương Tây được chăng?” mà bài viết sau đây sẽ giới thiệu.
Tác giả
Prem
Shankar Jha, người Ấn, học Triết, Chính trị và Kinh tế tại Đại học
Oxford (Anh). Ông làm việc cho cơ quan UN Special Fund, UNDP, thuộc UNO,
làm tư vấn thông tin kinh tế cho Thủ Tướng V. S. Singh. Về sau, ông là
biên tập viên kinh tế cho các nhật báo và tạp chí The Hindustan Time, The Hindu, The Times of India, Economic Times và Financial Express của Ấn và The Economist của Anh. Ông nổi danh với các sách như Kashmir 1947: the Origins of a Dispute và The End of Saddam Hussein’s Iraq – History through the Eyes of the Victim.
Nội dung
Trong
lời giới thiệu tác giả đề ra mục tiêu là so sánh và lý giải những thành
tựu và thách thức của hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ để phản chứng
mối lo âu hiện nay của công luận. Trong phần đầu tiên tác giả trình bày
những nét tương đồng và tương phản của hai nền kinh tế này.
Trong
chương đầu, ông phân tích các đường hướng cải cách qua tiến trình trong
lịch sử và thách thức của tương lai bằng cách mô tả các đặc điểm tăng
trưởng và hậu quả cho hai nước. Dù cùng đạt nhiều thành tựu, nhưng trong
thực tế các biện pháp thực hiện của Trung Quốc và Ấn Độ có nhiều dị
biệt. Dù khác nhau về cơ cấu dân số, kinh tế chuyên ngành và hệ thống
chính trị nhưng hai nước có một điểm chung là đang sống trong một thời
kỳ chuyển hoá từ kinh tế hoạch định sang thị trường và cùng theo đuổi
một mục tiêu là tăng trưởng kinh tế trong khuôn khổ ổn định xã hội.
Trong
phần kế tiếp ông đào sâu các vấn đề chính của kinh tế thị trường XHCN
mang đặc trưng Trung Quốc qua bốn chương sách. Tựu trung, đặc điểm chính
của nền kinh tế là tư bản nhà nước. Nhưng nhà nước không là toàn bộ hệ
thống kinh tế thuần nhất tập trung hoạch định mà là một cơ chế hỗn loạn
có đến 70.000 trung tâm quyền lực với sáu cấp độ khác nhau từ trung
uơng, địa phương và khu vực và có năm loại cán bộ cao cấp có thẩm quyền
để quyết định vận mệnh cho nền kinh tế. Dù cơ chế thị trường thành hình
qua cải cách táo bạo và tốc độ tăng trưởng của kinh tế gây nhiều ấn
tượng, nhưng hiện nay chỉ có 50 % các sản phẩm công nghiệp là do thị
trường quyết định.
Trong
một hệ thống công quyền phức tạp, thiếu kiểm soát và cơ chế thị trường
không hiệu năng, làm sao phép lạ kinh tế đã xãy ra như trong thời gian
qua? Tác giả giải thích là thành công do các doanh nghiệp quốc doanh và
giai cấp trung gian tác động, tầng lớp mới đứng giữa chính quyền và dân
chúng. Ông triển khai khái niệm này như là một lý thuyết cơ bản để giải
thích. Thực ra, khái niệm Intermediate Class là của Michal Kalecki đề ra
trong tác phẩm The Politics and Economics of Intermediate Regimes mà tác giả tham chiếu cùng với Communist Manifesto của Karl Marx. Nhưng Marx cho là giai cấp này phản động hơn là tiến bộ vì ngăn chận bánh xe tiến hoá của lịch sử.
Tăng
trưởng không do cải cách chính trị hay luật pháp mà là do giai cấp
trung gian tác động. Thành phần này còn được gọi là tư bản thân tộc, có
vây cánh với chính quyền địa phương, khôn ngoan biết sử dụng những biện
pháp ưu đãi thuế khoá và đầu tư trong thời kỳ đầu tiên cải cách. Họ sử
dụng tiền do nhà nước tài trợ để đầu tư, một hình thức không sợ mất vốn
riêng và nguy hiểm khi thua lỗ, cấu kết nhau hơn là cạnh tranh. Họ thành
công vì biết trục lợi qua các biện pháp thu mua nhà đất rẻ tiền và đầu
tư độc quyền vào một số lĩnh vực chiến lược. Vì có bao che chính trị nên
họ không có tinh thần sáng tạo và sợ nguy hiểm phá sản như doanh nhân
phương Tây.
Khi
bàn về nền kinh tế Ấn Độ, hai chủ đề mà tác giả thảo luận là tại sao
tăng trưởng chậm chập và giai cấp trung gian lại không thành đạt như tại
Trung Quốc.
Phát
triển thị trường Ấn kéo dài từ 1951 đến 1991. Tăng trưởng chậm không
đơn thuần do kinh tế hoạch định sai lầm, mà còn nhiều lý do thuộc về cấu
trúc. Trong những năm 50, nền kinh tế chiụ ảnh hưởng phương thức kế
hoạch theo Liên Xô, nhưng mềm dẻo hơn. Từ thập niên 80 về sau, Ấn hướng
theo mô hình của Nam Hàn. Khác với Trung Quốc, cơ chế thị trường và
doanh giới tư nhân Ấn đã có sẳn có từ thời thuộc địa. Bên cạnh những
doanh nghiệp lớn còn có những doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng không đóng
vai trò quan trọng, vì không có khả năng đương đầu với doanh nghiệp lớn
và không được chính quyền hỗ trợ.
Năm
1957 để đối phó với tình trạng khan hiếm ngoại tệ chính quyền Ấn áp
dụng chính sách khắc khổ, đình chỉ các biện pháp nhập khẩu các mặt hàng
tiêu thụ và không hỗ trợ gia tăng xuất khẩu. Cả hai gây ảnh hưởng đến
thị trường bông vải và hàng dệt và làm kinh tế phát triển trì trệ. Các
biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ được chính quyền chú trọng hơn. Nhờ
hưởng nhiều biện pháp đặc ân của chính phủ và có khả năng phá vỡ các rào
cản mậu dịch dần dần các doanh nghiệp này đi vào vị thế độc lập. Họ
thực sư bắt đầu gây tác động tăng trưởng và thành một giai cấp trung
gian.
Từ
năm 1992 để có cơ hội hội nhập vào kinh tế thế giới trong thời kỳ toàn
cầu hoá chính quyền hủy bỏ các biện pháp khắc khổ và gia tăng các biện
pháp giải phóng mậu dịch. Doanh nghiệp nhỏ chuyển mình và đóng vai trò
quan trọng hơn. Khác với Trung Quốc giai cấp trung gian tại Ấn ngoài
giới tiểu thương còn có người cho vay nặng lãi và nông gia giàu có điạ
phương, họ có nhiều ảnh hưởng trong các cuộc bầu cử hay các biện pháp
phát triển thị trường. Vì không có phương tiện canh tân kỹ thuật như các
doanh nghiệp lớn, nên doanh nghiệp nhỏ không thể tác động đến việc cung
ứng sản phẩm rẻ tiền cho thị trường thế giới như công xưởng Trung Quốc.
Khi nền kinh tế Ấn tự do hơn, Intermediate Regimes bắt đầu thành hình,
dù khá muộn màng.
Sau
khi trình bày những nguyên nhân đưa tới thành tựu kinh tế, tác giả phân
tích những hậu quả xãy đến cho hai nước mà bất ổn xã hội và xung đột
chính trị là hai thách thức nghiêm trọng.
Động
loạn xã hội tại Trung Quốc có nhiều lý do. Do các biện pháp chiếm đất,
bồi thường rẻ, nông dân không sống được với giá nông phẩm rẻ phải ra
thành phố mưu sinh. Đến thành phố tìm việc trong các khu vực xây dựng
công nghiệp và không có hộ khẩu, nên nông dân tạo thêm bất ổn tại thành
thị, phân biệt đối xử con nguời qua chế độ hộ khẩu cư trú là một đặc thù
của Trung Quốc. Những biện pháp hỗ trợ quá mức cho thị dân tạo bất quân
bình về phân phối lợi tức cho nông dân.
Đầu
tư không phối hợp và phát triển không đồng bộ gây thiệt hại về sử dụng
tài nguyên và môi sinh mà dân địa phương là nạn nhân. Tranh chấp giữa
giai cấp trung gian mới gây xung đột chính trị, mà hậu quả là chính
quyền trung ương không còn khả năng kiểm soát các hoạt động của địa
phương, tranh chấp quyền lực giữa chính quyền Thượng Hải và Trung uơng
là thí dụ điển hình. Ngoài việc chứng minh các bất ổn tác giả còn bàn
đến các trở lực cho cải cách và dân chủ hoá.
Dị
biệt mức độ tăng trưởng giữa nông thôn và thành thị ngày càng gay gắt,
trong khi xung đột chính trị giữa trung ương và địa phương trong việc
dành đặc quyền đặc lợi càng trầm trọng hơn. Chính quyền dù có ý thức sự
cách biệt giàu nghèo của dân chúng và lãnh đạo và trình độ phát triển
của địa phương nhưng không có biện pháp phối hợp hữu hiệu để đem lại
quân bình. Thách thức này ảnh hưởng đến tính chính thống về sự lãnh đạo
của Đảng. Chính quyền không có thiện chí tạo ra những cải cách chính trị
quan trọng vì lo sợ động loạn càng lan rộng sẽ nguy hiểm hơn cho sự
sinh tồn của chế độ. Do đó, các biện pháp nhằm tăng cường sự kiểm soát
của Đảng ở điạ phương càng được đẩy mạnh hơn. Thiếu truyền thống nhà
nước pháp quyền nên các biện pháp dân chủ hoá theo mô hình phương Tây là
điều bất khả thi.
Tuy
nhiên, tác giả cho là có thể giải quyết vấn đề chính thống cho lãnh đạo
và có hai đề nghị cải cách bước đầu cho tiến trình dân chủ hoá. Một là
từ nay Đảng viên phải được dân chúng bầu cử công khai và chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Hai là phải xây dựng nền tư pháp độc lập theo nhà
nước pháp quyền và tách khỏi Đảng quyền.
Bất
ổn xã hội và xung đột chính trị tại Ấn Độ khác biệt hơn về hình thức và
mức độ nếu so với Trung Quốc. Ấn Độ hãnh diện vì thưà hưởng hệ thống
luật pháp cùa Anh và có truyền thống sinh hoạt chính trị dân chủ, nhưng
tham nhũng diễn biến khác và trầm trọng hơn. Theo tác giả có nhiều lý do
giải thích. Thứ nhất, quy chế công chức cho phép đặc miễn truy cứu các
tội phạm hình sự. Đây là một đặc quyền hiến định quy định trong thập
niên 30 dành cho công chức Anh thời thuộc địa. Sau khi tu chỉnh hiến
pháp năm 1948 đặc quyền được giữ lại cho công chức Ấn và gây hậu quả bất
lợi cho đến ngày nay. Tác giả cho là tại Ân không thể gọi là tham nhũng
(corruption) do tư bản thân tộc cậy quyền phạm luật và mua chuộc nhau,
mà là hình thức tống tiền công khai (extortion) khắp mọi tầng lớp và mọi
nơi theo kiểu của Ý và Liên Xô. Mối quan hệ giữa dân chúng và chính
quyền không bình đẳng theo hiến pháp quy định, mà thực tế thái độ gia
trưởng cửa quyền thời thực dân vẫn còn phổ biến tại các cơ quan công
quyền.
Động
loạn tại nông thôn Ấn Độ xãy diễn lan rộng hơn và tổ chức chống đối
chính quyền chặt chẽ hơn Trung Quốc, mà Naxaliles, một tổ chức sách động
nông dân vũ trang nổi dậy theo mô hình Mao là thí dụ. Tình hình trầm
trọng hơn khi ảnh hưởng toàn cầu hoá lan rộng và các biện pháp công
nghiệp hoá được áp dụng từ năm 1992. Thị trường dệt nội địa bị hàng
Trung Quốc cạnh tranh và triển vọng xuất khẩu bông vải giảm đi làm công
nhân điêu đứng. Nông dân bị ảnh hưởng nặng nề khi hệ thống ngân hàng
không còn cho vay canh tác vì triển vọng xuất khẩu nông sản bị hạn chế.
Nông dân chỉ còn cách là vay nặng lãi của tư nhân địa phương để có
phương tiện tiếp tục. Họ không thể mưu sinh vì trả lãi suất qúa cao.
Theo tác giả, có ít nhất 100.000 nông dân tự tử từ năm 1998 đến 2003 để
thoát cảnh nợ nần.
Để
so sánh giữa tình hình Trung Quốc và Ấn Độ tác giả nêu lên một vài điểm
chính. Cả hai giới tư bản thân tộc tại Trung Quốc và công chức Ấn Độ
gây tác hại cho tăng trưởng. Trong nông nghiệp, cả hai biết sử dụng đặc
quyền trong các biện pháp miễn thuế, định giá rẻ truất hữu ruộng đất để
làm lợi cho riêng mình. Trong công nghiệp, cả hai sử dụng tiền ngân hàng
nhà nước để đầu tư nhưng vô trách nhiệm và đặc quyền cấu kết với nhà
đầu tư để hưởng lợi. Trình độ phát triển cơ cấu hạ tầng của Ấn Độ tụt
hậu ít nhất là 15 năm so với Trung Quốc. Bang giao hai nước sẽ còn nhiều
trở ngại vì tranh chấp biên giới và vấn đề Tây Tạng. Theo tác giả,
Trung Quốc nên tiếp tục theo đuổi công nghiệp chế biến hàng thương phẩm
trong khi Ấn Độ sẽ thuận lợi hơn khi mở rộng cung ứng dịch vụ cho phương
Tây.
Trước
trào lưu suy trầm của kinh tế thế giới cả hai bắt đầu ý thức cải cách
phương thức tăng trưởng bằng những biện pháp khích hoạt cho nền kinh tế
nội địa, thay vì tập trung cho ngoại thương như trước đây. Tác giả cho
là cả hai tiếp tục sai lầm và làm cho tình hình trầm trọng hơn. Thay vì
đầu tư nhiều hơn vào khu vực nông thôn để giúp nông dân gia tăng lợi
tức, Trung Quốc lại đầu tư cải thiện cơ cấu hạ tầng và hỗ trợ cư dân
thành thành thị. Ấn Độ gia tăng kinh phí để kích thích mãi lực tiêu thụ
cho dân thành phố và nông thôn trong khi chỉnh trang các cơ sơ hạ tầng
tụt hậu theo tác giả là ưu tiên. Các biện pháp hỗ trợ tài chính hiện nay
hầu như không giải quyết các vấn đề bất công xã hội hay xung đột chính
trị.
Tóm
lại, dù kinh tế có thể tiếp tục tăng trưởng ở mức khiêm nhường do suy
trầm toàn cầu, nhưng Trung Quốc không có các cải cách thể chế dân chủ để
giải quyết công bình xã hội và xung đột chính trị; Ấn Độ dù có thể chế
dân chủ đại nghị, nhưng tham nhũng trầm trọng và cơ cấu hạ tầng tồi tệ
hơn nên các khó khăn tương tự cũng không thể giảm đi. Với một tương lai
bất định, cả hai không có cơ hội trổi dậy như một siêu cường để có thể
chế ngự phương Tây. Do đó, tác giả kết luận mọi lo sợ của phương Tây là
hoang tưởng.
Nhận xét
Đối
với độc giả phương Tây đóng góp xuất sắc của tác giả là phần trình bày
về thực tế phát triển của hai thị trường Trung Quốc và Ấn Độ. Với nhiều
tư liệu và dẫn chứng công phu tác giả đem lại những thí dụ có giá trị
thuyết phục, đặc biệt các chi tiết về bất ổn xã hội và tranh chấp chính
trị. Đóng góp lý thuyết Intermediate Class có phần hạn chế hơn. Sử dụng
lý thuyết để mở lối cho khảo hướng, nhưng tác giả lại không dùng lý
thuyết để đúc kết vấn đề, nhất là trình bày những giới hạn của lý thuyết
để giải thích cho sự trổi dậy. Vấn đề tăng trưởng phức tạp hơn nhiều.
Những thành tựu trong công nghiệp thông tin, điện ảnh và dược phẩm của
Ấn chỉ giải thích bằng viễn kiến của chính giới, sự hợp tác quốc tế của
doanh nghiệp và nổ lực hiếu học của giới trẻ Ấn là chính. Do đó, lý giải
về tăng trưởng cũng cần các lý thuyết khác bổ sung.
Độc
giả người Việt thất vọng hơn vì tác giả không mang đến những lý giải
mới lạ. Tác hại tham ô của các nhóm lợi ích vô trách nhiệm và tương lai
đen tối của công nhân và nông dân là đề tài quen thuộc. Đảng viên phải
do dân bầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật là một ý kiến mới lạ và
có thể thích hợp cho Việt Nam. Tuy nhiên, tác phẩm này đem lại một giá
trị cảnh báo đặc biệt: mô hình kinh tế của Trung Quốc hay Ấn Độ không là
một lý tưởng để noi theo vì bất ổn xã hội, tranh chấp chính trị và phá
hủy môi sinh là những hậu quả mà Việt Nam không có phép lạ nào trong
việc tìm ra khả năng mới để giải quyết vấn đề. Nếu như tác giả chứng
minh Trung Quốc không đe doạ trực tiếp cho phương Tây là đúng, thì ngược
lại, tác giả sẽ sai lầm khi những nguy cơ này là hiện thực cho tương
lai Việt Nam vì có nhiều lý do khác tác động.
Trao
đổi kinh nghiệm tăng trưởng là đề tài được Amartya Sen bàn đến qua mối
quan hệ văn hoá giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Trong tiểu luận Passage to India
Sen cho là hệ thống dân chủ đa đảng, phương tiện truyền thông đại chúng
và các biện pháp cải thiện y tế công cộng tại Ấn Độ là bài học cho
Trung Quốc. Tinh thần vô úy trước bạo lực, nhiệt tình thảo luận công
khai trước những bất đồng, sẵn sàng chấp nhận phê bình để sửa sai là
truyền thống đặc sắc của Phật giáo mà Trung Quốc có thể áp dụng vào
những cải cách chánh trị. Ngược lại, Ấn Độ sẽ học được những biện pháp
cải cách kinh tế của Trung Quốc. Bản dịch Việt ngữ tại
http://bit.ly/15v23eV.
Hiện nay trên thị trường đã có nhiều sách Anh ngữ bàn về đề tài liên quan này, xin liệt kê để độc giả quan tâm tiện tra cứu:
Pranab
Bardhan, Awakening Giants, Feet of Clay: Assessing the Economic Rise of
China and India, Princeton: Princeton University Press, 2010;
Wendy Dobson, Gravity Shift: How Asia´s New Economic Powerhouses Will Shape the 21st Century, Toronto: UTP Publishing, 2010;
Sahlendra D. Sharma, China and India in the Age of Globalization, Cambridge: Cambridge University Press, 2009;
Jonathan Holslag, China and India: Prospects for Peace, New York: Columbia University Press. 2010.
Nam Yết chuyển
No comments:
Post a Comment