Phạm Văn Tuấn
1. Cuộc Chiến Tranh 7 Năm và hậu quả
Vào
đầu thế kỷ 18, cả hai nước Pháp và Anh đều tìm cách tranh quyền bá chủ
trên mặt biển. Mỗi nước đều tìm kiếm các liên minh quân sự và bầu không
khí chính trị của châu Âu đã trở nên căng thẳng.
Vào
năm 1740, Đại Đế Frederick của nước Phổ (Prussia) chiếm tỉnh Silesia
của nước Áo, gây nên cuộc chiến tranh Silesia thứ nhất và thứ hai
(1740-48). Nữ Hoàng Maria Teresa của nước Áo bèn tìm cách liên minh với
các nước Pháp, Nga, Thụy Điển và xứ Saxony. Đại Đế Frederick sau khi
liên kết với nước Anh, đã đưa quân chiếm xứ Saxony và cuộc Chiến Tranh 7
Năm (1756-63) bắt đầu. Hậu quả của cuộc chiến tranh này là nước Pháp bị
thất bại, phải ký Hiệp Ước Hòa Bình Paris 1763 (the Peace of Paris).
Nước Pháp phải nhượng toàn thể miền đất Canada và vài hải đảo trong
vùng biển Tây Ấn (West Indies) cho nước Anh và bồi thường cho nước Tây
Ban Nha bằng miền đất Louisiana nằm tại phía tây của giòng sông
Mississippi, trong khi đó nước Anh cũng chiếm được miền đất Florida do
Tây Ban Nha nhường lại. Từ nay, nước Phổ trở nên một cường quốc chính
của châu Âu và nước Anh bắt đầu xây dựng một đế quốc với lãnh thổ có mặt
trời không bao giờ lặn trên đó.
Trong
cuộc Chiến Tranh 7 Năm, các người thuộc địa của Tân Thế Giới đã đứng về
phía mẫu quốc Anh, họ là các dân quân cùng chiến đấu bên cạnh binh lính
Anh mặc áo đỏ. Khi Hiệp Ước Hòa Bình Paris được ký kết vào năm 1763 và
khi nước Anh bắt đầu nhận được miền đất Canada từ nước Pháp và miền đất
Florida từ nước Tây Ban Nha, thì một nhà ngoại giao thâm niên người Pháp
là ông Charles Gravier, tức Bá Tước De Vergennes (Comte de Vergennes)
đã tiên đoán rằng: “các thuộc địa Anh do không còn bị đe dọa tại các
miền biên giới nữa, sẽ không cần sự trợ giúp của mẫu quốc. Khi mẫu quốc
Anh chuyển phí tổn quốc phòng cho các xứ thuộc địa gánh chịu, thì các xứ
này sẽ tuyên bố độc lập… “. Không có lời tiên đoán nào chính xác hơn
câu nói của ông Gravier!
Charles Gravier, Comte de Vergennes
Trận
Chiến Tranh 7 Năm đã làm khô cạn ngân quỹ của Vua George III. Ngay sau
khi đã có Hiệp Ước Hòa Bình, chính quyền Anh bắt đầu giảm bớt quân đội
và cắt đi các chi phí của Hải Quân. Tại Bắc Mỹ, 10,000 binh lính Anh vẫn
còn được duy trì để bảo vệ các xứ thuộc địa khỏi sự quấy phá của các bộ
lạc da đỏ do những người Pháp buôn lông thú xúi dục. Vì lý do này,
chính quyền tại London đã đòi các người thuộc địa Bắc Mỹ phải trả phí
tổn vì sự bảo vệ kể trên. Để có tiền, Quốc Hội Anh đã thông qua Đạo Luật
Đường (the Sugar Act) năm 1764 theo đó, 3 xu thuế được đánh
lên mỗi gallon mật là nguyên liệu làm rượu rum, nhập cảng vào Tân Thế
Giới. Cách đánh thuế này không đặt căn bản trên chính sách mậu dịch mà
chỉ là một cách làm tăng thêm lợi tức. Trước sự bất công này, một nhà
ngoại giao của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ là ông Benjamin Franklin đã qua
nước Anh và đề nghị một giải pháp theo đó nước Anh nên thành lập một
ngân hàng cho các người thuộc địa vay tiền và dùng tiền lời để trả chi
phí cho quân đội Anh trú đóng tại Bắc Mỹ. Nhưng Quốc Hội Anh đã không
lắng nghe lời đề nghị kể trên.
Đạo
Luật Đường tuy được ban ra nhưng đã chỉ mang lại một lợi tức rất nhỏ,
vì thế đạo luật này được sửa đổi vào năm 1764 theo đó các người thuộc
địa phải trả thuế đánh vào các mặt hàng nhập cảng như đường, rượu chát
và các nhu yếu phẩm khác. Để tránh thuế, nạn buôn lậu tại Tân Thế Giới
gia tăng. Các nhân viên quan thuế Anh được lệnh xét hỏi các nhà buôn,
tìm kiếm hàng lậu. Dù vậy, lợi tức do Đạo Luật Đường mang lại vẫn không
đủ nên vào năm 1765, Đạo Luật Tem Thuế (the Stamp Act) được ban hành. Đây là thứ thuế trực thu (direct tax)
đánh vào mọi ấn phẩm của các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, gồm cả báo chí, văn
bản pháp luật, các tập sách mỏng, các cỗ bài… Người dân nào vi phạm đạo
luật này sẽ không được xét xử trước một bồi thẩm đoàn mà sẽ bị lôi ra
trước một tòa án hải quân (admiralty court) là nơi chỉ có một
vị quan tòa ngồi xác định số tiền nộp phạt và vị quan tòa này cũng nhận
được 5 phần trăm tiền hoa hồng của số tiền đóng phạt.
Đạo
Luật Tem Thuế đã gây nên sự phản đối mãnh liệt của các người thuộc địa.
Họ coi đây là một vi phạm trắng trợn vào các quyền lợi của họ. Từ xưa,
họ vẫn tin tưởng vào sự phân quyền giữa nước Anh và các xứ thuộc địa
theo đó, nước Anh chịu trách nhiệm đối với các vấn đề đối ngoại như
tuyên chiến, ký kết hòa bình, điều hành mậu dịch, đối phó với các vấn đề
thổ dân da đỏ và công việc Bưu Chính, còn các xứ thuộc địa bắt chước
đường lối tổ chức chính quyền của mẫu quốc Anh bằng cách thành lập các
hội đồng địa phương để quản trị các vấn đề nội bộ kể cả việc tăng thuế,
duy trì quân đội và luật pháp. Đạo Luật Tem Thuế như vậy đã vi phạm các
quyền lợi của người dân thuộc địa vì họ là thần dân của nước Anh, chịu
thuế mà không có đại diện. Sự việc này là một vi phạm vào nền độc lập
của các hội đồng dân cử địa phương, xen lấn vào nền mậu dịch và kỹ nghệ
của họ, đòi hỏi một thứ thuế bất công và quân đội Anh đóng trên mảnh đất
của họ là để bắt họ phải tuân phục. Tóm lại, đây là một bước trong việc
tước bỏ Tự Do của họ.
2. Sự khác biệt giữa nước Anh và các thuộc địa Bắc Mỹ
Các
người thuộc địa định cư trên miền đất Bắc Mỹ rất quen thuộc với công
việc tham gia vào chính quyền. 12 năm sau khi thị trấn Jamestown được
thành lập tại xứ Virginia, người dân của địa phương này đã lập ra một
hội đồng dân cử, được gọi là Hội Đồng Dân Biểu Burgesses (the House of Burgesses). Vào năm 1620, khi con tầu Mayflower còn đang lênh đênh trên biển cả, các người Pilgrims đã thảo ra “Bản Điều Lệ Mayflower” (the Mayflower Compact).
Tới khi các xứ thuộc địa phát triển, mỗi xứ đều bầu lên một hội đồng
dân cử để bảo vệ và duy trì “tự do” của những người định cư. Các người
Thanh Giáo tới Tân Thế Giới để được tự do tín ngưỡng. Hai xứ Rhode
Island và Maryland đã chủ trương hoàn toàn tự do tôn giáo. Người Cơ Đốc
Giáo (Catholics) an cư tại xứ Maryland. Bên cạnh đó là xứ
Pennsylvania thuộc về người theo đạo Quakers. Người Hòa Lan định cư tại
Amsterdam, nơi mà ngày nay là tiểu bang New York. Nền giáo dục cũng được
dân thuộc địa chú ý. Đại Học Harvard được thành lập năm 1636, chỉ 16
năm sau khi dân Pilgrims đặt chân lên đất liền. Năm 1647, xứ
Massachusetts cung cấp cho dân chúng nền giáo dục tiểu học.
Tại
Tân Thế Giới, đất đai rất rẻ tiền hoặc cho không. Một người dân thường
chỉ cần đi tới vùng biên giới, dựng nên một căn nhà gỗ và khai quang một
mảnh đất, người đó đã trở nên một chủ đất. Một người làm công sau khi
hết thời hạn làm mướn, có thể sở hữu một nông trại. Gỗ rừng nhiều vô kể.
Tại các hải cảng đều có các sân đóng tầu và các kỹ nghệ nhỏ bắt đầu
phát triển: xay ngũ cốc, dệt vải, làm da thuộc và chế tạo các đồ dùng
kim loại. Người dân định cư trên các xứ thuộc địa Bắc Mỹ đều chăm chỉ,
nhiều sáng kiến, biết khai thác các tài nguyên thiên nhiên, nhờ vậy nền
kinh tế của họ phát triển. Các con tầu biển của Bắc Mỹ đã chở hàng hóa
tới bán tại các hải cảng thuộc vùng biển Tây Ấn [West Indies].
Trên
miền đất phía tây của Bắc Mỹ, các người định cư đổ về thung lũng Ohio
và các kẻ đầu cơ đất đai rất bận rộn khai thác miền hoang dã, lấn chiếm
lãnh thổ của người da đỏ địa phương, săn bắn các thú vật có lông, bán
rượu rum cho thổ dân da đỏ và lường gạt họ về lông thú. Các việc lấn đất
của người da trắng vẫn tiếp tục dù cho có Bản Công Bố Năm 1763 (the Proclamation of 1763)
của nước Anh ngăn cấm các người định cư không được mua đất bên ngoài
đường ranh nối nguồn của các giòng sông chảy vào Đại Tây Dương.
Vào
thế kỷ 18, nước Anh còn là một quốc gia do nhiều nhà quý tộc cai trị.
Đây là những người danh giá, xuất thân từ các gia đình quyền quý, được
giáo dục theo một nền văn hóa cao cấp và uyên thâm trong khi đó, người
dân Anh bình thường không có được các cơ hội thăng tiến, họ chấp nhận
địa vị thấp hèn, lệ thuộc, họ phải làm việc cực nhọc, kính trọng cấp
trên và tuân phục các kẻ quyền thế. Nhưng tại Tân Thế Giới, đời sống
khác hẳn. Xã hội của những người thuộc địa mang đặc tính dân chủ. Tại
Bắc Mỹ, đã không có các hầu tước, các nhà quý tộc. Cách thức giao tế tại
nơi này có tính mộc mạc, quê mùa, đơn giản. Miền hoang dã này đã thu
hút những tinh thần độc lập và cuộc sống nơi biên giới nghèo nàn đòi hỏi
ở người khẩn hoang lòng tự tin, cách tự quản trị. Tại xứ thuộc địa, đã
không có các di sản thừa kế, không có các đặc quyền do giòng họ truyền
xuống. Các cơ hội tại Tân Thế Giới làm cho mọi người dân có đầu óc năng
động, tranh đấu, họ không bị giới hạn bởi tập quán cũ, giai cấp xã hội
cũ, họ ưa thích tính đơn giản, tự do, phóng khoáng…
Giữa
xã hội Anh và xã hội thuộc địa đã có rất nhiều khác biệt. Chế độ quý
tộc tại nước Anh đã sống theo nghi thức, quy lệ, phép lịch sự. Các nhà
lãnh đạo Anh đã khinh rẻ thói quê mùa của người dân Bắc Mỹ, từ y phục
thô sơ, lời nói vụng về, tới cử chỉ thiếu lịch sự, thiếu nền giáo dục
cao cấp. Năm 1750, các chính khách của nước Anh tin tưởng rằng Quốc Hội
Anh là đại diện của toàn thể dân tộc Anh, kể cả những người xa xứ, không
bỏ phiếu tại quê nhà. Quốc Hội Anh có toàn quyền đối với các xứ thuộc
địa, có thể đặt ra luật pháp, bắt buộc dân thuộc địa phải tuân phục,
đánh thuế lên loại người dân xa xứ này và ngay cả có quyền giải tán các
hội đồng dân cử của các miền đất mới.
Ngược
lại, các nhà ái quốc Bắc Mỹ của thời đại đó lại không tin tưởng vào
Quốc Hội Anh. Họ cho rằng Quốc Hội Anh phải tôn rọng một số quyền lợi tự
nhiên của con người và họ coi là vô hiệu các hành động nào của Quốc Hội
mang tính cách tước đoạt những quyền lợi tự nhiên đó. Vì thế, Vua nước
Anh và không phải là Quốc Hội Anh, đã là sợi dây kết nối mẫu quốc Anh
với các chính quyền thuộc địa. Các khế ước ban đầu giữa Vua nước Anh và
những người định cư đầu tiên đã cho người dân thuộc địa và con cháu của
họ các quyền lợi về đời sống, tự do và tài sản. Tới khi Quốc Hội Anh tìm
cách tước đoạt đi các quyền lợi này, thì khế ước ban đầu coi như bị hủy
bỏ và người dân xứ thuộc địa Bắc Mỹ không còn phải trung thành với Vua
nước Anh nữa.
Một
khuyết điểm khác của chính quyền Anh thời đó là thiếu hẳn một cơ quan
trung ương quản trị các xứ thuộc địa. Chính quyền hành pháp của nước Anh
lại bị phân hóa giữa nhiều bộ sở và ủy ban, những cơ quan này đã không
hành động nhanh chóng và phối hợp. Bộ Mậu Dịch Anh là cơ quan hiễu rõ
nhất các xứ thuộc địa lại không có quyền quyết định về các đạo luật, các
nghị định áp dụng tại miền Tân Thế Giới, trong khi chính quyền Anh còn
có tham nhũng, hối lộ và các nhà cai trị gửi qua các xứ thuộc địa là
những người không đủ hiểu biết và không có khả năng nắm giữ các chức vụ
khó khăn tại các miền đất mới. Khoảng cách giữa nước Anh và miền Bắc Mỹ
cũng là một trở ngại trong việc thi hành các chính sách thuộc địa.
Edmund Burke đã viết rằng:”sóng biển đã làm cho mệnh lệnh và việc thi
hành mất nhiều tháng”.
Vua George III |
Theo thuyết “Trọng Thương” (the mercantile theory),
các thuộc địa Anh phải tiêu thụ các sản phẩm của nước Anh và được hướng
dẫn sản xuất ra các mặt hàng nào mà nước Anh không làm ra được, rồi
trao đổi sản phẩm tại các hải cảng Anh. Các hội đồng dân cử địa phương
của Bắc Mỹ không được quyền giới hạn việc bán ra các hàng hóa Anh tại
Tân Thế Giới và một loạt các đạo luật mậu dịch (Acts of Trade)
đã giới hạn rất nhiều các cơ hội phát triển của các xứ thuộc địa. Ngoài
ra, tất cả các sản phẩm xuất và nhập cảng vào các xứ thuộc địa Bắc Mỹ
đều phải do các tầu biển Anh chuyên chở.
Đối
với dân thuộc địa Bắc Mỹ, họ rất bất mãn. Sản phẩm nông nghiệp của họ
bán ra nước ngoài đã không đủ để mua vào các loại hàng hóa sản xuất từ
nước Anh. Họ nhận thấy họ bị các nhà buôn Anh bóc lột. Giải pháp của họ
là phải phát triển các cơ sở sản xuất địa phương, chủ trương tự do mậu
dịch. Vào năm 1688, chỉ có vào khoảng 200,000 người sinh sống trên các
xứ thuộc địa của Anh. Vì các nơi định cư còn rải rác, nền kinh tế chưa
phát triển, các xứ thuộc địa đã không tìm cách chống lại các giới hạn
kinh tế của nước Anh. Nhưng vào năm 1770, dân số Bắc Mỹ đã lên tới 1.5
triệu người. Tại 4 xứ thuộc địa Tân Anh Cát Lợi miền bắc, người dân phần
lớn sống bằng nông nghiệp, buôn bán lông thú và đóng tầu biển. Các xứ
thuộc địa miền trung có nhiều sắc dân khác nhau, văn hóa và tôn giáo
khác nhau, kể cả những người mới đến định cư từ nước Đức và từ mạn bắc
xứ Ái Nhĩ Lan, họ chuyên về nông nghiệp nhiều hơn. Người dân của các xứ
thuộc địa phía nam lại sống nhờ thuốc lá, gạo và bông gòn trồng trong
các đồn điền. Chính những đồn điền này đã thuê mướn các dân nô lệ da đen
chở tới từ châu Phi.
Tại
mọi phần đất thuộc địa đều có một hình thức dân chủ đơn giản với mỗi
tỉnh có một hội đồng tỉnh và mỗi xứ thuộc địa có một hội đồng dân cử (assembly)
để thông qua các đạo luật mà xứ thuộc địa áp dụng. Đại biểu của loại
hội đồng dân cử này là các thương gia, các chủ đồn điền giàu có và sự
đại diện được phân phối rộng rãi hơn là tại Quốc Hội của nước Anh.
Theo lý thuyết, mỗi hội đồng dân cử thuộc quyền hành của vị thống đốc thuộc địa (colonial governor) và hội đồng các bộ trưởng (council of ministers)
và những vị này có quyền phủ quyết các đạo luật mới vì quyền lợi của
chính quyền Anh. Nhưng vị thống đốc này lại lãnh lương bổng do hội đồng
dân cử trả và hội đồng này có thể làm khó khăn đối với vị thống đốc khi
họ không đồng ý về một chính sách hay một sự bổ nhiệm nào đó và như vậy,
hội đồng dân cử đã nắm các quyền hành chính trị địa phương.
Thời
gian đã tới khi các người thuộc địa Bắc Mỹ nhận ra rằng họ có thể tự
làm được những gì cần thiết cho họ mà không cần tới sự trợ giúp của
người Anh nữa. Các tự do phát triển kinh tế mà người dân thuộc địa trông
đợi đã vượt qua sự cần thiết bảo vệ các miền đất biên giới tại Bắc Mỹ.
Sự chống đối người Anh theo quy mô lớn tại Tân Thế Giới bắt đầu.
3. Các chống đối ban đầu
Cơ sở đầu tiên chống đối chính quyền Anh là các ủy ban thư tín (committees of correspondence)
đặt tại các thị trấn miền Tân Anh Cát Lợi, nhất là tại thành phố Boston
và do đề nghị của ông Samuel Adams. Các ủy ban này đã khiến cho dân
chúng tại các địa phương khác nhau và xa nhau, liên lạc được với nhau.
Lớp người chống đối kế tiếp là các đại biểu cấp tỉnh (provincial congresses).
Họ đã hội họp với nhau để bàn luận các vấn đề chính quyền địa phương,
bất chấp sự ngăn cấm của các thống đốc người Anh và sau này, khi chính
quyền Anh không được dân chúng địa phương công nhận thì các đại biểu cấp
tỉnh đã đặt ra luật pháp, kiếm ra tiền và tổ chức quân đội.
Khi
Đạo Luật Tem Thuế bị chống đối, một luật sư của xứ Maryland là ông
Daniel Dulany đã viết rằng Quốc Hội Anh có thể đánh thuế thu ngoài (external taxes) lên nền mậu dịch của các xứ thuộc địa, mà không có quyền áp đặt thứ thuế thu trong (internal taxes)
vào dân chúng. Sự phân biệt rõ ràng này rất phổ biến tại Bắc Mỹ thời
đó. Vào tháng 12 năm 1767, một nhân vật chống đối khác là ông John
Dickinson của xứ Pennsylvania cũng viết trong “Các Bức Thư của một Chủ
Trại miền Pennsylvania” (Letters of a Farmer in Pennsylvania)
rằng khi mục đích của thuế vụ để làm thăng tiền nền mậu dịch của nước
Anh, thuế vụ đó được coi là hữu lý nhưng khi các loại thuế chỉ được dùng
để làm tăng lợi tức, các quyền tự trị của các xứ thuộc địa sẽ bị chấm
dứt. Và cũng theo ông Dickinson, bằng cách kiểm soát số tiền trả cho các
thống đốc thuộc địa, các hội đồng dân cử địa phương có thể điều khiển
các thống đốc nhưng khi nước Anh dùng tiền thuế để trả lương cho các
thống đốc thì các vị này sẽ khống chế các hội đồng địa phương.
Khi ông Charles Towshend làm Bộ Trưởng Tài Chính của nước Anh (Chancellor of the British Exchequer),
phải chịu thuế tại Bắc Mỹ là các mặt hàng gồm có chì, sơn, giấy, thủy
tinh và trà. Tại các xứ thuộc địa Bắc Mỹ, hội “Các người con trai của Tự
Do” (the Sons of Liberty) đã tổ chức phản đối các nhân viên
thuế vụ, rồi các nhà buôn đồng ý không nhập cảng mọi hàng hóa của nước
Anh và hội “Các người con gái của Tự Do” (the Daughters of Liberty) kêu gọi mọi người không dùng các sản phẩm của Anh Quốc chẳng hạn như trà, là thứ bị đánh thuế bởi Đạo Luật Townshend.
Các
hành động chống đối đã lên cao điểm vào ngày 21-6-1768, khi nhân viên
quan thuế chiếm giữ chiếc thuyền buồm “Tự Do” (Liberty) của ông John
Hancok, một thương gia của thành phố Boston. Hàng ngàn người tại Boston
đã biểu tình, đe dọa mạng sống của các nhân viên quan thuế, khiến cho
những người này phải bỏ trốn. Khi tin tức về cuộc nổi loạn “Tự Do” lan
tới nước Anh, 4 trung đoàn lính Anh, vào khoảng 4,000 binh sĩ, được điều
động tới Boston để bảo vệ các nhân viên quan thuế.
Sự
khinh rẻ dân thuộc địa của binh lính Anh cùng với các công việc làm
thêm của lớp quân nhân này đã cướp đi công ăn việc làm của người dân lao
động Boston, đã dẫn tới rối loạn. Vào tháng 3 năm 1770, một xáo trộn đã
xẩy ra. Một số người dân Boston đã nhạo báng một nhóm binh lính Anh.
Nhóm này bèn nổ súng, giết chết 5 người. Sự việc này được gọi là “cuộc
tàn sát Boston” (the Boston Massacre), đã gây nên phẫn nộ và dẫn tới những hệ quả về sau.
Tới
năm 1770, cách đánh thuế bởi đạo luật Townshend được vị Thủ Tướng mới
là Lord North xét lại và theo đề nghị của Vua George III, thuế trà vẫn
được duy trì để xác nhận quyền đánh thuế của nước Anh tại các xứ thuộc
địa. Các nhà buôn Bắc Mỹ khi đó đã chấp nhận sự dung hòa này và các
chống đối giảm dần nhưng do nạn buôn lậu, chỉ có 1/10 trà nhập cảng vào
Bắc Mỹ chịu thuế.
Tới năm 1773, Quốc Hội Anh lại ra một đạo luật cho phép Công Ty Đông Ấn của Anh (the British East India Company)
chở trà tới các xứ thuộc địa Bắc Mỹ mà không phải trả thuế cho Anh
Quốc. Công ty này sắp sửa phá sản và đang lưu trữ một số lượng trà tồn
kho rất lớn. Nếu công ty Đông Ấn có được độc quyền bán một mặt hàng, họ
sẽ có các độc quyền khác tại Bắc Mỹ và như vậy, sẽ lấn át nền mậu dịch
địa phương. Vì vậy tại New York và Philadelphia, các con tầu biển Đông
Ấn bị phản đối, không cho bốc hàng lên bờ. Trong khi đó tại bến cảng
Boston, một nhóm dân địa phương đã ăn mặc giả làm thổ dân da đỏ, ném
xuống biển khối lượng trà của công ty Đông Ấn trị giá khoảng 15,000 bảng
Anh. Biến cố này được gọi là “Hành động Trà Boston” (the Boston Party). Đây là một sự kiện lớn nhất, đã gây nên cuộc Chiến Tranh Cách Mạng Hoa Kỳ.
“The Destruction of Tea at Boston Harbor”
Bởi
vì Công Ty Đông Ấn thuộc Anh đã thi hành luật pháp của nước Anh nên sự
kiện kể trên là một cách chống đối của các xứ thuộc địa đối với Vua
George III và Thủ Tướng Lord North. Quốc Hội Anh đã phản ứng lại “hành
động” chống đối tại bến cảng Boston bằng 5 đạo luật trừng phạt 1774,
được các người dân thuộc địa gọi là “Năm Đạo Luật Cố Chấp” (the Five Intolerable Acts). Thứ nhất, Đạo Luật Hải Cảng Boston (the Boston Act)
ra lệnh đóng cửa hải cảng Boston cho đến khi nào Công Ty Đông Ấn được
bồi thường về số trà bị thiệt hại. Bởi vì mậu dịch là một huyết mạch của
thành phố Boston, quyết định này đã ảnh hưởng xấu tới đời sống của mọi
người dân địa phương, kể cả những người vô tội. Thứ hai, Đạo Luật Chính
Quyền Massachusetts (the Massachusetts Government Act) sửa lại
luật của xứ thuộc địa bằng cách xác định là nhà Vua nước Anh mà không
phải là Quốc Hội Anh, có quyền bổ nhiệm Hội Đồng Thống Đốc (the Government’s Council) và giới hạn các buổi họp thành phố còn một lần trong một năm và như vậy, dân địa phương không có quyền tự quản trị nữa.
Đạo luật thứ ba là Luật Quản Trị Tư Pháp (the Impartial Administration of Justice Act)
cho phép một nhân viên người Anh hay một binh lính Anh bị tố cáo trọng
tội, có thể được đưa về nước Anh để xét xử và như vậy bị cáo này không
phải trình diện trước bồi thẩm đoàn thù nghịch của xứ thuộc địa. Thứ tư,
theo Đạo Luật Đóng Quân (the Quartering Act), vị thống đốc
Massachusetts có quyền cho quân đội đồn trú tại các quán rượu hay tòa
nhà nào còn chỗ trống tại Boston. Đạo luật thứ năm không có tính trừng
phạt các xứ thuộc địa mà chỉ nới rộng các biên giới của tỉnh Quebec tới
giòng sông Ohio và dành cho người Cơ Đốc Giáo trong tỉnh đó nền tự do
tôn giáo và sự bảo vệ luật pháp của cả nước Anh lẫn nước Pháp.
Để
giám sát các đạo luật “cố chấp” này, Quốc Hội Anh đã bổ nhiệm Trung
Tướng Thomas Gage, tư lệnh các lực lượng Anh tại Bắc Mỹ, làm thống đốc
xứ Massachusetts. Nếu các xứ thuộc địa Bắc Mỹ chấp nhận 5 đạo luật cố
chấp có tính trừng phạt này, họ sẽ bị mất đi quyền tự quản trị, các hội
đồng dân cử địa phương sẽ mất quyền và sẽ có sự pha trộn hai thứ quyền
hành quân sự và quyền hành dân sự.
Vào
tháng 6 năm 1774, các nhà lãnh đạo chính trị của xứ Massachusetts đã
kêu gọi tất cả các xứ thuộc địa cần phải triệu tập một thứ quốc hội và
yêu cầu các xứ này gửi nhiều đại biểu tới họp. 44 đại biểu đã có mặt tại
Sảnh Đường Carpenters (Carpenters’ Hall) thuộc thành phố
Philadelphia vào ngày 5 tháng 9 năm 1774, rồi sau đó còn có thêm các đại
biểu khác, ngoại trừ xứ Georgia, nâng tổng số lên 56 người. Xứ thuộc
địa Georgia không tham gia vì họ e sợ rằng nếu họ gửi đại biểu đi họp
thì nước Anh sẽ không giúp họ trong việc chống lại bộ lạc da đỏ Creek (the Creek Indians).
Tất cả các đại biểu đã đồng thanh chọn ông Peyton Randolph của xứ
Virginia làm chủ tịch của Quốc Hội Lục Địa đầu tiên, và trong số các đại
biểu ban đầu, có các nhân vật danh tiếng như George Washington, Patrick
Henry, John Jay, John Adams và Samuel Adams.
George Washington
Vào
năm sau, Quốc Hội này còn có Benjamin Franklin và Thomas Jefferson. Hội
họp một cách kín đáo, các đại biểu này đã bác bỏ kế hoạch đề nghị bởi
ông Joseph Galloway của xứ Pennsylvania, theo đó Quốc Hội Lục Địa nên
tìm cách dung hòa chính quyền Anh với nền Tự Do của các xứ thuộc địa.
Trái lại, họ đã bỏ phiếu, đồng thanh chấp nhận một bản tuyên ngôn về các
quyền lợi, gồm có các quyền về đời sống, tự do, tài sản, quyền hội họp,
quyền được xét xử trước một bồi thẩm đoàn. Họ cũng đòi hỏi xét lại các
bất công tích lũy từ năm 1763.
Quốc
Hội đầu tiên của 13 xứ thuộc địa Bắc Mỹ này ngay từ lúc đầu chỉ muốn
xác định các quyền lợi của người dân Tân Thế Giới, giới hạn các quyền
hành của Quốc Hội Anh và đồng lòng với nhau về các chiến thuật đối với 5
đạo luật “cố chấp”. Sau đó, các đại biểu Quốc Hội đồng ý tạm hoãn hội
họp cho tới tháng 5 năm 1775. Chính vào thời gian này, các xung đột lại
gia tăng khiến cho các đại biểu của các xứ thuộc địa phải tổ chức một
chính quyền trung ương và một quân đội lục địa rồi Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ
dần dần thành hình.
Phạm Văn Tuấn
Nam Yết chuyển
No comments:
Post a Comment