Toà
Đại Sứ Mỹ nhìn từ góc đườngThống Nhất và Mạc Đĩnh Chi, thấy rõ ba vết
thủng do hoả tiễn bắn vào, và dưới chân tường rào phía ngoài, (chỗ người
đứng), một lỗ thủng cỡ một mét do Việt Cộng dùng B-40 gây ra, làm lối
vào bên trong. (Hình của Viện Lịch Sử Quân Đội Hoa Kỳ)
Từ bốn
mươi tám năm qua, cứ mỗi dịp Tết, lại có nhiều bài viết về vụ Mậu Thân. Nhưng
phần lớn, những bài này đều nói về chuyện xẩy ra ở Huế. Có lẽ vì đó là trận địa
đẫm máu nhất, tàn ác nhất. Trong khi ấy, mặt trận tại Thủ Đô Sài Gòn, nơi có
hai địa điểm tiêu biểu cho chính quyền VNCH là Phủ Tổng Thống, và tiêu biểu cho
Hoa Kỳ là Đại Sứ Quán Mỹ đều bị Việt Cộng tấn công, đã ít được nói tới. Đến
nỗi, có nhiều người sống tại Sài Gòn thời đó, cũng không biết rõ cuộc chiến đã
thực sự diễn ra như thế nào, hoặc chỉ biết với những chi tiết lờ mờ, hay sai
lầm.
Thật
ra, điều này cũng không lạ. Ngày Tết, mọi người đều lo ăn Tết, mấy ai đề ý tới
thời sự. Đến khi có tấn công, súng nổ, thiết quân luật, mọi người đều lo bảo vệ
mạng sống của mình và của người thân, làm sao biết rõ nội vụ diễn ra như thế
nào. Chỉ có báo chí quốc tế, vì nhiệm vụ nghề nghiệp, và có phương tiện theo
dõi cùng ghi lại những gì sẩy ra. Tại sao chỉ có báo chí quốc tế, mà không có
báo chí Việt Nam? Trước hết, theo truyền thống, báo chí Việt Nam thường nghỉ
Tết, ít nhất bốn ngày. Thứ đến, khi nổ ra cuộc tấn công, hoạt động báo chí Việt
cũng bị tê liệt như mọi ngành sinh hoạt dân sự khác. Trong khi ấy, vụ tấn công
bất ngờ Tết Mậu Thân là cơ hội hiếm có để ký giả quốc tế gửi tin nóng đi khắp
thế giới. Tuy vậy, tại một đất nước xa lạ, ký giả ngoại quốc không thể hành
nghề suông sẻ, nếu không được sự giúp sức đắc lực của nhà báo địa phương. Ai
may mắn được sự cộng tác của người địa phương tận tâm, nhanh nhẹn, có khiếu về
lãnh vực truyền thông, có cơ may thành công hơn các đồng nghiệp khác.
Trong
vụ tấn công Tết Mậu Thân ở Sài Gòn, nhiều trận đánh xẩy ra cùng lúc tại nhiều
địa điểm khác nhau. Bài này chỉ chú trọng tới trận đánh ở Toà Đại Sứ Mỹ. Đây
không phải là trận đánh lớn nhất, nhưng tiêu biểu nhất, vì nó có vai trò làm
thay đổi cục diện toàn bộ cuộc chiến Việt Nam.
Người Việt làm báo Anh bằng Dinglish
Một trong số ký giả quốc tế may mắn có sự giúp sức đắc lực của
ký giả địa phương là Hugh Lunn, người Úc, quê Brisbane, tới London thử thời
vận, được hãng thông tấn Reuters mướn, gửi đi Việt Nam vào cuối tháng Hai năm
1967, với thời hạn một năm. Vụ Mậu Thân xẩy ra chỉ vài tuần trước khi Hugh Lunn
rời Việt Nam, sau khi đã hoàn tất thời gian phục vụ tại đây. Những gì chứng
kiến tận mắt về cuộc chiến Việt Nam, kể cả trận Mậu Thân ở Sài Gòn, đã được ông
kể lại trong cuốn VIETNAM: A
Reporter’s War, xuất bản năm
1985. Cuốn này đã đoạt giải văn chương của Melbourne Age Book năm 1985, đã trở
thành tác phẩm kinh điển, được trích giảng trong chương trình học các lớp 11 và
12. Hugh Lunn còn là tác giả của nhiều tác phẩm giá trị khác, và năm 2009, ông
đã được chọn là biểu tượng của Queensland (Queensland Icon) vào dịp kỷ niệm 150
năm lịch sử của Tiểu Bang này.
Tới Sài
Gòn năm 26 tuổi, chẳng biết gì nhiều về Việt Nam. Ra đón anh tại phi trường là
một người Việt Nam, còn trẻ, hoạt bát, luôn nói cười, nhưng tiếng Anh của anh
rất khó hiểu; chẳng những sai giọng, “lawyer” phát âm như “louser” mà cách dùng
chữ và đặt câu không giống ai. Nếu một người tỏ ra sợ sệt, anh nói “He care”.
Nếu nghĩ một chuyện gì đó không thể làm được, anh nói dản dị “Cannot”. Nếu cho
là một việc thuộc trách nhiệm người khác, anh nói “Not my problem”. Sau này, kể
với Hugh Lunn về may mắn thoát chết trong vụ VC tấn công đợt nhì, anh viết:
“Very lacky to me, because if mr. Backer not stop 1 go with Bruce to
cholon, 1 think no more dinh today” (Rất may cho tôi, bởi vì nếu Ông Backer
không ngăn tôi đi với Bruce vào Chợ Lớn, tôi nghĩ hôm nay không còn Đình). Ký
giả ngoại quốc gọi tiếng Anh của anh là Dinglish.
Tên Việt đầy đủ của anh là Phạm Ngọc Đình, nhưng các ký giả
Reuter đã làm việc từ trước ở Việt Nam đều rất quý anh, cho rằng anh là nhà báo
giỏi hơn tất cả bọn họ, nên gọi anh là Gungadinh. Thật ra, “gunga” có nghĩa
xấu, chỉ những thứ dơ dáy cặn bã. Nhờ nhà thơ Rudyard Kipling có bài thơ nổi
tiếng Gunga Din, sau trở thành cốt truyện của một
cuốn phim cùng tên do
Sammy Davis jr. đóng vai Gunga Din, ca tụng một người Ấn Độ tận tâm và can đảm
làm đủ thứ để phục vụ người Anh, khiến biệt danh Gungadinh thành một lời khen.
Ngược lại, Gungadinh đặt tên cho Hugh Lunn là Gunsmoke, vì anh này giống một
vai chính trong bộ phim chiếu trên TV Mỹ ở VN hồi đó là Gunsmoke.
Khởi
đầu, Phạm Ngọc Đình chỉ là một nhân viên chạy việc vặt (messenger) cho văn
phòng hãng Reuter tại Sài Gòn, anh giúp các ký giả xin hay gia hạn visa cư trú,
hướng dẫn về những giao dịch với nhà cầm quyền Việt Nam, đưa ký giả mới tới khu
chợ trời Dân Sinh mua quần áo nhà binh mặc để ra trận, đi cùng các ký giả tới
những cuộc họp báo hàng ngày để lấy tin tức, hay ôm sẵn điện thoại để gọi về
văn phòng khi có tin quan trọng, mà không ký giả nào có thể tranh với anh một
trong số những điện thoại hiếm có tại nơi họp báo.
Gunsmoke và Gungadinh. Hình từ VIETNAM: A Reporter’s War
Đình
không có cơ hội học cao, nhưng thông minh, nhanh trí, và quen thuộc rất nhiều
về phía nhà cầm quyền Việt Nam, từ Tổng Thống Thiệu đến các tướng lãnh và viên
chức cao cấp. Nhờ đó, công việc lo giấy tờ cho các ký giả anh làm rất lẹ, và
không tốn tiền hối lộ. Anh mang cả thiệp chúc Giáng Sinh và Năm Mới của TT
Thiệu tới văn phòng. Không phải để loè thiên hạ, anh quen lớn thật. Một hôm,
tại phi trường Tân Sơn Nhất trong dịp ông Thiệu về nước sau một chuyến công du,
ông đã rẽ đám ký giả, tiến lại phía Đình đang đứng với Hugh, gọi “Đình, Lại
đây!”
Tại văn
phòng Reuter có thông dịch viên giỏi tiếng Anh, nhưng không có khiếu làm báo.
Đem một bản tin hay tuyên bố tiếng Việt về, liền được dịch sang tiếng Anh rất
đúng văn phạm. Nhưng dịch xong, người dịch không có ý kiến gì về nội dung.
Trong khi ấy, nếu đi với Đình tại một cuộc họp báo, có khi chỉ cần nghe nửa
chừng, Đình đã quay sang bảo: “Story now”, có chuyện rồi, thế là phần đáng chú
ý nhất của lời tuyên bố đã nắm được, có thể viết thành tin gửi đi ngay. Ngoài
thông minh và nhanh trí, Đình còn là người tận tâm. Tuy có vợ và ba con, trừ
những giờ ngủ ở nhà, bất cứ ngày đêm, Đình đều có mặt tại văn phòng, kể cả ngày
Tết.
Trước
Tết Mậu Thân (1968), như thông lệ, đã có thoả thuận đình chiến giữa đôi bên;
thường là một tuần. Năm ấy, phía VC cũng muốn như vậy, bắt đầu từ 27 tháng 1.
Nhưng phía Hoa Kỳ và VNCH không muốn phía Cộng Sản có thời gian dài như vậy để
tập trung lực lượng, đã phản đề nghị, rút thời gian ngưng chiến xuống còn có
48, và cuối cùng là 36 giờ, bắt đầu từ 6 giờ chiều Thứ Hai ngày Tất Niên
(29-1), đến 6 giờ sáng Thứ Tư, mùng Hai Tết (31-1).
Chiều
mùng Một Tết (30-1), tuy có tin đánh nhau ở Huế và Đà Nẵng, nhưng cũng tưởng đó
chỉ là chuyện vi phạm ngừng chiến thường sảy ra mỗi năm. Sài Gòn vẫn hoàn toàn
yên tĩnh, ăn Tết như thường lệ. Tại văn phòng Reuter ở đường Hàn Thuyên, ngay
trước Dinh Độc Lập ở phía trái, nhìn sang nhà thờ Đức Bà phía tay mặt, Hugh
Lunn ngồi viết nốt bản tin về mấy vụ vi phạm ngừng chiến, trong khi bạn gái
ngồi đợi, trước khi hai người đi “dung dăng dung dẻ” chung vui ngày Tết.
Đình
cũng có mặt trong văn phòng, dù là chiều Mùng Một Tết, nhưng anh có vẻ đăm
chiêu, không cười nói như mọi ngày. Rồi bỗng nhiên, tiến tới cạnh Hugh, nghiêm
trang nói “Gunsmoke, you tell Miss go home” (Gunsmoke, hãy bảo cô ta về nhà).
Hugh thường hay đùa dỡn với Đình, nhưng hôm nay cũng lịch sự hỏi lại, tại sao
anh nghĩ là anh có quyền can thiệp vào sinh hoạt riêng tư của mình. Anh tới
sát, nghiêm nghị nói: “Tonight the VC attack Saigon. She go home” (Tối nay VC
đánh Sài Gòn. Cô về nhà). Bạn gái của Hugh là thư ký tại toà đại sứ Anh, mà Anh
vẫn tin ở Mỹ là cuộc chiến sắp thắng lợi, ánh sáng đã le lói cuối đường hầm. Cô
nghĩ rằng những gì Đình nói chỉ là cớ để xua đuổi, không muốn cô ngồi đợi, nên
vùng vằng bỏ đi, về nhà ở cư xá dành cho người Anh.
Hugh và
cả trưởng phòng Reuter là Jim Pringle rất hoang mang, không biết nguồn tin của
Đình đúng hay sai. Đình không cho biết lấy tin từ đâu, nhưng nói chắc cuộc tấn
công sẽ diễn ra vào lúc 1 giờ sáng. Quá đặc biệt tới mức khó tin, như chuyện
đùa. Ngay thời chống Pháp, cộng sản chưa bao giờ dám, hay có khả năng mở mặt
trận ngay tại Sài Gòn, làm sao có thể sẩy ra bây giờ. Nhưng Đình đã từng có
những tin rất đặc biệt, và chính xác. Mới hơn năm trước, dịp Tổng Thống Johnson
tới Việt Nam sau khi dự đám tang Thủ Tướng Úc Harold Holt năm 1966 là vô cùng
đặc biệt. Trước đó, chưa tổng thống Mỹ nào tới mặt trận ngoài nước Mỹ. Chuyến
đi đã được giữ kín tới phút chót. Trong khi tất cả ký giả quốc tế ở VN chưa
biết ông Johnson có ghé đây không, khoan nói là ghé nơi nào. Nhưng vào nửa đêm
25 tháng 10, Đình gọi Hugh, cho biết Johnson sẽ tới Cam Ranh. Sau đó, JUSPAO
mới điện thoại hỏi liệu Reuters có muốn cử người theo một chuyến đi sáng mai?
Vẫn không cho biết đi đâu, và với mục đích gì. Sáng sớm hôm sau, khoàng 50 nhà
báo gặp nhau ở phi trường, máy bay cất cánh rồi mới được cho biết là đi gặp
Johnson, và máy bay hạ cánh mới biết là đến Cam Ranh.
Cho
nên, nguồn tin của Đình không thể coi thường. Đình nói tạt về nhà một chút rồi
sẽ quay lại. Thay vì về nhà làm hoà với bạn gái, Hugh và Jim ra ngoài, đi dọc
đường Tự Do xuống phía bờ sông xem xét tình hình. Mọi chuyện vẫn bình thường,
yên tĩnh. Cuối cùng, hai người ghé văn phòng New York Times xem các đồng nghiệp
có biết tin gì đặc biệt không? Chẳng ai tin sẽ có chuyện động trời sắp sẩy ra.
Uống bia, chuyện gẫu đến sau nửa đêm, Jim và Hugh tản bộ trở lại văn phòng
Reuter. Cho rằng tin của Đình là tin vịt, Hugh gọi Đình nói anh khỏi bận tâm
trở lại văn phòng, trừ trường hợp có chuyện đặc biệt. Tuy vậy, hai người vẫn
ngồi đợi cho đến 1 giờ. Đến 2 giờ, vẫn không có chuyện gì, Jim chở Hugh tới nơi
ở của cô bạn gái, rồi trở lại văn phòng Reuter.
Hugh
vừa tắm rửa xong, định lên gường làm hoà với bạn gái thì bỗng ánh sáng ngoài
cửa sổ loé lên như sét đánh, cùng với một tiếng nổ lớn và những tràng súng nhỏ.
Cô bạn nhỏm dậy, như đã tin vào lời Đình từ đầu: “Bắt đầu rồi, phải không?”
Hugh bị kẹt tới sáng sớm hôm sau mới trở lại văn phòng Reuter. Đang không biết
ăn nói thế nào với Jim vì anh phải trải qua đêm kinh hoàng một mình, vừa nhận
tin, viết tin, và tự mình gửi tin, Hugh cảm thấy thoát nạn khi Jim bảo: “Hugh
tới ngay toà đại sứ Mỹ. Việt Cộng đã chiếm rồi”. Hugh phóng ra cửa, Jim nói
theo: “Coi chừng bọn bắn sẻ bên kia đường”.
Trận đánh tại toà đại sứ Mỹ theo ký giả Reuter
Sau đây là lời kể của Hugh Lunn, dịch từ VIETNAM: A Reporter’s War từ trang 205 đến 210:
Tôi tạt
ngang công viên đối diện Reuters để đi về phía tay mặt của con đường (Đường
Thống Nhất – trước Dinh Độc Lập – chú thích của người dịch). Giống như tôi đang
đi dạo vào một buổi sáng nắng ấm dưới bầu trời trong xanh, trừ âm vang của
những tiếng nổ và những tràng súng máy bộc phát. Khi tôi vòng qua Thánh Đường
cũ kỹ bằng gạch mầu đỏ, con đường bên ngoài Toà Đại Sứ [Mỹ] giống như một cảnh
ở phim trường.
Một
chiếc xe Citroen cổ lỗ đậu ngay bên ngoài, với hàng loạt lỗ đạn bắn gần chạy
xéo hai bên giống như một sản phẩm của Eliot Ness: Một người Việt chết gục trên
tay lái. (Eliot Ness, giới chức Mỹ nổi tiếng chống tội phạm có tổ chức như Al
Capone. Mặc đầu Al Capone đã cố gắng mua chuộc nhưng không được, nhóm người của
Eliot Ness được tiếng là “The Untouchables” – chú thích của người dịch). Có một
chiếc xe nữa bị bắn xa hơn phía dưới, và cũng có cả một xe jeep của Quân Cảnh
Mỹ, các cửa kính bị bắn vỡ tan.
Xác một VC đang được mang ra từ chiếc xe Citroen.
Theo ghi nhận
của Michael A. Rovedo căn cứ một phần vào “Duty Staff Log” của Tiểu Đoàn 716
Quân Cảnh Mỹ: 2:40 sáng 31 tháng 01 (mùng Hai Tết Mậu Thân), Nguyễn Văn Mười
lái một xe du lịch Citroen mầu đen đi qua tòa nhà sáu tầng Đại Sứ Quán Mỹ trên
Đại Lộ Thống Nhất. Anh ta mang cả một thanh kiếm Nhật để ở băng sau để lấy hên.
2:45 sáng, Đạn súng lớn bắt đầu rơi xuống thành phố. Mười lái qua lần nữa. Lần
này anh hô “Tiến”! Một xe vận tải Peugeot và một xe taxi đi về phía Tây trên
Đại Lộ Thống Nhất, theo bức tường phía Nam của khuôn viên rộng bốn mẫu và ngừng
lại. Các công binh bắt đầu mang khí giới và khí cụ xuống, trong khi những người
khác bước ra khỏi bóng tối.
————
Một bên
bức tường trắng cao bọc quanh toà đại sứ sáu tầng đã bị bung ra một lỗ nhỏ làm
lối vào pháo đài cho đến giờ vẫn tưởng là bất khả xâm nhập. Không thấy dấu vết
của những lính gác người Việt – chòi canh nhỏ của họ ở bên ngoài trống không.
Phía đường bên kia toà đại sứ có nhiều cây lớn – đàng sau mỗi cây có một người
Mỹ. Nhiều người mặc quần áo ngủ, nhiều khi áo ngủ lòi ra dưới áo giáp. Họ nhắm
súng M-16 về hướng toà đại sứ của mình. Phía tường trắng trước toà nhà có ba
nơi bị bể bởi các loại đạn phóng.
(Hình của Viện Lịch Sử Bộ Binh Mỹ – US Army Military History Institute)
Trừ một
tay bắn sẻ người ta nghĩ là đang ẩn náu trong toà nhà xây dựng dở dang phía xa
tay mặt tôi, ở phía bên toà đại sứ của con đường là nơi an toàn nhất: Tất cả
các toà nhà đều có tường gạch cao hay được xây sát lối đi nên không ai ở toà
đại sứ có thể bắn vào điểm này. Và những lính Mỹ đang canh chừng phía đường bên
kia, kể cả những người mai phục dưới những chiếc xe bị bắn, có thể chặn bất cứ
ai xuống đất để bắn.
Tôi
thận trọng theo tường rào xuống phía dưới, qua một Quân Cảnh Mỹ trên lề đường
đang lắp thêm đạn vào súng. Gần đó hai người trong số họ nằm chết, sấp mặt trên
đường. Họ đã bị bắn khi có một người Việt chặn lại, người này là Việt Cộng.
Bên cạnh xác hai binh sĩ Hoa Kỳ nằm chết ở phía trước, Quân Cảnh
Mỹ nấp đằng sau một bức tường ở lối vào tòa đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn ngày
đầu tiên của cuộc tấn công Tết Mậu Thân, 31 tháng 1 năm 1968
(Hình của Hong Seong-Chan/AP – nguồn: Atlantic Magazine)
(Hình của Hong Seong-Chan/AP – nguồn: Atlantic Magazine)
Mặc dầu
có đầy lính tráng và súng ống, con đường này bây giờ rất yên lặng, giống như
một người chiếu phim đã tắt phần âm thanh. Tôi không chắc đi bao xa nhưng tôi
phải tới càng gần càng tốt, để cảm nhận được điều gì đang xẩy ra, và trở lại
văn phòng để viết một bản tin. Sát tường ngay cạnh lối xe vào toà đại sứ, một
nhóm người Mỹ đang nhòm quanh phía góc, súng trên cánh tay sẵn sàng nhả đạn.
Một trong số họ quay sang nói với tôi là phải ra khỏi đây vì Việt Cộng ở khắp
nơi, và bọn bắn sẻ, cùng với mìn. Một vài sĩ quan tôi nói truyện với cho biết
Việt Cộng ở ngay trong toà nhà, nhưng không biết bao nhiêu.
Việt
Cộng đã gây bất ngờ cho những người gác bằng cách đến trong những chiếc xe dân
sự. Một người lính nói với tôi rằng một Việt Cộng đã bắn hai Quân Cảnh Mỹ bằng
cách chặn họ lại sau giờ giới nghiêm và xin lửa hút thuốc. Tôi tới sát bức
tường nhìn thẳng ra chiếc xe Citroen có đầy vết đạn thì nghe tiếng súng lại bắt
đầu từ cả hai phía. Một trong nhóm binh sĩ Mỹ cùng với tôi ở gần lối vào, người
bự nhất trong số họ, ghì một khẩu súng máy M-60 vào ngang hông, vừa chạy vừa
bắn qua lối vào, miệng la “Tôi sẽ vào thanh toán bọn khốn kiếp này – I’m going
in to get those mother-fuckers”. Nhưng anh ta chỉ chạy được chừng hai mét trên
đất toà đại sứ. Sau khi anh ngã xuống, tôi vẫn còn nhìn thấy đôi bốt của anh về
phía tôi ở cửa lối vào – nhưng tôi không nhìn quanh cột trụ. Tập trung hoả lực
không sẩy ra vì người Mỹ không có mục tiêu để bắn. Thật mỉa mai, đại sứ quán
của họ đã được thiết kế quá tốt như một pháo đài đề có thể dễ dàng chiếm lại.
Chẳng ai biết bốn Cảnh Sát Việt Nam có nhiệm vụ canh gác toà nhà đang ở đâu,
nhưng hai trong số ba Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ canh gác đã bị thương, và họ đã
chiến đấu trong khi rút lui vào tầng trên cùng. Nhiều binh sĩ mở đường vào và
chẳng bao lâu kéo được người bạn tử sĩ ra ngoài. Nằm khoảng một giờ trong khi
trận đánh xẩy ra chung quanh.
Việt
Cộng đánh nhau trên lãnh thổ Hoa Kỳ, tại toà đại sứ, lần đầu tiên từ khi có
chiến tranh. Quân Cảnh bảo các nhà báo gần cổng tránh ra. “Có nhiều mìn ở quanh
đây”, một người nói. Binh sĩ nói Việt Cộng đang giữ năm tầng dưới của toà nhà.
Tôi lẻn
về văn phòng, đi sát tường, để bắt đầu giúp Pringle cạnh tranh với các hãng
thông tấn khác: Việt Cộng đang trong Đại Sứ Quấn Mỹ; người Mỹ đang từ sau mọi
gốc cây, chiến đấu dành lại pháo đài của mình; vẫn có một số người Mỹ còn sống
bên trong; một binh sĩ cố gắng đột nhập toà đại sứ của mình bằng một khẩu súng
máy. Và vẫn chưa tới giờ ăn sáng.
Bây giờ
Đình đã tới được văn phòng – một chuyện thật nguy hiểm đối với một người Việt
Nam trong khi trận đánh vẫn còn đang tiếp diễn khắp thành phố và người Mỹ sẵn
sàng bắn bất cứ người Việt nào không mặc binh phục VNCH. May mắn cho tôi là
Pringle vẫn còn bực mình vì tôi đã không trở lại đêm qua. Đình cười với anh,
lắc đầu và nói: “No. No, Jim, he cannot to do” Không. Không được đâu Jim, anh
ta không thể làm được. Đình đã phải đi qua khu cư xá của người Anh để tới văn
phòng, nhờ đó anh có thể nói với Jim về những xác chết bên ngoài chung cư.
Sau khi
viết bản tin Đình và tôi cả hai cùng trở lại mặt trận toà đại sứ. Nhưng khi
chúng tôi vừa tới nơi, một lính Mỹ la to trước Đình, “OK Charlie”, rồi chĩa
súng vào anh. Tôi đã chờ đợi nguy hiểm từ phía Việt Cộng, và sự bất ngờ từ phía
Mỹ làm tôi cứng họng. Chỉ còn Đình đã nhanh trí la to, “I not Viet Cong, I
number one anti-communist”. Tôi không phải Việt Cộng, tôi chống cộng số một.
Người Mỹ hạ súng xuống, nhưng sau đó Đình nói rằng anh đã có thể nhìn thấy vẻ
bối rối trên mặt anh lính Mỹ. “Vì làm sao anh ta có thể biết được? Không thể”
(For how he really know? Cannot).
Hai Quân Cảnh Mỹ áp giải một Việt Cộng từ khuôn viên Toà Đại Sứ
(Hình của Don Hirst, người chụp hình của Bộ Binh Mỹ)
(Hình của Don Hirst, người chụp hình của Bộ Binh Mỹ)
Chúng
tôi luồn lỏi sau từng gốc cây rồi dọc theo bức tường và, vừa lúc tới toà đại
sứ, một số trong những người lính Mỹ quả cảm đã chiến đấu mở đường vào khuôn
viên toà đại sứ đang mang ra một du kích quân bị bắt. Bốn lính Mỹ hùng hổ chĩa
mũi súng vào lưng hắn. Khi đi qua mặt tôi, hai tay hắn giơ lên, tôi nhìn thấy
vẻ mặt thách thức của hắn, rồi nhìn tới vẻ đanh lại trên nét mặt của bốn lính
Mỹ. Một sĩ quan nhìn họ la lên không được bắn, giữ hắn làm tù binh. Tôi cũng đã
lo một trong số họ có thể thể lẩy cò. Những bộ mặt giận dữ cho thấy họ cảm nhận
thế nào khi chẳng những thấy Việt Cộng lần đầu tiên, mà còn là kẻ đầu tiên
trong đám Việt Cộng đã chiếm một phần lãnh thổ Hoa Kỳ.
Sau đó
ít lâu một trực thăng đáp xuống trên nóc toà đại sứ và binh sĩ bắt đầu chiến
đấu mở đường xuống toà nhà, tới chỗ những người khác đang chiến đấu mở đường ra
cửa trước. Chiếc trực thăng đã phải bay đi vì bị bắn lần đầu nhưng trong cố
gắng thứ nhì, sức kháng cự của Việt Cộng có vẻ không còn bao nhiêu – có thể đến
lúc này họ chỉ còn ít đạn, và bị mất tinh thần vì sự kiện ba thuỷ quân lục
chiến đã có thể giữ vững tầng trên cùng.
Đình và
tôi vội trở lại văn phòng nơi tôi đánh máy kể lại tất cả những gì chúng tôi đã
nhìn thấy cho một thế giới chúng tôi tưởng tượng là đang đói tin về cuộc tấn
công gây sốc. Khi chúng tôi trở lại toà đại sứ, mười chín Việt Cộng thuộc đội
cảm tử bên trong đã bị giết hay bị bắt.
Lúc đó
là giữa buổi sáng. Đình kéo tôi sang một bên và chỉ vào hai xác Việt Cộng nằm
gần. Anh nhận xét rằng dưới bộ quần áo đen của họ là sơ mi trắng thông thường,
và cả hai có đeo đồ trang sức. “Không phải Việt Cộng nông dân, mà là người Sài
Gòn nằm vùng” (Not Viet Cong peasants. Saigon underground man). Đình tin rằng
hai Việt Cộng này là người địa phương đã chờ đợi được gọi đi để chiến đấu cho
Việt Cộng trong cuộc tấn công. “Not communist Viet Cong man, communist
underground man show way”. Không phải là Việt Cộng của cộng sản, đây là cộng
sản nằm vùng chỉ đường, Đình nói. Mọi người khác ở Sài Gòn bấy giờ tin rằng tất
cả Việt Cộng đều từ trong rừng ra, nhưng Đình không tin như vậy. Và bây giờ tôi
tin anh – cũng như đáng lẽ tôi đã phải tin anh từ đêm trước.
Nhiều
nhà báo đã tới và đi trong trận này nhưng bây giờ chỉ còn vài người gần toà đại
sứ. Huy hiệu của Đại Sứ Quán đã bị Việt Cộng bắn tung và nằm dưới chân lối vào.
Những cánh cửa gỗ dầy mười phân bị thủng lỗ bởi hoả tiễn chống xe tăng, và bên
trong, sàn nhà phủ đầy máu và mảnh vụn. Những ký giả đứng quanh quẩn, hoài nghi
hơn bao giờ, không hiểu phía quân sự Mỹ sẽ nói gì bây giờ. Rõ ràng là ánh sáng
đã không còn tại cuối đường hầm.
Trên
toàn quốc, hầu như tại tất cả các thành phố và thị trấn tại Nam Việt nam, rất
nhiều trận đánh đang diễn ra. Nơi nào đó trong Sài Gòn, Việt Cộng tại một nhà
máy, tại một nghĩa trang, tại một toà nhà công sở ở Chợ Lớn, và tại trường đua.
Nhưng trận đánh tại toà đại sứ là cú đấm thục mạng vào nỗ lực chiến tranh đã
hao mòn của Mỹ. Ngay cà Đình cũng nói, hầu như không thể tin được, “The VC
capture Pentagon East”, Việt Cộng đã chiếm Ngũ Giác Đài phía Đông.
Thật
ra, vụ thất bại về tâm lý cỡ đó đã khiến bộ máy vận động quần chúng của Mỹ hoạt
động ngay. Họ gọi văn phòng Reuter phủ nhận tin tức của chúng tôi nói rằng Việt
Cộng đã ở bên trong toà đại sứ của họ. Tôi nói rằng chính tôi đã ở đó. Tôi mô
tả cho người phát ngôn rằng Việt Cộng đã bắn ra từ trong toà nhà như thế nào và
rằng toà đại sứ đã bị chính người Mỹ bắn vào vì họ không thể vào bằng cửa
chính. Ông ta có vẻ nhượng bộ. Sau đó họ thay đổi câu truyện để nói rằng Việt
Cộng đã vào trong nhà “nhưng không phải khu vực thực sự là toà đại sứ”, lập
trường của họ suy thoái thành sự chính xác của ngữ cảnh. Nhưng người dân trên
toàn thế giới, và đặc biệt là dân Mỹ, đã nhìn thấy hình ảnh, và đọc tin về Việt
Cộng đã ở trong pháo đài toà đại sứ như thế nào và họ sốc, kinh hoàng: trong
nhiều năm, họ đã được nghe rằng tình hình quân sự vẫn tiến triển và khá hơn mỗi
tháng. Cuối cùng, thế giới đã được biết nước Mỹ đang thua cuộc chiến đầu tiên.
Việt
Cộng cũng tấn công Phủ Tổng Thống đêm đó, họ gọi: “Mở cổng, chúng tôi tới giải
phóng nơi này”. Tuy nhiên, họ đã không phá nổi cổng, và bị đẩy lui vào một
khách sạn đang xây dở và cầm cự tại đó trong ba ngày, chống trả xe tăng và hàng
trăm binh sĩ.
Võ khí
đã được tàng trữ tại những chỗ như hãng làm bia tại ngoại ô Chợ Lớn, trường đua
ngựa, và khu nhà máy mới xây gần phi trường từng được coi như một thành tích
công nghệ hoá được kịp thời hoàn thành tại Nam Việt Nam. Cơ sở này, một nơi
Việt Cộng lẩn trốn, đã bị chiến đấu cơ của chính quyền bỏ bom vài ngày sau.
Trường đua Phú Thọ ở Chợ Lớn biến thành chiến trường.
Trận đánh tại toà đại sứ theo ký giả ABC và NBC
Theo
Hugh Lunn, VC đã vào trong toà nhà chính của Đại Sứ Quán, và đã chiếm năm tầng
dưới trong sáu tầng. Nhưng theo hai ký giả khác, một người là Don North làm cho
ABC và NBC, và người kia là Peter Arnett làm cho AP, cũng có mặt tại chỗ, đã
nghe Quân Cảnh Mỹ nói với nhau qua radio là VC đã chỉ vào được tầng dưới cùng.
Sau đây là lời kể của Don North (1)
Là một ký giả của ABC và NBC News ở Việt Nam, tôi đã chứng kiến
Tết và phần lớn những trận đánh, từ Khe Sanh ngày 30 tháng 1 đến Huế ngày 25
tháng 2 khi Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ trấn giữ cửa đông nam vào Thành nội, chấm
dứt cuộc bao vây Huế. Nhưng chính trận đánh ở Toà Đại Sứ Mỹ sáng sớm 31 tháng 1
là vụ quan trọng nhất đã xẩy ra trong toàn cuộc chiến.
Tại một tiệm sửa xe đầy dầu mỡ ở 59 Phan Thanh Giản, ngay trước
khi VC tấn công Sài Gòn, 19 công binh VC lên một chiếc xe vận tải cỡ nhỏ hiệu
Peugeot và một xe taxi bắt đầu một chuyến đi ngắn tới địa điểm là Toà Đại Sứ
Hoa Kỳ. Mặc quần áo mầu đen, đeo băng đỏ, họ là một phần của thành phần chọn
lọc gồm 250 người thuộc tiểu đoàn công binh C-10. Hầu hết họ sinh ra tại Sài
Gòn và biết rõ đường phố của một thành phố đông dân.
Hai ngày trước, những xà-cạp nặng, thường dùng đựng cà chua,
cũng như những thúng đựng gạo, đã được đem đến căn nhà cạnh tiệm sửa xe. Chúng
chứa đầy AK-47, B-40 hoả tiễn phóng lựu và mìn bộc phá để 19 người sẽ dùng vào
chiều hôm đó. Sau nửa đêm, các chiến binh được cho biết lần đầu mục tiêu của họ
là Toà Đại Sứ Mỹ. Không có mô hình mẫu địa điểm, không có chỉ thị sẽ làm gì sau
khi đột nhập cơ sở, không nói gì tới cứu viện hay đường tháo lui, cũng không
xác nhận đây có phải là một vụ cảm tử.
(Phần
chữ nghiêng trên đây, Don North viết trong bài có tựa đề “An American Reporter
Witnessed the VC Assault on the U.S. Embassy During the Vietnam War” – Một phóng
viên Mỹ chứng kiến VC tấn công vào Đại Sứ Quán Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam –
vào tháng Hai năm 2001, cho Vietnam eContent Feature, đăng trên Vietnam
magazine. Bảy năm sau, trong một bài mang tựa đề “Tet Plus 40: US-Vietnam
Turning Point” – Tết cộng 40: Khúc quanh Mỹ-Việt Nam – viết cho
consortiumnews.com, đăng ngày 30 tháng 01 năm 2008 như một tường trình đặc biệt
nhân kỷ niệm 40 năm vụ tấn công Tết Mậu Thân, tác giả vẫn giữ nguyên cả bài như
cũ, nhưng phần trên đây được thay đổi như sau):
Vào nửa
đêm, tiến tới ngày định mệnh 31 tháng 01, 1968, 15 Việt Cộng tụ tập tại một
gara sửa xe đầy dầu mỡ ở 59 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn.
Mặc
pydama đen và đeo băng tay đỏ, họ là một phần của nhóm 250 người khoẻ mạnh chọn
lọc của Đơn vị Biệt động J-9, trước kia được biết như là tiểu đoàn công binh
C-10. Phần lớn họ sinh ra tại Sài Gòn và biết đường lối trong môt thành phố
đông đúc.
Chỉ có
tám trong số được huấn luyện về công binh, chuyên viên đặt và gỡ mìn và chất
nổ. Bảy người khác là thư ký hay đầu bếp đã gia nhập một sứ mạng nguy hiểm chỉ
vì muốn thoát khỏi sự khổ cực của cuộc sống trong rừng.
Họ sẽ
được giúp bởi bốn người Việt khác, là nhân viên dân sự tại toà đại sứ, kể cả
một trong những tài xế của Đại Sứ Ellsworth Bunker.
Nguyen
Van Giang, được gọi là Đại Uý Ba Den, là sĩ quan chỉ huy của đơn vị J-9, đã
được chỉ định hướng dẫn toán đặc công. Vào buổi sáng hôm trước cuộc tấn công,
Ba Den gặp Nguyen Van De, tài xế của ông đại sứ, người này chở Ba Den trên một
xe Hoa Kỳ loại station wagon đi qua toà đại sứ, chỉ cho biết đó là mục tiêu bí
mật cho cuộc tấn công Tết.
Biết rõ
mục tiêu, Đại Uý Ba Den bị tràn ngập bởi nhận thức là hầu như chắc chắn anh ta
sẽ không thoát chết vào hôm sau.
Suy
nghĩ về cái chết của mình – và vì đó là chiều ba mươi Tết – Ba Den đã uống vài
chai Bia 33 tại Chợ Sài Gòn và mua một tràng pháo, như anh ta đã làm mỗi dịp
Tết từ khi còn nhỏ.
Rồi Ba
Den đi qua đường Trần Quý Cáp, tìm căn nhà nơi anh ta đã sống với vợ và các con
sáu năm trước.
Khuya
đêm ấy, anh ta nhập với đồng bọn tấn công khác tại đường Phan Thanh Giản.
Đại Uý
niên trưởng Bay Tuyen trình bầy cho họ về sứ mạng và phân phát võ khí. Các công
binh được chỉ thị giết bất cứ ai chống cự nhưng bắt làm tù binh bất cứ ai đầu
hàng. Điềm gở là họ đã không được cho biết đường thối lui (2).
Vụ tấn
công toà đại sứ có thể chỉ là một phần của tiểu đoàn công binh được chỉ định mở
đầu cuộc tấn công Sài Gòn, được hậu thuẫn bởi 11 tiểu đoàn khác, tổng cộng
khoàng 4.000 người. Đã có ít thời gian để thực tập. Những gì họ thiếu sót trong
kế hoạch sẽ được bù đắp bởi sự khẩn trương, mục đích và sự liều mạng của cuộc
tấn công.
Nhiệm
vụ của tiểu đoàn sáng hôm đó là chiếm sáu mục tiêu: Đại Sứ Quán Mỹ, Dinh Độc
Lập, Đài Phát Thanh quôc gia, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Bộ Tư Lệnh Liên Quân VNCH
tại Tân Sơn Nhất, và Toà Đại Sứ Phi Luật Tân. Quân tấn công sẽ giữ các mục tiêu
này trong 48 giờ cho đến khi các tiểu đoàn VC vào thành phố thay thế. Những
người thoát chết được thăng thưởng ngay.
Trong
tất cả các mục tiêu, sự quan trọng hàng đầu của Toà Đại Sứ Mỹ là điều hiển
nhiên. Mới hoàn thành ba tháng trước với phí tổn 2.6 triệu đô la, và toà nhà
sáu tầng sừng sững ở Sài Gòn như một pháo đài bất khả nhập. Nó nhắc nhở sự hiện
diện thường trực của Hoa Kỳ, uy tín và sức mạnh. Không cần để ý tới Nha Trang,
Ban Mê Thuật hay Biên Hoà cũng bị tấn công sáng hôm đó. Hầu hết người Mỹ đọc
tên những nơi này còn chưa được, nói chi đến sự quan trọng của chúng. Nhưng Đại
Sứ Quán Mỹ ở Sài Gòn? Với nhiều người Mỹ, đây là trận đánh đầu tiên của chiến
tranh Việt Nam mà họ biết.
Trên
đường tới toà đại sứ Mỹ, một cảnh sát dân sự người Việt nhìn thấy đám công binh
này đi xe không bật đèn. Nhân viên cảnh sát thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia
Nam Việt Nam này, vốn được gọi là chuột bạch, đã tránh phiền phức bằng cách lui
vào bóng tối khi chiếc xe vận tải và taxi đi qua. Các lính công binh này cũng
gặp may mắn tương tự khi đương đầu hàng phòng thủ đầu tiên tại toà đại sứ. Khi
nghẹo vào Đại Lộ Thống Nhất họ chạm trán bốn cảnh sát, nhưng các vị này đã bỏ
chạy không bắn một phát.
Lúc
2:45 sáng, đám lính công binh đến trước cổng chính Toà Đại Sứ, bắn súng liên
thanh AK-47 và phóng lưu B-40. Bên ngoài lối vào toà đại sứ, hai Quân Cảnh Mỹ
thuộc Tiểu Đoàn 716 — Spc. 4 Charles Daniel, 23 tuổi, ở Durham, N.C., và Pfc
Bill Sebast, 20, ở Albany, N.Y. — bắn trả trong khi lui vào bên trong cửa thép
nặng nề và khoá lại. Lúc 2:47, qua radio, họ phát đi tín hiệu 300 – mật hiệu
của Quân Cảnh báo khi địch tấn công. Một tiếng nổ rung chuyển cả khu nhà khi
lính công bình dùng mìn phá một lỗ khoảng một mét ở chân tường rào. Daniel nói
vào radio Quân Cảnh, Tụi nó đang tới – giúp tôi! Rồi radio im bặt.
Hai
lính công binh đầu tiên của Tiểu Đoàn C-10 chui qua lỗ được coi là hai thành
viên cao cấp, Bay Tuyen và Ut Nho. Họ và hai Quân Cảnh Mỹ đều thiệt mạng trong
cuộc cận chiến. Đám công binh còn lại có tới 40 pounds chất nổ plastic C-4,
thừa đủ để phá đường vào toà nhà chính. Thiếu chỉ thị rõ ràng từ cấp chỉ huy đã
bị giết, họ chốt tại các vị trí đằng sau những bồn hoa lớn hình tròn ở vườn cỏ
toà đại sứ và bắn lại các lực lượng ngày càng đông bắn vào họ từ các nóc nhà
bên ngoài toà đại sứ…
Lúc
3:30 sáng 31 tháng 1, chúng tôi ra khỏi Hotel Caravelle trên chiếc xe Jeep của
ABC News. Mới ra khỏi đường Tự Do, cách toà đại sứ ba khu phố, ai đó, VC, quân VNCH,
cảnh sát hay Quân Cảnh Mỹ, chúng tôi không rõ – đã nã một tràng liên thanh vào
chúng tôi. Một vài viên đạn xuyên qua mui xe Jeep. Tôi vội tắt đèn quay xe lại
khỏi tầm bắn, trở về văn phòng ABC chờ sáng.
Khi
trời sáng khoảng 6 giờ, chúng tôi đi bộ tới toà đại sứ. Khi gần tới, chúng tôi
có thể nghe tiếng súng liên hồi, với những vệt đạn xanh hay đỏ vẽ trên nền trời
hồng.
Gần toà
đại sứ, chúng tôi nhập bọn với một nhóm Quân Cảnh Mỹ đang đi về hướng cổng
chính toà đại sứ. Tôi mở máy thu âm cho ABC radio trong khi Quân Cảnh chửi thề
là đáng lẽ quân đội VNCH phải bảo đảm an ninh cho toà đại sứ. Quân Cảnh nói
rằng phía Việt Nam đã bỏ chạy ngay sau phát súng đầu tiên.
Vệt đạn
mầu xanh của VC đi ra từ khu toà đại sứ và từ tầng trên của những toà nhà bên
kia đường. Vệt đạn đỏ bắn lại từ bên kia đường. Chúng tôi ở giữa hai làn đạn…
Nằm sát
với các Quân Cảnh dưới máng xối sáng hôm đó, Arnett (hãng AP) và tôi đã không
biết đám VC tấn công đóng ở đâu hay bắn ra từ đâu. Nhưng chúng tôi biết đó là
chuyện lớn…
Nhiều
Quân Cảnh chạy qua, một trong số họ cõng một tên VC. Tên này bị thương và đang
chảy máu. Hắn ta mặc pydama mầu đen, và lạ thay, đeo một nhẫn hồng ngọc cỡ bự.
Tôi phỏng vấn các Quân Cảnh và thu cuộc nói truyện qua radio của họ với đồng
đội bên trong cổng toà đại sứ. Các Quân Cảnh nghĩ rằng VC đã đột nhập vào trong
toà nhà chính, một cảm nhận sau này chứng tỏ là sai. Peter Arnett bò đi kiếm
điện thoại gọi về văn phòng báo tin về nội dung cuộc đối thoại của Quân Cảnh.
Lúc 7:25, căn cứ vào tin Arnett gọi về từ hiện trường, hãng AP đầu tiên phát đi
bản tin nói rằng VC đã ở trong toà nhà chính. Bản tin nói rằng: “Việt Cộng tấn
công Sài Gòn hôm Thứ Tư và đã chiếm một phần Đại Sứ Quán Hoa Kỳ. Quân Cảnh Mỹ
tại chỗ nói họ tin rằng khoảng 20 Việt Cộng trong đội cảm tử đã ở trong Đại Sứ
Quán và giữ một phần tầng một Toà Đại Sứ”.
Vấn đề
liệu Việt Cộng đã ở trong toà nhà chính (chancery building) hay mới chỉ ở khuôn
viên (compound) đóng vai quan trọng về biểu tượng. Tôi cho chạy lại cuốn băng
hôm ấy vào năm 1968, và chắc chắn Quân Cảnh tin là VC đã trong toà nhà chính.
Một
trực thăng đáp trên nóc toà đại sứ, và quân sĩ bắt đầu xuống các tầng dưới.
Quân Cảnh Dave Lamborn nhận chỉ thị qua radio từ một sĩ quan trong khuôn viên:
Đây là Waco. Bạn có thể vào cổng bây giờ không? Mang một lực lượng vào đó và
thanh toán toà đại sứ, bây giờ. Sẽ có trực thăng trên nóc nhà và binh sĩ kéo
xuống. Cẩn thận đừng bắn người nhà…
Tôi dẵm
lên tấm huy hiệu Hoa Kỳ, đã bị bắn tung khỏi tường toà đại sứ gần lối vào bên
cạnh. Chúng tôi chạy qua cửa chính vào trong vườn, nơi đã diễn ra một trận đẫm
máu.
Trong
khi các trực thăng tiếp tục đổ quân trên nóc nhà, chúng tôi ngồi với một nhóm
Quân Cảnh trên bãi cỏ. Họ bắn về phía một biệt thự nhỏ trong khuôn viên toà đại
sứ nơi họ nói là ổ VC cầm cự cuối cùng. Những bình hơi cay được ném qua cửa sổ
nhưng hơi ga dội lại ra vườn. Đại Tá George Jacobson, phối hợp viên của phái
bộ, cư ngụ ở biệt thự đó, và bất thình lình xuất hiện nơi cửa sổ ở lầu nhì. Một
Quân Cảnh tung lên cho ông mặt nạ tránh ga, và một khẩu súng ngắn .45. Ba VC
được cho là đang ở tầng một và sẽ phóng lên lầu để tránh hơi cay.
Tôi
tiếp tục mô tả mọi sự chứng kiến vào trong máy thu âm, thỉnh thoảng khựng lại
vì hơi cay. Tôi có thể đọc thẻ ID do toà đại sứ cấp trong ví của Nguyen Van De
mà xác hắn nằm xõng xoài ngay cạnh tôi trên bãi cỏ. Nguyen sau này đã được nhận
diện là một tài xế của toà đại sứ, thỉnh thoảng lái xe cho Đại Sứ Mỹ và từng
làm tài xế tới 16 năm. Quân Cảnh nói với tôi là Nguyen Van De đã bắn họ lúc
khởi đầu trận đánh và có thể hắn ta là nội tuyến cho đám tấn công.
Giữa
lúc căng thẳng, tôi đã bị chia trí bởi một con cóc to, nhảy qua và làm tung toé
những vũng máu đặc trên cỏ. Đó là một trong những hình ảnh không bao giờ đi
khỏi và cứ trở lại bất ngờ.
Một
tràng súng liên thanh khiến tôi bừng tỉnh. Tên VC cuối cùng còn hoạt động phóng
lên lầu, nã súng vào Đại Tá Jacobson, nhưng bắn trật.
Sau này
vị đại tá nói với tôi: Cả hai chúng tôi nhìn thấy nhau cùng lúc. Hắn bắn trật,
tôi bắn thẳng vào hắn bằng một phát .45. Sau này Jacobson thú nhận rằng cô bạn
gái Sài Gòn đã ở cạnh ông, và chứng kiến mọi chuyện từ đầu dưới tấm khăn trải
gường.
Số
thiệt mạng trong trận đánh toà đại sứ gồm có năm quân nhân Mỹ cùng với 17 trong
số 19 công binh VC. Hai công binh thoát chết nhưng bị thương về sau được thẩm
vấn và chuyển giao cho quân đội VNCH.
Trận đánh toà đại sứ Mỹ kể từ bên trong
Theo ký
giả Reuter Hugh Lunn, vào sáng sớm Mùng Hai Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã chiếm
năm tầng dưới trong sáu tầng toà nhà chính (chancery building) Đại Sứ Quán Mỹ ở
Sài Gòn. Theo ký giả Don North của ABC và NBC News, và Peter Arnett của AP,
nghe qua đối thoại của Quân Cảnh trong lúc đang đánh nhau, họ nghĩ rằng VC đã
vào được tầng dưới cùng của toà nhà chính. Trong khi ấy, theo báo cáo của một
viên chức ngoại giao trực đêm trong toà nhà chính, VC đã không hề có mặt bên
trong toà nhà này (3).
Báo cáo
của ông E. Allan Wendt, một viên chức ngoại giao (Foreign Service officer) đã
được viết rất chi tiết ngay sau vụ tấn công, nhưng bị xếp vào loại tài liệu
mật, mãi đến ngày 04 tháng 03 năm 1981 mới được công bố lần đầu tiên bởi báo
The Wall Street Journal. Sau đây là những điểm đáng chú ý trích dịch từ báo cáo
của ông E. Allan Wendt:
Tôi đã
ngủ trong phòng 433, khu dành cho viên chức trực, khi toà nhà rung chuyển vì
một tiếng nổ lớn ngay trước 3 giờ sáng. Tôi lăn khỏi giường và chộp điện thoại.
Tiếng súng máy rền vang. Tôi gọi ông Calhoun tại nhà ổng. [John A. Calhoun là
giới chức phụ trách chính trị của toà đại sứ]. Trong khi tôi đang nói, một
tiếng nổ khác bung vào toà nhà. Nhớ ra cần phải núp để tránh mảnh vụn trong
trường hợp có bom nổ, tôi bò vào dưới gầm giường trong khi nói với ông Calhoun.
Tôi
chui ra khỏi gầm gường giữa lúc [James A.] Griffin, người trực về truyền tin,
đi vào và hỏi chuyện gì đang sẩy ra. Tôi nói không biết chắc, nhưng tôi nghĩ
rằng toà đại sứ đang bị tấn công. Tôi vội mặc quần áo, thu góp vài vật dụng cá
nhân của tôi, rồi rút lui vào phòng truyền tin bên cạnh, nơi đó an toàn hơn
phòng trực và có nhiều điện thoại hơn. Chẳng ai trong chúng tôi biết rõ về cuộc
tấn công hay Việt Cộng đã vào trong toà nhà chưa. Vì thế, một trong những phản
ứng đầu tiên của chúng tôi là đóng cánh cửa vòm vào phòng truyền tin.
Tôi gọi
nhà ông Calhoun, và đến giờ đó ông [David J.] Carpenter thuộc khối chính trị và
ông [Gilbert H.] Sheinbaum, phụ tá ông Đại Sứ đã tới đấy và thiết lập bộ chỉ
huy. Tôi báo cáo rằng tôi đã chuyển sang phòng truyền tin và có thể gọi tôi qua
các số phụ 321 hay 322…
Súng tự
động tiếp tục bắn, thỉnh thoảng xen kẽ bởi những tiếng nổ lớn mà chúng tôi nghĩ
là hoả tiễn hay moọc chê. Tất cả tiếng súng và tiếng nổ có vẻ như rất gần, đến
nỗi chúng tôi sợ rằng chẳng những không tránh được chuyện toà đại sứ bị đột
nhập mà ngay tính mạng của chúng tôi cũng rất nguy hiểm. Thật vậy, chúng tôi
nghĩ hy vọng duy nhất của chúng tôi là đóng chặt cửa vòm vào phòng mật mã rồi ở
trong đó. Chúng tôi biết rằng phải có sức công phá mạnh để phá bung cửa đó,
nhưng chúng tôi không loại bỏ khả thể là Việt Cộng có thể làm chuyện đó.
Sau đó
chúng tôi gọi cho Thuỷ Quân Lục Chiến gác dưới tầng trệt bên trong toà đại sứ.
Chính tôi nghĩ rằng có thể anh đã chết. Tôi ngạc nhiên khi anh trả lời, và rõ
ràng trong tình trạng rất bối rối, anh nói rất mạch lạc. Đây là lần đầu trong
rất nhiều lần đối thoại với Trung Sĩ [Ronald W.] Harper, người mà trong tình
trạng khó khăn, vẫn tồn tại như là nguồn tin duy nhất của chúng tôi về những gì
đang sẩy ra trong khuôn viên.
Harper
nói với chúng tôi là VC đã ở trong khuôn viên nhưng không ở trong toà nhà chính
của toà đại sứ. Ảnh nói anh có thể nghe chúng nói chuyện bên ngoài toà nhà. Anh
không biết chúng có bao nhiêu người. Vài phút sau, Harper nói với chúng tôi anh
có một Thuỷ Quân Lục Chiến bị thương ở dưới tầng trệt. Ảnh yêu cầu chúng tôi
xuống mang anh thương binh lên.
Chúng
tôi thận trọng xuống tầng trệt bằng thang máy. Với sự giúp sức của Trung Sĩ
Harper, tôi mang anh thương binh TQLC vào thang máy. Rồi Griffin xuống giúp tôi
mang anh lên tầng bốn. (Và rồi sau đó, chúng tôi luôn khoá thang máy tại chỗ,
đề nếu VC có vào trong toà nhà, thì không thể bấm nút cho xuống được). Một
thoáng nhìn với sợ hãi vào tầng trệt, thấy rõ nhiều thiệt hại đáng kể đã sẩy
ra. Tình trạng với chỉ một TQLC còn lại có vẻ hoang vắng. Chúng tôi khiêng anh
thương binh vào lầu bốn. Chân anh có vẻ bị gẫy, và rõ ràng anh đang bị sốc…
Đến giờ
này, theo sự hiểu biết của tôi, sau đây là những người có mặt trong toà nhà:
Tôi, Griffin, Trung sĩ Harper, Fisher [một nhân viên truyền tin của Bộ Binh] và
ba nhân viên truyền tin của OSA – Office of Special Assistant, tên của CIA ở
Việt Nam, tất cả là 7 người, không kể anh thương binh TQLC…
Vào 4
giờ sáng, Thiếu tá Hudson gọi. Chúng tôi cho ông biết về những gì chúng tôi đã
thấy. Ông đã được biết về một TQLC bị thương và nói một trực thăng tải thương
sẽ đến chở anh đi.Chúng tôi phải mang anh lên mái nhà để chờ trực thăng. Tuy
nhiên, chỉ có anh TQLC gác dưới trầng trệt có chìa khoá mở hai cửa để từ tầng
sáu lên nóc nhà. Chúng tôi gọi Harper là chúng tôi cần chìa khoá. Anh bảo ai đó
dùng thang máy xuống, đứng ở góc để tránh đường bắn, anh sẽ ném chìa khoá vào
cho. Fisher đã làm chuyện này trong vài phút…
Thiếu
tá Hudson nói trực thăng sẽ đến trong 15 phút. Sau nửa giờ, chúng tôi gọi
Hudson, ổng nói trực thăng tới nhưng đã phải bỏ đi, vì trúng đạn địch. Chuyện
này sẩy ra vào lúc 5:30 sáng, và đó là lần đầu trực thăng định đáp…
Một
trong nhiều chuyến lên mái nhà – vào khoảng 6:15 – tôi thấy một TQLC võ trang
gác ở tầng lầu dưới mái nhà, bò quanh với một khẩu súng trường. Tôi hỏi làm
cách nào anh tới đây được, vì tôi tưởng chỉ có một TQLC gác trong toà nhà, là
người dưới tầng trệt. Ảnh nói anh vẫn ở đó… Nửa giờ sau, trở lại mái nhà, tôi
được biết trực thăng đã tới, tiếp tế đạn M6, và mang anh thương binh đi… Tôi vô
cùng kinh ngạc khi được biết anh TQLC và anh lính Bộ Binh đã lên trực thăng ra
đi…
Trong
thời gian này đã có nhiều người gọi tới toà đại sứ. Ông Philip Habib [lúc ấy là
phụ tá Phó Ngoại Trưởng Hoa Kỳ] gọi hai lần từ Phòng Tình Hình toà Bạch Ốc. Một
người từ cảnh sát Việt Nam muốn nói truyện với một trong các nhân viên OSA…
Một
nhân viên người Việt bị bỏ lại ở phòng truyền tin không mật dưới tầng trệt gọi
và xin phép được về nhà. Ông nói đã làm việc trong nhiều giờ và mệt. Tôi nói
với ông ta là tôi rất buồn nhưng ông phải ở lại tại chỗ cho đến khi ngừng bắn.
Giữa
khoảng 6:30 và 7 giờ. Thiếu tá Hudson gọi để nói rằng không có hạ cánh trước
khi trời sáng, vì không nhìn rõ, mặc dầu có đèn trên mái nhà.
Cuối
cùng, rạng đông ló dạng. Thiếu tà Hudson nói tình trạng đã trở thành nguy kịch.
Chúng tôi đồng ý. Ông ấy nói kế hoạch cuối cùng là xit hơi cay vào Việt Cộng
trong khuôn viên rồi hạ binh sĩ từ mái nhà xuống. Trực thăng chở hơi cay sẽ bay
đi ngay. Chúng tôi gọi ngay Trung Sĩ Harper nói cho anh biết kế hoạch này. Anh
nói hãy ngừng ngay việc dùng hơi cay, vì bây giờ (khoảng 7:30) Quân Cảnh Mỹ
đang đánh mở đường tiến vào khuôn viên. Có thể chúng ta sẽ xịt ga vào người của
mình. Tội gọi ngay lại cho Thiếu Tá Hudson. Sau 15 phút chậm trễ, ông ấy nói có
thể vẫn dùng hơi ga. Có một lúc, ông ấy nói đừng lo vì kỵ binh đang tới. Tôi đã
từng nghe nhiều về không kỵ làm tôi nghĩ rằng ông ấy nói chuyện nghiêm chỉnh.
Thiếu
tá Hudson, có lẽ căn cứ vào những cuộc nói truyện với Trung Sĩ Harper, đã thảo
một kế hoạch cho trận đánh mà ông ấy nói chúng tôi phải gặp người chỉ huy trung
đội ngay sau khi binh sĩ tới nóc nhà.
Theo kế
hoạch, binh sĩ sẽ kéo xuống bằng cầu thang ở hai bên toà nhà, thay vì xuống
bằng thang máy, vì ngay trong đường bắn. Khi tới tầng trệt, họ sẽ dùng các lối
đi bên hông để vào khuôn viên. Những cửa này khoá đối với bên ngoài, nhưng có
thể đẩy mở ra từ bên trong.
Không
khí tại phòng mật mã nói chung rất nghẹt thở, pha trộn với bực bội và thất
vọng. Thỉnh thoảng, mức căng thẳng giảm bớt, nhưng đôi khi, một hoả tiễn nữa
lại đụng tường, khiến chúng tôi trở lại với cảnh ngộ của mình. Thỉnh thoảng
tiếng súng cũng thưa thớt, nhưng chẳng bao giờ được lâu.
Sau khi
trời đã sáng bảnh, những chuyến lên mái nhà cho thấy nhiều trực thăng bay lượn,
tuy nhiên, chảng thấy cái nào định đáp xuống. Chúng tôi chờ đợi, luôn thắc mắc
tại sao không có cái nào đáp. Khoảng 8:15, tôi trở lại mái nhà. Nhân viên
truyền tin của OSA đã trở lại phòng mật mã, khiến trên mái nhà không có ai. Khi
bước ra khỏi thang máy ở tầng sáu, tôi đối diện một khung cảnh lạ. Trước mặt
tôi là năm binh sĩ nhảy dù trong binh phục dã chiến, thuộc sư đoàn dù 101. Họ
mang súng M-16, M-79 phóng lựu, lựu đạn và dao găm. Tôi hỏi vị chỉ huy trung đội.
Thiếu tá [Hillel] Schwartz tiến lên, tự giới thiệu với ông tôi là viên chức
trực. Ông đưa tôi một trái lựu đạn, tôi từ chối. Ông nói có thêm 30 người nữa
sẽ đáp xuống trong chốc lát. Tôi giải thích là tôi biết không có VC trong toà
nhà. Trong khi vị thiếu tá ghi chép, tôi vắn tắt mô tả toà nhà, nhắc lại chỉ
thị dàn quân của MACV, và nói cho ông biết về tình trạng của Đại Tá Jacobson ở
phía sau khuôn viên. Tôi cũng lưu ý ông trông chừng cho một nhân viên người
Việt ở tầng trệt. Thiếu tá Schwartz sợ rằng thực sự có VC trong toà nhà, đã dàn
quân của ông kiểm soát từng tầng một, bắt đầu từ lầu sáu.
Tôi đưa
Schwartz tới tầng bốn để ông có thể gọi TQLC gác ở tầng trệt để có những tin
tức mới nhất. Sau đó, ông nhập bọn với người của ông…
Rồi tôi
lên mái nhà nhiều lần để đón thêm binh sĩ nhảy dù. Khoảng 45 phút sau khi Thiếu
tá Schwartz tới, tôi xuống tầng trệt. Lúc ấy tiếng súng đã ngừng được một lúc.
Tôi
được cho biết có 19 VC đã chết. Tôi lên lầu chuyển tin này cho Carpenter. Rồi
tôi xuống nhà trở lại.
Trong
khi tôi đang quan sát những tổn thất ở tầng trệt, ai đó nói Tướng [William C.]
Westmoreland [Tư Lệnh quân đội Mỹ ở VN] muốn gặp tôi ở phòng gác TQLC. Tôi tới
đó, và Tướng Westmoreland nói ý kiến của ông là dọn sạch toà đại sứ càng sớm
càng tốt, và nhân viên trở lại làm việc vào buổi trưa. Rồi cho biết ông muốn
nói chuyện với ông Habib…
Đồng nghề, dị mộng
Trở lại với câu truyện của Hugh Lunn và Phạm Ngọc Đình, theo lời
kể của Hugh trong VIETNAM: A
Reporter’s War. Vụ tấn công
Tết Mậu Thân sẩy ra chỉ ba ngày trước khi Hugh hết hạn một năm làm việc ở Việt
Nam. Vụ này khiến ngày rời Sài Gòn của anh bị trễ. Anh vui vẻ, như thoát nạn ra
đi hai tuần sau Tết, trở về quê hương của mình là nước Úc, trước khi trở lại
làm cho Reuters ở Singapore.
Đình ở
lại, nhập ngũ theo lệnh tổng động viên sau Tết. Nhờ quen nhiều, được việc tốt.
Trong thư gửi cho Hugh Lunn, dĩ nhiên viết bằng Dinglish, đề ngày 10 tháng 7
năm 1968, anh mở đầu:
Dear Gunsmoke.
Private Dinh say helo gunsmoke, I hope you are ok. After you
left saigon office one month, 1 has draft military service by our government.
Three months in training near Saigon 1 work secretary for battalion
headquarter. every weekend returning Saigon with 24 hour holiday. Mr. Pringle
and Bruce Pigott worry when 1 left office. James go to defense ministry with
his application spy war. Propaganda for 1 and he very to request 1 get job
defense ministry.
You know what my job. Defense ministry reporter political and
war stories. 1 would like sent letter to say thanks James but 1 d’ont know
where he address now, If you know, please write to me letter…
Thân
chào Gunsmoke,
Binh
nhì Đình có lời thăm Gunsmoke, hy vọng anh vẫn bằng an. Một tháng sau khi anh
rời Sài Gòn, tôi đã nhập ngũ theo lệnh động viên của chính phủ. Ba tháng huấn
luyện gần Sài Gòn tôi làm thư ký tại bộ chỉ huy tiểu đoàn. Mỗi cuối tuần đều về
Sài Gòn với 24 giờ nghỉ. Ông Pringle và Bruce Pigott lo ngại khi tôi rời văn
phòng. James tới Bộ Quốc Phòng với đơn xin việc tâm lý chiến. Vận động cho tôi
và cố yêu cầu cho tôi được việc tại Bộ Quốc Phòng.
Anh
biết công việc của tôi là gì không? Phóng viên chính trị và phóng sự chiến
trường của Bộ Quốc Phòng. Tôi muốn gửi thư để cảm ơn James nhưng tôi không biết
địa chỉ ông ấy bây giờ ở đâu, nếu anh biết, làm ơn viết thư cho tôi…
Lá thư Đình viết cho Hugh Lunn bằng Dinglish, chụp lại từ
Vietnam: A Reporte’s War
Trong
vụ Việt Cộng tấn công đợt hai vào tháng Năm, 1968, Đình thoát chết. Đáng lẽ đi
với đám ký giả Anh, Mỹ và Úc vào Chợ Lớn săn tin, nhưng phút chót, trưởng phòng
Reuters Tony Baker muốn anh đi cùng lên phía xa lộ Biên Hoà. Khi trở về, anh
được tin bốn trong năm ký giả trên chiếc xe của báo TIME bị VC bắn chết ở Chợ
Lớn, trong đó có hai người làm cho Reuters, bạn anh. Bất chấp nguy hiểm, qua
mặt cả Việt Cộng, Đình tìm tới tận chiếc xe bị bắn, tự tay sờ ngực các nạn
nhân, xem nếu họ chưa chết, chỉ bị thương, thì tìm cách cấp cứu. Ban quản trị
Reuters đã ca tụng Đình về hành động can đảm này.
Trước
tình hình cực kỳ đen tối vào tháng Tư 1975, Reuters đề nghị đưa ký giả yêu quý
này rời khỏi Việt Nam. Chỉ đồng ý cho vợ con ra đi, Đình quyết định ở lại, vì
theo anh “If a journalist see the beginning he must see the end”, nếu một nhà
báo nhìn thấy khởi đầu, cũng phải nhìn thấy kết thúc.
Ngày 30
tháng Tư, Việt Cộng tới cửa ngõ Sài Gòn, Đình quyết định “Time go, war
finished”, Đến lúc đi, chiến tranh đã chấm dứt. Tại JUSPAO, sáu xe buýt chở
người Mỹ và những người Việt được Mỹ cho đi ra phi trường. Đình cố lên chiếc xe
thứ nhì, nhưng Quân Cảnh Mỹ đẩy anh xuống chiếc thứ bốn. Không may là chỉ có
hai chiếc đầu vào được bên trong phi trường. Theo Đình, tài xế bốn chiếc xe
phía sau là Việt Cộng, cố tình làm cho hành khách lỡ chuyến đi. Anh mắc kẹt ở
Sài Gòn.
Hôm sau
ngày Sài Gòn đầu hàng, Đình trở lại văn phòng, thấy VC đặt súng trấn giữ trước cửa,
Đình nói “Đây là văn phòng Reuter”, họ nói “Không, đây là văn phòng CIA”. Đình
phải trải qua một tháng cải tạo, và tiếp tục tư cách phóng viên Reuter, nhưng
mọi điều anh viết đều phải nộp để kiểm duyệt. Năm 1976, VN chính thức thống
nhất, văn phòng Reuter phải ở Hà Nội, Đình được chỉ định ra Hà Nội, nhưng nhà
cầm quyền cộng sản từ chối. Sau, Reuters lại chỉ định anh sang Singapore, rồi
Bangkok, cũng đều bị từ chối.
Trong
bốn năm, từ 1975 đến 1979, ngoài việc vẫn gửi tiền, Reuters tìm đủ cách để giúp
Đình, nhưng cuộc sống của anh ngày càng khó khăn. Năm 1979, Bộ Trưởng Di Trú Úc
viết cho Reuters, nói đã chấp thuận cho Đình sang Úc, như một trường hợp đặc
biệt, vì anh đã làm một việc phi thường đối vói các ký giả Úc trong vụ tấn công
1968 ở Sài Gòn. Trước khi được rời Sài Gòn đi Bangkok vào tháng Năm 1980, anh
còn bị công an vặn hỏi “Đã làm gì cho Úc, tại sao được đối xử đặc biệt?” Từ
Bangkok đến Sydney, Đình đã được sứ quán Úc và các đồng nghiệp cũ ở Reuters đón
tiếp và giúp đỡ tận tình, kể cả kiếm việc cho anh ở Úc. Anh ghi nhận: “Dinh and
family born again second time by Reuter in Australia”, Đình và gia đình đã tái
sinh lần thứ nhì bởi Reuter tại Úc.
Hugh Lunn viết trong VIETNAM:
A Reporter’s War: Khi tôi gặp Đình ở Sydney, có một câu mà tôi muốn hỏi anh
đến chết được: Làm thế nào anh đã biết vụ tấn công Tết sẽ khởi sự vào đêm tháng
Giêng đó năm 1968? Anh trả lời rằng nguồn tin đó từ một nhà báo Việt Nam làm
cho một tuần báo lớn nhất của Mỹ. Ông ta và Đình thường hay nói truyện trên lối
đi bên ngoài Reuters.
Đình
nhớ lại là đã được biết chỉ mấy giờ trước khi vụ tấn công bắt đầu. “Ông ta nhìn
thấy tôi lúc 7 giờ chiều trên đường phố và nói: ‘Này Đình, có chuyện cho tin
lớn sẩy ra đêm nay. Anh sẵn sàng chưa? Và tôi tin ông ta vì tôi biết ông ta có
nguồn VC tốt. Ổng nói sẩy ra sau nửa đêm và chỉ có Việt Cộng đánh ở Sài Gòn.
Tôi nói: ‘Khủng bố, bom, hoả tiễn?’ và ổng nói: ‘Không, hơn thế nữa’, rồi bước
đi.
Sau khi
Sài Gòn sụp đổ, Đình biết được tại sao bạn anh biết nhiều thế, và tại sao đã
biết chính xác như thế. Ông ta sinh ra ở miền nam và sống ở đó, mặc dầu cha ông
ta đã chọn tập kết ra Bắc khi Hiệp Định Genève chia đôi đất nước năm 1954 thành
hai vùng cộng sản và không cộng sản; một chỉ dấu đáng lẽ CIA phải biết. Người
bạn của Đình khởi đầu làm cho cơ quan thông tấn nhà nước VTX, ở đấy ông ta làm
việc rất khá nên được gửi sang Mỹ học đại học về báo chí. Năm 1960 trở về làm
phóng viên cho Reuters, rồi chẳng bao lâu được tiếng là người rất có khả năng.
Chính ông ta đã dậy Đình nghề làm báo, bấy giờ, Đình khởi sự công việc ở văn
phòng như một người đưa thư.
Năm
1965, trong khi Đình trở thành một nhà báo giỏi, một trưởng phòng Reuter cho
người bạn của anh nghỉ việc, nói rằng bài viết của ông ta đọc rất giống Radio
Hà Nội. Dầu sao, nhờ tiếng tốt, người ký giả này vẫn làm ăn khá như một phóng
viên tự do, cho đến khi kiếm được việc tại tạp chí Mỹ. Ông ta nổi tiếng vì
những hiểu biết về chính trị và quân sự, và có nguồn tốt. Đình thường than
phiền, có lẽ với một chút ganh tị, là những ký giả ghé qua thường tạt vào văn phòng
Reuter hỏi anh xem có biết người ký giả kia ở đâu không. Họ nói: “Tôi muốn ăn
tối với ông ta”. “Hầu hết ký giả lớn của Mỹ phụ trách về chiến tranh trong thập
niên 1960 biết rõ về ông ta”, theo Đình.
Ký giả
này còn rất thân thiết với Tướng Ngô Du, tổng quản trị hành quân của Bộ Tham
Mưu Liên Quân và là bạn thân của Bác sĩ Trần Kim Tuyến, cơ quan tình bào trung
ương Việt Nam.
“Tất cả
tướng lãnh quân lực VNCH đều là bạn ông ta”, Đình nói, giận dữ đập tay lên bàn.
“Tất cả các tư lệnh quân đoàn, tổng tham mưu liên quân, ông ta biết mọi chuyện.
Ngay cả toà đại sứ Mỹ. Ông ta có thể tới đó rất nhanh nếu muốn, bất cứ lúc nào.
Ông ta gặp các tướng bất cứ giờ nào ông muốn. Và một số tướng lãnh Việt Nam, kể
cả tư lệnh hành quân cấp cao, có thể gọi ông ta để hỏi ý kiến: ‘Quân ta di
chuyển theo hướng này, bản đồ này, cái này và cái này’. Và ông ta có thể tới
tổng tham mưu liên quân”.
Đình
nói sĩ quan quân lực VNCH muốn giúp ký giả này vì họ làm việc cho Hoa Kỳ và muốn
“vận động tốt” ở phía Hoa Kỳ.
Khoảng
một năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, Đình gặp người bạn này trong một tiệm uống cà
phê ở Sài Gòn. Đình ngạc nhiên gặp ông ta vì một tháng trước đó, vợ và bốn con
ông ta đã được tờ báo ông ta làm việc cho di tản sang Mỹ. Tuy nhiên, họ đã trở
lại Sài Gòn trong vòng sáu tháng. Ông ta nói với Đình là ông đã cho gia đình
sang Mỹ vì “lo trúng đạn pháo kích ở Sài Gòn”, nhưng Đình cảm thấy là ông ta đã
“chơi game” với CIA. Anh nói, họ đã trở về qua ngả Moscow, Bắc Kinh, và Hà Nội.
Hỏi tại sao đã cho vợ con trở về trong khi rất nhiều người muốn ra đi, ông đã
trả lời: “Tôi không muốn bọn trẻ trở thành Mỹ Con”.
Rồi
Đình hỏi thẳng có phải ông ta là Việt Cộng trong thời gian chiến tranh. Ông đã
không trả lời trực tiếp, nói rằng: “À, vài người cũng nói với tôi như thế, anh
nghĩ thế nào?” và Đình nói, “Đương nhiên anh là một Việt Cộng”. Và bạn anh
cười.
Sau đó,
ông ta mời Đình tới nhà ông ở Sài Gòn, và Đình ngạc nhiên được biết đó là một
căn nhà sang trọng từng là nhà của toà đại sứ Anh. Bây giờ Đình biết rằng anh
đang cùng với một nhân vật rất quan trọng.
Ông ta
nói với Đình: “Rất nhiều tin đồn nói tôi là Việt Cộng. Tôi không bao giờ chối
hay nhận điều đó. Bây giờ tôi cho anh xem một tạp chí”. Rồi ông ta mở két bằng
một chìa khoá, khiến Đình không bao giờ hết ngạc nhiên, đưa ra một tấm hình ông
ta trong một tạp chí miền Bắc – chụp với Hồ Chí Minh. Chú thích viết: “Đồng chí
[tên ông ta] với Bác Hồ”. Thời gian là 1969, năm sau cuộc tấn công Tết, trong
khi ông ta vẫn làm việc như một phóng viên ở Sài Gòn.
“Vậy là
ông ta đã xác nhận ông là Việt Cộng với quân hàm đại tá”, Đình nói. “Tôi ngạc
nhiên. Và cũng ngạc nhiên là người phụ nữ nhiều lần tới kiếm ông ta tại văn
phòng là thiếu tá Việt Cộng, ổng nói “sĩ quan liên lạc” của ông.
Với ánh
mắt bỗng nhiên bốc lửa, Đình nói: “Làm thế nào Mỹ có thể thắng trận? Làm thế
nào quân lực VNCH thắng trận? CIA đã làm gì? Một vài chuyện tham nhũng, chợ
đen? Ông ta là người vô cùng quan trọng trong chiến tranh cho VC. Bất cứ chuyện
gì ông ta có, tất cả thông tin ông ta đều có thể cho VC, nhưng, quan trọng hơn,
ông ta có thể cung cấp thông tin cho những ký giả Mỹ chống chiến tranh Việt
Nam”.
Đình
nói rằng chắc chắn ông ta đã cung cấp tin tức cho Đại Sứ Quán Mỹ, “và không
phải là tin tốt”.
Chỉ có
một lý do khả dĩ tại sao người bạn của Đình đã đồng ý cho vợ con di tản sang Mỹ
trước khi Sài Gòn sụp đổ là “để bỉ mặt (bullshit) CIA – ngoài ra tại sao Việt
Cộng muốn đi Mỹ?”
Có lẽ
điều nói nhiều về sự nhiêu khê của chiến tranh Việt Nam là, cuối cùng, không
phải chính quyền Úc hay ảnh hưởng của Reuters đã đem người ký giả trung thành
tên Đình ra khỏi Việt Nam mà là đại tá Việt Cộng này, người đã “bảo đảm” cho
bạn và cũng là một học trò báo chí của ông ta, và dùng ảnh hưởng của mình để
kiếm cho anh được hộ chiếu. Đình nhận định, Vì ông ta làm việc với tôi đã lâu,
ông biết tôi không thân Mỹ, không thân cộng. Tôi chỉ tường trình. Tôi không làm
gì trong chiến tranh”. Vì sự giúp đỡ này, Đình muốn không nêu rõ tên của ký giả
này cũng như tạp chí của ông ta.
Gần ba
chục năm sau, trong Website chính thức của mình, Hugh Lunn tiết lộ như dưới
đây:
Bí mật về điệp viên Việt Nam từ 1980 bây giờ được tiết lộ năm
2014
Cuốn sách của tôi Vietnam:
A Reporter’s War (xuất bản
lần đầu năm 1985 và vẫn còn đang được ấn hành) kể một câu truyện về tôi và
người bạn Phạm Ngọc Đình. Trong cuốn sách Đình tiết lộ rằng người bạn nhà báo
tại Sài Gòn của anh là Phạm Xuân Ẩn, một thông tín viên cho Tạp chí TIME từ
1966 đến hết Chiến Tranh năm 1975, toàn thời gian này là một Đại Tá Việt Cộng
(sau chiến tranh ông ta đã được thăng Tướng). Ẩn đã tự tiết lộ cho Đình biết
ông ta là một điệp viên vào hôm trước ngày Đình rời khỏi Việt Nam (với dự giúp
đỡ của Ẩn) vào năm 1980 – và Đình đã nói tất cả với tôi để tôi viết sách. Nhưng anh đã yêu cầu tôi giữ lại
một phần bí mật của cuộc phỏng vấn cho đến sau cái chết của anh và của Đại Tá
Ẩn. Vì thế, đây là điều không có trong sách của tôi:
Đình
nói Đại Tá Ẩn đã mời Đình tới nhà của ông vào một hôm năm 1980 (năm năm sau khi
Chiến Tranh chấm dứt) để xin giúp đỡ. Ẩn nói với Đình: “Khi ra khỏi nước anh cố
gắng liên lạc với Robert Shaplen của báo New Yorker; Beverly Deepe của
Newsweek; Anthony Lawrence của BBC, và nhà báo Mỹ Neil Sheehan và yêu cầu họ tìm
ra một cách để mang tôi và gia đình ra đi”. Đình hỏi làm cách nào họ có thể làm
điều đó và Ẩn trả lời: “Gặp tôi trên biển”.
Đình
nói anh suy đoán rằng Ẩn đã đau khổ vì thiếu thực phẩm và trường học cho các
con ông ta “và ông ta cảm thấy có lỗi vì đã mang trở về vợ và bốn con đã được
tạp chí TIME lo cho di tản từ Sài Gòn sang New York năm tháng trước”. Đình nói:
“Ẩn là người đã bảo đảm cho tôi rời Việt Nam. Ông ta chứng tỏ ông có thể bảo
đảm cho tôi đi và bây giờ ông ấy chờ đợi tôi trả ơn”. Nhưng Đình quyết định
không hành động như một tay sai của Đại Tá Ẩn và nói anh không bao giờ liên lạc
với các ký giả đó trong khi anh và hai con trai nhỏ muốn bắt đầu trở lại ở Úc.
Anh ta lo “từ cả hai phía” – “Cộng Sản Việt Nam hay CIA” (4).
***
Từ
những gì đã trình bầy trong cả phần I và phần II, có thể đi tới vài ba nhận xét
thú vị:
Trước
hết, tìm bắt sự thật là điều rất khó. Ngay cả nhân chứng có mặt khi sự việc xẩy
ra, cũng không biết tất cả sự thật. Hugh Lunn nói Việt Cộng chiếm năm trong sáu
tầng toà đại sứ. Don North và Peter Arnett nói VC chiếm tầng dưới cùng. E.
Allan Wendt ở bên trong toà nhà từ đầu đến cuối, nói VC chỉ ở ngoài khuôn viên,
không tên nào vào được toà nhà chính. Người mù sờ voi, dĩ nhiên chỉ biết được
một phần. Người sáng xem voi cũng chưa chắc đã nhìn thấy tất cả.
Thứ nhì
là cuộc đời hai người họ Phạm: Hai người cùng họ, cùng là công dân VNCH, cùng
làm với ký giả ngoại quốc, cùng được đồng nghiệp quý mến, cùng một thời làm cho
Reuters, cùng quen biết nhiều trong chính quyền, cùng rất yêu nghề làm báo,
cùng cho vợ con đi trước vào tháng Tư 1975. Khác biệt rõ ràng: Một người ít
học, kém ngoại ngữ, “number one anti-communist”, thi hành nhiệm vụ quân dịch
với cấp bậc binh nhì; một người học cao hơn, giỏi ngoại ngữ, làm gián điệp cho
cộng sản, mang quân hàm đại tá rồi lên tướng. Đầu đời, người ít học học người
học cao. Cả đời người học cao làm tay sai cho cộng sản, luôn sống thấp thỏm sợ
bị bắt, hành động theo chỉ thị trên, chấp hành cả những quyết định đưa tới
thiệt hại nhân mạng và tài sản cho dân, trong khi người ít học sống thẳng thắn,
không sợ hiểm nguy, hành động theo lương tâm mình. Cuối đời người học cao cầu
cứu người ít học; đã một lần phản bội miền Nam theo miền Bắc, giờ lại định phản
bội miền Bắc ra đi, nhưng người ít học không chịu làm trái lương tâm. Giữa hai
cách lựa chọn lối sống của mình, ai sáng dạ hơn ai?
Thứ ba,
năm Mậu Thân, 17 trong số 19 đặc công VC tấn công Toà Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn đã
thiệt mạng, 2 người bị bắt làm tù bình. Trước Tết Bính Thân, Tổng Bí Thư mới
được tái cử Nguyễn Phú Trọng, sinh năm Giáp Thân (1944), trong dịp gặp các nhân
sĩ trí thức văn nghệ sĩ dịp tất niên, đã khoe thành tích lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản VN, khoe ông được Tổng Thống Mỹ tiếp tại Nhà Trắng. Đồng thời, tiệm ăn
nhanh McDonald của Mỹ mở thêm nhà hàng thứ tám tại Sài Gòn. Trong khi ấy, Đại
Sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius sắm Tết và chúc Tết bằng tiếng Việt, tuyên bố ăn
Tết tại quê hương thứ nhì của ông là Hà Nội. Thân nhân của những người hy sinh
năm Mậu Thân nghĩ gì về những cái chết này?
VC hy
sinh trong vụ tấn công Đại Sứ Quán Mỹ
TBT Trọng được tiếp tại Bạch Ốc
Đinh Từ Thức
nguồn: Da Màu
———————-
Vũ Thất
No comments:
Post a Comment