Sách của tác giả Mỹ
Monique Brinson Demery kể về cuộc đời bà Nhu từ một tiểu thư trở thành người
đàn bà quyền lực và kết thúc trong cảnh cô liêu nơi xứ người.
Đây là lần đầu tiên sách Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền
lực Bà Rồng - về cuộc đời bà Trần Lệ Xuân (bà Nhu, 1924-2011) - ra mắt ở Việt Nam. Bà
là vợ của ông Ngô Đình Nhu, cố vấn chính quyền ở miền nam Việt Nam trước đây.
Sách được dịch giả Mai Sơn chuyển ngữ từ tác phẩm đầu tay của
tác giả Mỹ Monique Brinson Demery. Tên tiếng Anh của sách là Finding
the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam's Madame Nhu. Sách được Nhà xuất
bản PublicAffairs phát hành vào tháng 5/2013. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên về
chân dung bà Trần Lệ Xuân phát hành trên thế giới.
Dịch giả Mai Sơn cho biết ông rất vui khi ấn phẩm ra mắt bạn đọc
trong nước: "Trong quá trình dịch, tôi thầm cảm phục và ngưỡng mộ bà
Trần Lệ Xuân. Bà là người phụ nữ nhỏ bé bị ném vào những biến động lịch sử của
dân tộc và đã góp phần quan trọng tạo nên một bi kịch lớn, không chỉ cho gia
đình mình mà còn cho cả một thời cuộc. Cuốn sách này đối với nhiều độc giả có
thể còn là một luồng sáng xua tan nhiều điều không đúng và chuyện thêu dệt
quanh cuộc đời bà Nhu".
Bìa sách về chân dung bà Trần Lệ Xuân. Sách do Công ty
Sách Phương Nam liên kết với Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn ấn hành.
|
"Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền lực Bà Rồng" dày 360
trang, gồm 16 chương, phản ánh những diễn biến chính trong cuộc đời bà Trần Lệ
Xuân từ lúc bà sinh ra từ năm 1924 đến khi bước vào cuộc sống lưu vong.
Bà Trần Lệ Xuân sinh ra khi mẹ bà 14 tuổi. Mẹ bà thuộc dòng dõi
hoàng gia quyền quý (công chúa Nam Trân) và cha xuất thân từ gia đình địa chủ
quyền thế họ Trần. Ở chương bốn mang tên "Chân dung một tiểu thư",
sách kể về giai đoạn bà Nhu lớn lên và trưởng thành tại Hà Nội sau bảy năm ở
vùng thôn quê miền Nam với việc: "... học một ngôi trường Pháp cùng với
trẻ em Pháp và nói tiếng Pháp với cha mẹ ở nhà…".
Chân dung bà Trần Lệ Xuân trong trang phục cô dâu năm
1943. Bà qua đời năm 2011 tại Rome, Italy, thọ 87 tuổi. Ảnh
trích từ sách "Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền lực Bà Rồng".
|
Bà Trần Lệ Xuân gặp ông Ngô Đình Nhu vào năm 1940 khi ông gần 30
tuổi còn bà ở tuổi 15. "… Họ đã gặp nhau trong khu vườn nhà ông Chương
(ông Trần Văn Chương - bố bà Trần Lệ Xuân) ở Hà Nội. Ông Nhu vừa trở về Việt
Nam sau gần một thập niên học hành ở Pháp…". Mãi cuối đời, bà bộc bạch:
"Tôi chưa từng có một tình yêu ngọt ngào" và thẳng thắn thừa nhận
rằng cuộc hôn nhân của bà với ông Nhu là một vấn đề thực tế, không phải chuyện
yêu đương lãng mạn.
Ở chương bảy mang tên "Một nơi ẩn lánh trên núi", bà
Trần Lệ Xuân tâm sự: "Tôi cô đơn trong hầu hết thời gian". Đây là lời
tâm sự bà dành nói về cuộc hôn nhân với ông Nhu trong giai đoạn ông đang xây
dựng nền tảng chính trị của mình trong khoảng thời gian ở Đà Lạt từ năm 1947
đến 1954.
Lần lượt qua các chương như "Những tấm da cọp",
"Những nhà sư tự thiêu", "Cửa đóng", "Đảo chính",
"Lưu vong"..., độc giả được tiếp cận với nhiều chi tiết, nhiều tư
liệu lịch sử xoay quanh cuộc đời người phụ nữ để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch
sử cận đại Việt Nam.
Tác giả Monique Brinson Demery tốt nghiệp Đại học Hobart và
William Smith, sau đó lấy bằng Thạc sĩ về Đông Á học tại Đại học Harvard vào
năm 2003. Hiện bà sống ở thành phố Chicago, bang Illinois, Mỹ.
Monique Brinson Demery từng tham gia khóa học tại Hà Nội vào năm
1997 trong chương trình du học của Đại học Hobart và William Smith. Cuộc phỏng
vấn đầu tiên của Demery với bà Nhu diễn ra vào năm 2005. Đây cũng là lần đầu
tiên bà Nhu tiếp xúc lại với báo chí phương Tây sau gần 20 năm chọn cách im
lặng.
Bà Trần Lệ Xuân trên bìa tạp chí Time.
|
Về tác phẩm của Monique, Robert K. Brigham, Shirley Ecker Boskey
- giáo sư khoa Lịch sử và Quan hệ Quốc tế Đại học Vassar - nhận xét: "Cuốn
sách thật sự là thành tích đáng được ghi nhận và khen ngợi. Demery đã sinh động
nắm bắt được bối cảnh không gian và thời gian xoay quanh chân dung của một
trong những nhân vật có cá tính hấp dẫn nhất Việt Nam".
nguồn: vnexpress.net
Hoàng Long Phu Nhân
Hoàng Hải Thủy
Tôi viết bài này căn cứ trên những trang sách “Finding
The Dragon Lady” của Nữ tác giả Monique Brinson Demery. Sách phát hành
Tháng 9 năm 2013. Đây là những hàng chữ trên bìa sách và trang 1 của
sách:
Finding The Dragon Lady, The Mystery of
Vietnam’s, Madame Nhu
Tìm Long Phu Nhân, Bí mật của Việt Nam, Bà Nhu.
Tôi thấy cái tít “Tìm Bà Rồng “nôm na, sống sượng, “Tìm Long Phu
Nhân “cũng không khá hơn, tôi tạm để tên bài viết này là “Hoàng Long
Phu Nhân.” Cái tít có vẻ như tên phim võ hiệp Tài Oăn, nhưng tôi không
tìm được cái tên nào hay hơn. Bốn tấm ảnh đi theo bài này lấy trong sách “Finding
The Dragon Lady” của bà Monique Brinson Demery.
Finding The Dragon Lady 260 trang. Trong bài viết này tôi chỉ trích những sự kiện
về đời công, đời tư bà Trần Lệ Xuân mà tôi chưa từng đọc, chưa từng biết. Tôi
muốn tìm trong Finding The Dragon Lady những chứng cứ bà Trần
Lệ Xuân có “ngoại tình” hay không, bà có “yêu” ai không.
David Halberstam, ký giả nổi tiếng của Mỹ, tác giả
sách The Best and The Brightest, từng sống, làm việc ở Sài Gòn
những năm 1960, 1962, viết về bà Trần Lệ Xuân:
“The beautiful but diabolic sex dictatress.”
Tạm dịch: “Bà Độc tài đẹp nhưng dzâm quái quỉ.”
Ký giả Mỹ Malcolm Brownw, hành nghiệp ở Sài Gòn những năm 1960,
viết về bà Trần Lệ Xuân:
“The most dangerous enemy a man can have.”
Tạm dịch: “Kẻ thù nguy hiểm nhất mà đàn ông có thể có.”
Bà Demery kể bà ra đời năm 1976. Như có duyên nghiệp với Quốc
Gia Việt Nam Cộng Hoà và với riêng bà Trần Lệ Xuân, ngay từ năm 10 tuổi, bà đã
chú ý đến Việt Nam và bà Trần Lệ Xuân. Bà kể năm bà 10 tuổi, bà lén mở quyển
sách ảnh Vietnam’s War của thân phụ bà. Trong sách bà thấy ảnh
“Ông sĩ quan kề súng vào mang tai anh Việt Cộng, ông Sư tẩm xăng tự thiêu, em
gái nhỏ bị bom napalm trần truồng chạy trên đường..vv..” Khi mới lên đại học,
bà đã biểu lộ ý muốn nghiên cứu về Việt Nam. Bà kể ông bố của bà nói:
“Bố phải mất 20 năm tuổi trẻ của bố để tránh không đến
Việt Nam, Nay con gái của bố lại muốn đến Việt Nam.”
Năm 1997 lần thứ nhất bà Demery đến Việt Nam. Bà được học bổng
đến học ba tháng ở nơi bà gọi là Vietnamese Advanced Institute ở Hà Nội. Bà kể
khóa học này toàn chuyện vớ vẩn, không giúp cho bà biết gì thêm về nước Việt
Nam và người Việt Nam, Năm 2003 bà Demery, sống ở Chicago, tìm cách phỏng vấn
bà Trần Lệ Xuân. Bà Demery kể:
Finding The Dragon Lady. Trang 1.
“Paris 2005.
Khi tôi bắt đầu tìm hiểu bà Ngô Đình Nhu – lời bà Demery – bà
Nhu đã sống lưu vong hơn bốn mươi năm. Năm 1963 ở đỉnh cao của quyền lực, báo
New York Times gọi bà Đệ Nhất Phu Nhân 39 tuổi của Nam Việt Nam – The
thirty-nine -year old First Lady of South Viet nam – là “người đàn bà quyền lực
nhất Á châu,” bài báo viết bà Nhu giống như Lucrezia Borgia.”
CTHĐ: Lucrece Borgia là người đàn bà đẹp nổi tiếng dâm đãng
trong triều đình La Mã ngày xưa. Chuyện đời của nhân vật Lucrece Borgia được
điện ảnh Âu châu làm thành phim xi-nê nhiều lần.
January 2005 bà Demery đến Paris. Chỉ biết mơ hồ là bà Trần Lệ
Xuân sống trong một toà nhà lầu có cửa sổ nhìn ra thấy Tháp Effel, bà Demery
đến nơi đó. Ở đó bà thấy có 3 toà nhà lầu có cửa sổ mở ra Tháp Effel. Bà Demery
vào một toà nhà. Thần Ký Giả giúp bà: bà vào đúng ngay tòa nhà trong có căn
phòng của người bà đến tìm. Bà viết sẵn một thư gửi bà Ngô Đình Nhu, thư ngỏ ý
muốn được gặp để phỏng vấn, bà tự kể sơ về bà, bà ghi số điện thoại của bà ở Paris,
và số điện thoại nhà bà ở Mỹ, bà đưa phong thư cho bà quản gia toà nhà, nhờ đưa
giúp cho bà Ngô Đình Nhu. Bà quản gia nhận thư để đưa dùm. Như vậy bà Demery
biết bà Nhu ở trong tòa nhà đó. Bà ghi trong sách: Nhà No 24 Avenue de Suffren,
Paris.
Trở về Mỹ, bà Demery gửi ba thư đến địa chỉ bà Lệ Xuân, thư viết
rõ hơn về ý muốn được gặp và phỏng vấn. Vẫn khóng có thư trả lời. Bà Demery lấy
chồng. Một buổi sáng Thứ Bẩy June 2005, khi ông chồng bà Demery còn ngủ nướng,
bà Demery nghe tiếng chuông điện thoại reo. Bà Demery kể:
Finding The Dragon Lady, Trang 41, 42, 43, 44, 44.
“Bonjour, “giọng nói trầm vang lên trong ống nghe. “Madame
Demery?”
Tôi chỉ có thể thốt ra được tiếng “Oui.” Tôi nghẹn thở, tim tôi
đập mạnh. Người gọi tôi có phải là..? Còn là ai nữa! Tôi như đang mơ:
“Thưa bà, có phải bà là bà Nhu? “
Long phu nhân gọi tôi. Một tràng câu hỏi của bà làm tôi choáng
váng:
“Bả có phải là viên chức nhà nước không?”
Không, không. Tôi trả lời.
“Ông chồng bà? Hay ông thân của bà? Một người nào trong gia đình
bà?”
Tôi trả lời là không có người nào trong gia đình tôi làm nhân
viên chính phủ.
“Bà có phải là người được Police mướn, hay bà được New York
Times nhờ?”
Những câu hỏi sẽ làm tôi bất bình nếu là người nào đó hỏi, nhưng
người hỏi tôi là bà Nhu. Tôi thận trọng trả lời bà từng câu. Bà Nhu tỏ ra hài
lòng:
“Bon,” she said definitely, “that is behind us. Good.”
“Bon,” bà nói quyết định,” cho qua. Tốt.”
Bà Nhu đặt ra những điều lệ căn bản. Bà sẽ gọi phone cho tôi. Bà
không cho tôi số phone của bà. Bà sẽ không nói với bất cứ ai ngoài tôi, nếu bà
phone đến mà người khác bắt máy, bà cúp ngay. Bà sẽ không để message lại trên
answering machine của tôi. Tôi nhất nhất tuân phục bà.
Bà nói lời cuối:
“Tôi sẽ phone ba ngày nữa.”
CTHĐ: Nhiều đoạn tôi trích nguyên Anh văn, để quí vị biết Anh
văn dễ hiểu hơn. Nhiều tiếng Anh trong sách của bà Demery tôi không
chuyển được đúng sang tiếng Việt.
Bà Demery kể:
“Từ đó bà Nhu và tôi nói chuyện với nhau qua điện thoại. Tôi
biết bà gọi khi caller ID điện thoại của tôi hiện hàng chữ “Unavailable.”
Chicago đi sau Paris 7 giờ đồng hồ nên khi bà Nhu gọi tôi vào buổi sáng Chicago
là buổi tối ở Paris, và ngược lại, Những lần gọi đầu bà nói với tôi về lịch sử
Việt Nam, về Bà Trưng, Bà Triệu đánh giặc Tầu. Tôi biết bà nói thế để thử tôi,
bà muốn biết về con người tôi. Xen vào chuyện bà kể là những câu bà hỏi về gia
đình tôi, về tôn giáo của tôi, về chuyện tôi biết gì, tôi nghĩ gì về Kinh
Thánh. Có vẻ như bà không hài lòng lắm về những câu trả lời của tôi.
Tôi thấy tôi nên để bà Nhu nói. Cứ để bà nói, bà sẽ nói nhiều,
bà sẽ nói những chuyện riêng năm xưa của bà mà tôi không cần hỏi. Nếu tôi hỏi
bà một câu gì mà bà không ưa, bà cắt đứt ngay cuộc nói chuyện. Như khi tôi hỏi
bà người ta đồn vòi nước bồn rửa mặt và bồn tắm của bà bằng vàng, có thật thế
không? Bà gọi tôi là “nhỏ ngu.” – a silly child – Khi tôi hỏi bà về
chuyện người ta nói bà giam những ông sư và sinh viên trong những chuồng cọp,
bà thản nhiên nói đó là những chuyện bọn Cộng bịa đặt.
Tôi kể với bà Nhu chuyện riêng của tôi: vợ chồng tôi muốn có
con. Buổi sáng hôm tôi thử và biết tôi có thai chỉ vài phút trước cú điện thoại
thứ nhất bà gọi tôi. Bà chào đón nồng nhiệt tin tôi có thai: “Mais
c’est merveilleux! Maaaarvelous..” Tôi nói: “Merci.” Bà nói:
“Chị là thiên thần được gửi đến giúp tôi hoàn thành Hồi Ký của
tôi. Tất cả mọi chuyện về tôi sẽ có trong Hồi Ký.”
Bà không hứa bà sẽ cho tôi đọc Hồi Ký của bà. Tôi bị bà mê hoặc,
bà dẫn dắt tôi, tôi đi theo bà.
Finding The Dragon Lady. Trang 68, 69, 70.
“Chúng ta gặp nhau.” Bà Nhu nói ít ngày sau khi tôi sinh cháu
trai Tommy. Đây là lần thứ nhất bà nói đến chuyện cho tôi gặp bà. Bà bảo tôi
mang Tommy đến Paris. “Được không?” Bà hỏi.
“Thưa được,”
September. Mùa thu Paris. Tôi định đến September tôi sẽ bồng
Tommy sang Paris để bà dì tôi ở Paris và các bạn tôi thấy cháu. Đúng lúc bà Nhu
bảo tôi sang Paris gặp bà, bà còn dặn tôi đem con tôi theo. Bà cho tôi biết nơi
gặp và giờ gặp: 10 giờ sáng ở trước Nhà Thờ Saint Leon, một nhà thờ cách toà
nhà của bà không xa, trong Quận 15. Tôi sẽ đứng với con tôi trong xe nôi dưới
Tựợng Thánh Joseph.
Bà nói:
“Chúng ta sẽ đi vào công viên, vừa đi vừa nói chuyện. Sẽ rất kín
đáo.”
Tôi chờ bà đến 11 giờ. Bà không đến. Khi tôi về nhà bà dì tôi,
có tin bà nhắn tôi trong máy điện thoại. Bà phá lệ không nhắn tin của bà. Bà
nói bà không đến gặp tôi được vì bà đau. Bà sẽ phone cho tôi sau.
Hôm sau bà phone cho tôi. Bà xin lỗi đã sai hẹn. Lần này bà bảo
tôi đến gặp bà ở nhà bà. Tôi đến trước giờ bà hẹn cho tôi gặp, tôi và Tommy chờ
bà hơn một giờ đồng hồ ở phòng khách dưới nhà. Bà không cho tôi lên phòng bà.
Lần thứ hai bà sai hẹn. Lần thứ hai tôi không giận bà.
CTHĐ: Bà Demery trở về Chicago. Bà và bà Trần Lệ Xuân lại tiếp
tục nói chuyện với nhau qua điện thoại. Bà Lệ Xuân nói khi đi khỏi Sài Gòn sang
Mỹ giải độc chính quyền và dân Mỹ bà không mang theo tấm ảnh nào của gia đình
bà. Bà nhớ căn phòng ngủ của bà. Bà Demery liên lạc với nhân viên Thư Viện Tổng
Thống Lyndon B. Johnson. Bà xin được tấm ảnh bà Phó Tổng Thống Johnson – năm
1961 theo Phó Tổng Thống Johnson đến Sài Gòn – được bà Lệ Xuân tiếp và mời xem
những tấm da hổ. Bà Demery gửi tấm ảnh ấy tặng bà Lệ Xuân. Bà Lệ Xuân cảm động
vì tấm ảnh.
Ảnh ghi hình bà Lệ Xuân, bà Johnson, bà Smith em gái TT.
Kennedy, bà vợ ông Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Bốn bà đứng xem bốn hay năm tấm da
hổ đật trên sàn phòng. Nhìn kỹ thấy ở tấm màn che cuối phòng có cái
đầu anh cà chớn thò ra. Phòng ngủ của bà Lệ Xuân, bà chủ đang tiếp quốc
khách, làm sao có anh cà chớn thập thò sau tấm màn? Ảnh có cái giường ngủ.
Không lẽ bà Lệ Xuân bầy thường trực bốn, năm tấm da hổ ngay bên giường ngủ.
Không biết có phải những tấm da hổ ấy là da những con hổ do ông Ngô Đình Nhu
bắn được hay mua làm collection. Những năm 1960 ông Nhu thường vào rừng
săn cọp.
Khi bà Dân biểu Trần Lệ Xuân đưa ra Luật Bảo Vệ Gia Đình: Cấm Ly
Dị, Cấm có Vợ Bé, dư luận cho rằng bà làm luật ấy để ngăn không cho ông Nguyễn
Hữu Châu ly dị bà chị ruột ữu Châ của bà là bà Trần Lệ Chi. Bà Demeri kể bà Lệ
Chi có chồng là Luật sư Nguyễn Hữu Châu, con nhà giầu miền Nam, từng làm luật
sư phụ tá trong văn phòng của Luật sư Trần Văn Chương ở Hà Nội. Chuyện trước
năm 1945.
Bà Lệ Chi sau khi có chồng lại yêu một người Pháp tên là Etienne
Oggeri, một chuyên viên săn bắn voi lấy ngà voi nổi tiếng. Bà Lệ Chi muốn ly dị
chồng để kết hôn với người tình Oggeri. Bà Lệ Xuân làm Luật Cấm Ly Dị để ngăn
bà chị ly dị chồng. Bà Lệ Chi cắt mạch máu cổ tay để tự tử nhưng được cứu sống.
Bà Lệ Xuân không lý gì đến sự sống chết của bà chị. Luật sư Nguyễn Hữu Châu là
Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng chính phủ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Sau khi ông Ngô Đình
Diện lên làm Tổng Thống, ông NH Châu từ chức, sang Pháp và qua đời ở
Pháp. Bà Demeri kể về sau bà Lệ Chi kết hôn với ông Oggeri, hai người
sang sống ở Hoa Kỳ.
Finding The Dragon Lady. Chương 16. Trang 213 đến trang 225.
Bà Nhu và cô con lần lữa ở lại California sau ngày xẩy ra cuộc
đảo chính. Ba người con của bà đã được đưa từ Sài Gòn đến Roma nhưng bà Nhu vẫn
chưa thể sang đó với các con bà. Bà không sao chấp nhận cái tin Tổng Thống
NĐ Diệm và ông chồng bà đã chết, và chuyện nay mấy ông quân nhân đã nắm
chính quyền Nam Việt Nam. Bà Nhu hy vọng chuyện Tổng Thống và ông chồng bà bị
giết là do ông NĐ Nhu đặt ra để lừa đám đảo chính. Khi thấy ảnh TT NĐ Diệm và
ông NĐ Nhu bị bắn chết bà Nhu vẫn không tin đó là ảnh thật.
Ngày 5 Tháng 11, 4 ngày sau cuộc đảo chính, bà NĐ Nhu mở cuộc
họp báo trong một căn phòng khách sạn Beverly Wilshire. Bà mang kính đen, một
chuỗi ngọc trai ở cổ, mặc áo dài Việt Nam đen. Bà nghẹn ngào khi bà đọc bản
tuyên bố bà đã viết sẵn. trong bản tuyên bố này có câu:
“Whoever has the Americans as allies does not need any
enemies.”
“Bất cứ ai có người Mỹ là đồng minh sẽ không cần có kẻ thù.”
Bà cáo buộc Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm về cuộc đảo chính. Bàn
tay nắm chặt tờ giấy lau nước mắt, bà lấy đủ nghị lực để nói lên lời tiên đoán:
“I can predict to you all that the story in Vietnam is only at
its beginning.”
“Tôi có thể nói trước với các vị chuyện về Việt Nam chỉ mới bắt
đầu.”
(.. .. .. )
Bà Nhu bị bối rối về chuyện tiền bạc. Tiền căn phòng của bà
ở khách sạn là 98 đô-la một ngày. Nhật báo New York Times loan tin bà Nhu
đến Hoa Kỳ với số tiền mặt 5.000 đôla, để chi dùng cho 3 tuần lễ bà dự định sẽ
ở Hoa Kỳ. Dư luận đã thổi phồng quá đáng số của cải của ông bà NĐ Nhu. Ông bà
Nhu không có tiền, không có nhà ở ngoại quốc. Ông Allen Chase, một nhà tài
chính, có nhà ở Los Angeles, mời bà Nhu đến ở. Bà Nhu và Lệ Thủy đến. Ông bà
Chase nhường phòng ngủ chính cho mẹ con bà khách, ông bà sang ngủ ở phòng ngủ
dành cho khách.
Tạp chí National Review loan tin trong thời gian này có một số
người Mỹ đến gặp bà Nhu để tính chuyện bà viết Hồi Ký, chuyện làm phim cuộc đời
bà.
Nhưng mọi việc đều quá sớm. Bà Nhu phải rời Hoa Kỳ để sang Roma.
Số tiền bà không trả Khách sạn Beverly Wilshire là 1.000 đô-la.
Ở phi trường Los Angeles, trước khi cùng Lệ Thủy lên phi cơ, bà
Nhu đọc một bản tuyên bố dài. Trong bản văn này có câu:
“Judas bán Chúa Cứu Thế lấy ba mươi đồng tiền bạc, anh em Ngô
Tổng Thống bị bán với giá vài đô-la.”
Lời tiên đoán “Chuyện về Việt Nam mới chỉ bắt đầu..” bà
Nhu nói trước khi rời Hoa Kỳ cũng đúng. Chỉ ba tuần lễ sau ngày TT. Ngô
Đình Diệm bị giết, TT. John F. Kennedy bị bắn chết.
Ngày 24 tháng 11, 1963, từ Roma, bà Nhu gửi một điện tín chia
buồn đến bà Jacqueline Kennedy. Trong điện văn, bà Nhu bầy tỏ cảm tình với bà
Kennedy và các con của bà. Nhưng bà Nhu cũng không thể không gửi vào điện văn
một lời cay đắng: Bà đã phải chịu nỗi đau mất chồng trước bà Kennedy.
“I sympathize the more for I understand that that ordeal might
semm to you more unbearable because of your habitually well-shelterd life.” In
other words, now you see how it feels.”
Finding The Dragon Lady. Coup d’État. Trang 193 đến trang 211. Trích.
Gần một năm trôi qua từ khi tôi – ( bà Demery ) – và bà Nhu ngừng
nói chuyện với nhau qua điện thoại. Nhưng khi bà lại phone cho tôi, vào mùa hạ
2010, cuộc nói chuyện qua phone giữa bà và tôi tiếp tục như không có chuyện gì
xẩy ra. Tôi lại làm theo đúng những gì bà muốn, sự tuân phục bà của tôi làm tôi
ngạc nhiên. Đến lúc đó tôi mới biết, mới thấy là tôi thiếu bà, tôi nhớ bà.
Bây giờ giọng nói của bà Nhu trầm xuống. Đây là giọng nói của bà
già tám mươi tuổi. Bà nói bà bị đau, bà phải chịu giải phẫu ở chân, bà đã đi khỏi
Paris.
“Các con tôi muốn tôi sống gần chúng – bà Nhu nói – Nay tôi ở
Rome. “Bà nói bà đã viết xong Hồi Ký của bà – Memoirs – Bà sẽ gửi Hồi Ký cho
tôi.
Tôi cảm thấy có việc gì không tốt đã xẩy đến với bà. Bà phone
tôi một lần rồi thôi. Ba tháng sau tôi phone đến số phone của bà, người ta cho
tôi biết số phone này đã bị hủy bỏ. Tôi sợ bà qua đời. Ngày ngày tôi theo dõi
trang Obituaries – Ai Tín – trên nhật báo xem có tin về bà Nhu không.
Bà
Trần Lệ Xuân cười lần cuối trong buổi tối Tháng 10 năm 1963 ở Phòng VIP
Phi trường Tân Sơn Nhứt. Người complet-veston đứng sau Bà là Ký Phan
Nghị, phóng viên Nhật báo Ngôn Luận. Trong ảnh này Bà Trần Lệ Xuân đã
đứng lên, áo lạnh và sắc ở tay, để đi ra phi cơ PanAm American.
Nguyên
văn bà Demery viết: Trang 196:
“The
last time we talked, Madame Nhu sounded worse, her voice sandpaper in her
throat. “There are days when I want to close my eyes and go in peace. But
what wakes me up is only the feeling that there is something that have to
do and something I have left to say.”
Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện, Bà Nhu có vẻ yếu, giọng bà
khàn khàn như cổ họng bà bị rát: “Có những ngày tôi muốn nhắm mắt lại và ra đi
trong bình yên. Nhưng cái làm tôi tỉnh lại là cảm nghĩ có cái gì đó tôi phải
làm, có lời tôi phải nói.”
Ý muốn cuối cùng của bà Nhu trước khi chết là viết ra những gì
bà muốn nói; bà nhờ tôi giúp bà nhưng tôi không biết tôi phải làm sao đế giúp
bà.
Ngưng trích Finding
The Dragon Lady.
CTHĐ:
Tôi gặp khó khăn khi viết bài đọc sách này. Tôi xin lỗi đã không viết lại được
sáng, rõ những sự việc trong sách của nữ tác giả Demery. Qua những gì bà Demery
kể tôi thấy trước sau bà Demery không một lần được gặp mặt bà Lệ Xuân. Trong
năm, sáu năm hai bà chỉ nói với nhau qua điện thoại. Hai lần bà Demery từ Mỹ đến
Paris để gặp bà Lệ Xuân nhưng đều không được gặp. Một lần chính bà Lệ Xuân gọi
bà Demery sang Paris.
Finding
The Dragon Lady. Trang 206, 207, 208.
Bà
Nhu gần như tuyệt vọng trong ý muốn đưa ba người con của bà ra khỏi nước sau cuộc
chính biến. Bà gọi phone cho Nữ ký giả Marguerite Higgins. Bà Higgins từng đến
Sài Gòn và kết thân với bà Nhu. Bà Nhu khóc nghẹn nói với bà Higgins:
“Họ đã giết chồng tôi. Tôi sợ họ giết các con tôi.”
Bà Higgins hứa với bà Nhu bà sẽ nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ can thiệp.
Bà Higgins phone ngay cho ông Roger Hilsman, cố vấn thân cận của TT Kennedy và
là Vụ Trưởng Viễn Đông Sự Vụ của Bộ Ngoại Giao Mỹ. Bà phone lúc 2 giờ
sáng:
“Chúc mừng thành công, “– bà Higgins nói – “Anh thấy sao khi hai
bàn tay anh dính máu?”
Ông Hillsman nói:
“Thôi mà, Maggie. Cách mạng là bạo động. Phải có người bị hại.”
Bà Higgins hỏi ông Hillsman về tình trạng và số phận của ba người
con của bà Nhu hiện ở Nam Việt Nam. Lời hỏi này làm ông Hillsman nhớ đến quyền
lực của báo chí truyền thông Mỹ. Ông Hillsman thấy ngay chính phủ Mỹ đã bị mang
tiếng vì cái chết của TT Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu, chính phủ Mỹ
không thể để cho ba người con nhỏ của ông bà Nhu bị giết nốt. Cần phải đưa ngay
ba trẻ nhỏ đó ra khỏi nước.
Fred Flott, nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam , được chỉ định
làm việc đưa con ông bà Nhu ra khỏi nuớc. Tướng Nguyễn Khánh đưa Ngô Đình Trác,
Ngô Đình Quỳnh và Ngô Đình Lệ Quyên trên phi cơ của ông từ Đà Lạt xuống Sài
Gòn. Fred Flott đón anh em Trác ở sân bay Tân Sơn Nhầt, đưa cả ba lên một phi
cơ quân sự Mỹ bay sang Thái Lan. Từ Bangkok, Flott đích thân đưa ba anh em Trác
bay sang Rome. Ba anh em Trác ngồi ghế hạng nhất trên phi cơ Pan American.
Flott kể thái độ anh em Trác rất đàng hoàng, không khóc, không sợ. Flott kể
chuyện:
“Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đến đón cháu ở phi trường. Có khoảng
200 phóng viên chờ đón. Ông Thục tỏ ra có ác cảm với tôi. Tôi nói với ông tôi
được lệnh của Đại Sứ Lodge làm việc này. Ông không cám ơn tôi, ông không nói với
tôi một câu, ông không bắt tay tôi, ông đưa ba cháu ông lên xe, đi mất.”
CTHĐ: Tôi nhắc lại: tôi bị bối rối khi đọc Finding The Dragon Lady. Bà
Demery viết : Bà NgôĐình Nhu gửi bà tập Memoirs – Hồi Ký qua Internet. Rồi bà
được xem tập Diary – Nhật Ký – từ một người Việt Nam sống ở Mỹ.
Finding
The Dragon Lady. Trang 104, 105, 106, 110, 111, 112.
Nguyên
văn: The Diary came to my
attention in August 2010 when James van Thach, a retired US Army captain, got
in touch with me. He was my age, lived in the Bronx, and had found me through a
Google search. Like me, James was interested in the history of the Vietnam War,
particularly the story of Madame Nhu.”
Phỏng dịch: Tập Nhật Ký đến với tôi Tháng Tám 2012 khi James van Thach, một Đại úy hồi hưu quân đội Mỹ liên lạc với tôi. Ông trạc tuổi tôi, sống ở vùng Bronx, ông tìm ra tôi trên trang Google. Giống tôi, James chú ý đến lịch sử Cuộc Chiến Tranh Việt Nam và đặc biệt chú ý đến Bà Nhu.
Phỏng dịch: Tập Nhật Ký đến với tôi Tháng Tám 2012 khi James van Thach, một Đại úy hồi hưu quân đội Mỹ liên lạc với tôi. Ông trạc tuổi tôi, sống ở vùng Bronx, ông tìm ra tôi trên trang Google. Giống tôi, James chú ý đến lịch sử Cuộc Chiến Tranh Việt Nam và đặc biệt chú ý đến Bà Nhu.
Tôi
nghi ngờ khi James cho tôi biết ông ta có quyển Nhật Ký của Bà Nhu. Chuyện năm
mươi năm sau khi viết một tập Nhật ký xuất hiện trong tay một cựu sĩ quan ở New
York là chuyện khó tin. Bà Nhu không một lần nói với tôi về quyển Nhật Ký của
bà.
Nhưng tôi cũng đến nhà ba má James ở Queen. Tôi gặp James ở đây. James không nói, hay không thể nói bằng cách nào ông có quyển Nhật ký của Bà Nhu, ngoài việc ông nói ông có người thân làm công an Nam Việt Nam năm 1963. Nhật ký viết chữ Pháp, James không đọc được. James cho tôi xem Nhật ký ở tiệm cà phê Starbuck. Nhật ký ghi trong một sổ tay, bìa cứng, khoảng 300 trang. Tôi thấy đúng đó là chữ viết của Bà Nhu. Trang đầu ghi năm 1959, trang cuối ghi năm 1963.
(.. .. .. )
Nhưng tôi cũng đến nhà ba má James ở Queen. Tôi gặp James ở đây. James không nói, hay không thể nói bằng cách nào ông có quyển Nhật ký của Bà Nhu, ngoài việc ông nói ông có người thân làm công an Nam Việt Nam năm 1963. Nhật ký viết chữ Pháp, James không đọc được. James cho tôi xem Nhật ký ở tiệm cà phê Starbuck. Nhật ký ghi trong một sổ tay, bìa cứng, khoảng 300 trang. Tôi thấy đúng đó là chữ viết của Bà Nhu. Trang đầu ghi năm 1959, trang cuối ghi năm 1963.
(.. .. .. )
Nguyên
văn Finding The Dragon Lady.
Trích:
3.00 a.m on
November 11, 1960.
Diem had already started negotiating with the coup
plotters. He had promised them a new and different government, and by the
time Madame Nhu arrived in his office, he had even gone on the radio to prclaim
it. “The president is much too sofhearted,” she realized ; someone is going to
have to take charge. Concilliation is a sign of weakness. Just like Diem
had stood strong in the face of the Binh Xuyen mobters, he needed to stand
firm now.
Madame Nhu strode over to Diem. She did not hide her
frustation. In later interviews, she would say that when the preident behaved
like a.child, she wanted to slap him. In her diary, she accused Diem of acting
like a baby. She also wrote, “I am disgusted with him, he has no confidence in
himself and has lowered himselp by talking with the rebels.” One published
account of the confrontation that morning maintains that Madame Nhu
actually did slap the president, hard and across the face, before
grabbing him by his sloping shoulders and shaking him in a fury. But that
sounds like the kind of strory that was embroidered on its way through the café
circuit gossip before it landed in the St. Louis Post Dispatch three years
later.
Even if Madame Nhu did not slap Diem, her words had a
lasting impact. “Keep only the necessary men here to defend the palace.” She
instructed. “Send the rest of them to retake the radio.”
Phỏng dịch: 3 giờ sáng ngày 11 háng 11, 1960.
Ông Diệm đã bắt đầu những thảo luận về những điều kiện điều đình
với nhóm đảo chính. Ông đã hứa với họ sẽ có một chính phủ mới và khác, khi bà
Nhu đi vào văn phòng ông, ông đã tuyên bố trên đài phát thanh về chuyện chính
phủ mới. “Tổng Thống mềm lòng quá,” Bà Nhu thấy thế, phải có người đứng ra chịu
trách nhiệm ở đây. Điều đình là dấu hiệu của yếu kém. Như ông Diệm từng xử sự cứng
rắn với bọn cướp Bình Xuyên,nay ông cũng cần phải tỏ ra cứng rắn.
Bà Nhu rảo bước tới trước ông Diệm. Bà không che dấu sự bực bội.
Trong những cuộc phỏng vấn sau đó, bà có nói rằng khi thấy ông Tổng Thống xử sự
như đứa trẻ, bà muốn tát vào mặt ông. Trong nhật ký của bà, bà kết tội ông Diệm
hành động như đứa trẻ con. Bà cũng viết: “Tôi thấy tởm ông ta, ông ấy không có
tự tin, ông ấy tự hạ thấp khi nói chuyện với bọn phản loạn.” Một bản tường thuật
cuộc đụng độ sáng hôm ấy thuật rõ bà Nhu quả thực đã tát ông Diệm, tát mạnh vào
mặt rồi nắm lấy vai áo ông mà giận dữ lắc mạnh. Nhưng chuyện đó giống loại chuyện
được thêu dệt và truyền đồn ở những tiện cà phê trước khi nó lên trang báo St
Louis Dispatch ba tháng sau.
Ngay cả khi bà Nhu không tát ông Diệm, những lời nói của bà có
hiệu quả lâu dài. “Chỉ giữ số lính cần thiết ở đây để bảo vệ Dinh,” bà ra lệnh.
“Phái số lính còn lại đi chiếm lại đài phát thanh.”
Ngưng trích Finding
The Dragon Lady.
CTHĐ:
Tôi trích đăng nguyên văn chữ Mỹ một số đoạn tôi trích trong tác phẩm của bà
Demery để quí vị độc giả thấy bà Semery thực viết như thế, tôi – CTHĐ – không bịa
chuyện gán cho bà Demery. Trong bài Hoàng Long Phu Nhân số Một đã đăng, tôi có
viết tôi muốn tìm trong tác phẩm của bà Demery những chuyện về bà Trần Lệ Xuân
tôi chưa từng đọc thấy, và nhất là tôi muốn tìm biết bà Trần Lệ Xuân có ngoại
tình, có yêu ai không.
Trong một
đoạn sách Finding The Dragon Lady, tôi thấy bà Demery thuật bà Lệ Xuân ghi về
ông Ngô Đình Nhu:
“I love
him less and less.”
Tôi yêu
ông càng ngày càng ít.
Finding
the Dragon Lady. Trang 224, 225.
Nguyên văn: I love
him less and less.
She even seems to have tasted love briefly in the form of
a few affairs. In the diary she wrote about three men by their initials
only: L, K, and H. The language is vague enough that I have to wonder if she
ever acted on her impulse: “Happily have not met anyone yet who has it all,”
“it” being a desired combination of sinceririty, admiration and adoration – the
qualitiees to match her own. But H seem to have come close, with what she
described as his dynamism and extraordinary way of courting her, though she
doesn’t provide any details other than to say he was a real Don Juan character.
She coyly ask H. “Are you always like thie with women?” and his reply pleases
her to no end: “Do you really think women are like you? I had to cross ocean to
fine you.”
The anonymous H understood Madame Nhu. I rather sympathize
with him, even though I have no idea , beyond the initial, who he was. He loved
Le Xuan, Madame Nhu, because of who she was staggered beautiful, proud,
willful, a woman who would not be consigned to the place that that the men
around her had fenced off for her. She would battle with empire, bandits, and
the forces of history before she was done. She would be in the heart of
the sory, the center of the epic in whitch she was cast, and no one would ever
forget her. She was indeed worth crossing an ocean for, and am glad
that I did..
Phỏng dịch: Tôi viết phỏng dịch vì tôi không thể chuyển sang chữ
Việt đúng những lời trong tác phẩm của bà Demery.
Bà cũng có vẻ đã có yêu trong vài cuộc tình ngắn. Trong nhật ký,
bà viết về ba người đàn ông với chữ thứ nhầt tên của họ: L, K, và H. Lời viết
mơ hồ đủ để tôi nghĩ bà chỉ yêu thoáng qua. Bà viết: “May mắn tôi chưa gặp
ai có đủ cái đó, ““Cái đó “đây là sự dung hợp của chân thành, ngưỡng mộ và thờ
phụng.- những đức tính như bà có. Riêng nhân vật H đến gần mẫu người đó, với những
đức tính bà kể về sự năng động của ông, và lối quyến rũ bà rất đặc biệt của
ông. Bà không viết gì về nhân vật H ngoài lời tả ông là một Don Juan chân
chính. Bà e lệ hỏi ông H: “Anh làm như vậy với tất cả những người đàn bà ư?”
Câu trả lời của ông làm bà hài lòng vô tận: “Nàng cho rằng tất cả đàn bà đều
như nàng ư? Tôi phải qua đại dương để tìm nàng.”
Nhân vật H vô danh hiểu Bà Nhu. Tôi - ( Bà Demery )
– có cảm tình với ông dù tôi không biết gì về ông ngoài chữ H. Ông yêu Lệ Xuân,
bà Nhu, vì bà đẹp ngất, bà
kiêu, bà có ý lực, một người đàn bà không chịu ở trong khung mà đàn ông đã đóng
rào cho nàng. Nàng sẵn sàng chống những đế quốc, chống đạo tặc, chống những sức
mạnh lịch sử trước khi chịu thua. Nàng ở trong tim của câu chuyện, nàng ở trung
tâm vở hùng kịch mà nàng phải đóng một vai, sẽ mãi mãi không ai quên nàng.
Nàng quả thật xứng đáng để người ta vượt biển đến tìm, tôi vui
vì tôi đã làm việc ấy.
Ngưng trích Finding
he Dragon Lady. ngoài l ngoài việc kể ông là một H
Trang 225 trên đây là trang cuối cùng sách Finding The Dragon Lady.
Trang 225 trên đây là trang cuối cùng sách Finding The Dragon Lady.
CTHĐ:
Qua lời kể mơ hồ, rối bời của sách Finding
The Dragon Lady, chắc quí vị cũng như tôi, ta thấy: Quả thực có quyển
Nhật ký của bà Trần Lệ Xuân. Nhật ký được một người lấy trong phòng ngủ của Bà
Nhu và đem sang Mỹ
Nhưng bà Demery không cho ta thấy một cái ảnh nào về quyển Nhật ký, không có trang ảnh chụp trang viết tay của bà Lệ Xuân.
Nhưng bà Demery không cho ta thấy một cái ảnh nào về quyển Nhật ký, không có trang ảnh chụp trang viết tay của bà Lệ Xuân.
Ta thấy
bà Lệ Xuân có yêu một người tên tắt là H. Người này có vẻ là người Âu Mỹ, vì lời
ghi trong Nhật ký: “Tôi phải qua đại dương để tìm nàng.”
Tôi –
CTHĐ – théc méc: “Don Juan H ở đâu mà không đến với Trần Lệ Xuân những năm
1967, 1968? “
She
would be at the heart of David Halberstam, ký giả nổi tiếng của Mỹ, tác
giả sách The Best and The
Brightest, từng sống, làm việc
ở Sài Gòn những năm 1960, 1962, viết về bà Trần Lệ Xuân:
“The
beautiful but diabolic sex dictatress.”
Nữ độc
tài đẹp nhưng Dzâm Quỉ.
David
Halberstam trăm năm hồng lệ trước bà Trần Lệ Xuân. Anh không có dịp thấy người
đàn bà Việt Nam bị anh gọi là “Nữ Dzâm Quỉ “sống thanh tịnh không có tai tiếng
gì trong 40 năm.
Tôi đọc Finding The Dragon Lady của bà Monique Brinson Demery trong
hai đêm, tôi viết bài này trong 8 giờ, mà bài viết không ra làm sao cả. Tôi
không hài lòng với bài viết này.
Năm giờ
chiều Ngày 31 Tháng 10, 2013. Tôi chấm dzứt ở đây.
Hoàng Hải Thủy
Vũ Thất
No comments:
Post a Comment