John Sifton
Hôm
nay, Tổng thống Barack Obama tiếp một vị khách bất thường tại Nhà
Trắng: Chủ tịch nước Việt Nam, Trương Tấn Sang. Theo Nhà Trắng, trong số
các đề tài nghị sự, sẽ có lĩnh vực
thương mại và bang giao chặt chẽ hơn về an ninh và quốc phòng. Nhân
quyền cũng nằm trong chương trình, nhưng với chính sách “xoay trục” hay
“tái cân bằng” về Châu Á của chính quyền Obama, sẽ có một câu hỏi là
liệu Obama sẽ gây áp lực mạnh đến độ nào với người
lãnh đạo của một nhà nước có hệ thống độc đảng đã cắm rễ bấy lâu.
Việt
Nam có thành tích tệ hại và ngày càng xấu đi về nhân quyền, được đánh
dấu bằng sự đàn áp có hệ thống đối với các quyền tự do ngôn luận, lập
hội và nhóm họp ôn hòa, kiểm duyệt
báo chí và đè nén quyền của người lao động. Do ngày càng cảm thấy bất
an về khả năng nắm giữ quyền lực của mình, Đảng Cộng sản cầm quyền đã
gia tăng đàn áp những người dân lên tiếng chất vấn việc làm của chính
quyền hay kêu gọi bầu cử dân chủ.
Lần
gần đây nhất Nhà Trắng tiếp một lãnh đạo Việt Nam là vào năm 2008. Kể
từ đó đến nay, chính quyền Việt Nam đã bỏ tù ngày càng nhiều những người
bất đồng chính kiến, blogger
và lãnh đạo tôn giáo – những người bị các tòa án do Đảng điều khiển xử
với các mức án tù ngày càng nặng hơn. Số người bị kết án qua các phiên
tòa chính trị trong sáu tháng đầu năm 2013 đã vượt quá tổng số của cả
năm 2012, vốn đã cao hơn con số trong các năm
2011 và 2010.
Điều
tệ hại hơn là, việc đàn áp các nhà bất đồng chính kiến mới chỉ là một
mặt của các vấn đề về nhân quyền ở Việt Nam. Các vi phạm và lạm dụng ở
đó còn bao gồm cả việc công an
tra tấn và làm chết người, tịch thu đất đai không qua một quy trình
pháp lý và đền bù thích hợp, và đàn áp các nhóm tôn giáo tự phát và các
sắc dân thiểu số. Những người đi xe máy tranh cãi với cảnh sát thì bị
đánh. Đất đai của nông dân bị cướp. Những người
dân có tín ngưỡng bị ép buộc từ bỏ tín ngưỡng. Các sắc dân thiểu số bị
đàn áp vì đã tập hợp chống lại nạn kỳ thị. Rất nhiều người Việt Nam là
nạn nhân của tệ bạo hành không có ai kiểm soát này, mang thương tích nếu
cố thách thức nó hoặc bị ép phải câm lặng
chấp nhận.
Chính
quyền Obama biết rõ các vấn đề đó, và cam đoan sẽ nêu vấn đề nhân quyền
trong các cuộc đối thoại với chính quyền Việt Nam. Và sự thực thì đúng
như vậy. Đại sứ quán Hoa Kỳ
tại Hà Nội thường xuyên can thiệp và tạo sức ép với Việt Nam về các vụ
liên quan đến nhân quyền, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có tổ chức đối thoại
nhân quyền thường niên với Việt Nam. Nhà Trắng đã cam kết với các nghị
sĩ Quốc hội và các tổ chức nhân quyền rằng
quan ngại về nhân quyền sẽ được “nêu” trong chuyến thăm này.
Nhưng vẫn chưa rõ là liệu họ có nêu các vấn đề và trường hợp
cụ thể, và có bày tỏ một cách công khai hay không? Trong diễn văn
công khai, liệu Obama có nêu các trường hợp cụ thể, như trường hợp của
nhà bất đồng chính kiến bị kết án Cù Huy Hà Vũ, blogger trực ngôn Nguyễn
Văn Hải (Điếu Cày) và luật sư Lê Quốc Quân,
một người phê bình chính phủ Việt Nam kiên định, hiện đang chờ ra tòa
với tội danh “trốn thuế” ngụy tạo, hay không?
Ngôn
từ mạnh mẽ trong diễn văn của tổng thống là điều rất quan trọng. Vào
tháng Năm năm 2012, Obama đã nhắc tới Nguyễn Văn Hải trong phát biểu vào
Ngày Tự do Báo chí Thế giới,
khen ngợi lòng can đảm của ông bất chấp một “đợt đàn áp rộng khắp nhằm
vào báo chí công dân ở Việt Nam.” Đại sứ quán Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần
nêu quan ngại về Lê Quốc Quân – sự can thiệp này có lẽ là một trong
những nguyên nhân khiến ông được thả trong lần
bị bắt trước đây. Những phát ngôn công khai như vậy có tác dụng như một
thông điệp gửi tới những nhà hoạt động dũng cảm ở Việt Nam rằng thế
giới đang đứng bên cạnh họ, và gây sức ép khiến chính quyền Việt Nam
phải đổi hướng.
Tuy
nhiên, xét đến cùng, chỉ nêu các vấn đề về nhân quyền thôi thì chưa đủ.
Câu hỏi thực chất là liệu chính quyền Obama có sẵn sàng tạo sức ép bền
vững và thực thi các biện pháp
hữu hiệu để giải quyết tình trạng nhân quyền của Việt Nam ở phương diện
rộng lớn hơn hay không. Nếu thất bại trong việc giải quyết vấn đề ở
diện rộng – và đi xa hơn hành động can thiệp trong một số trường hợp cụ
thể - sẽ có nguy cơ gây hiệu ứng ngược khiến
Hà Nội càng dạn dĩ hơn: làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam nghĩ rằng họ
vẫn có thể đạt được điều họ muốn từ phía Hoa Kỳ mà chỉ cần mất câu nói
đầu môi chót lưỡi về nhân quyền mà thôi.
Vào
ngày 24 tháng Bảy, một ngày trước chuyến thăm, một số tổ chức công đoàn
và lao động của Hoa Kỳ đã kêu gọi chính phủ ngừng đàm phán thương mại
về Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP) với Việt Nam cho đến khi các vấn đề chủ chốt về nhân
quyền được giải quyết. Một số nghị sĩ Quốc hội cũng đã yêu cầu Nhà Trắng
cân nhắc khả năng này.
Vài
năm trước đây, chính phủ Mỹ hy vọng rằng việc mở rộng đàm phán thương
mại và đối thoại chiến lược về quân sự sẽ có tác dụng khích lệ chính
quyền Việt Nam thay đổi, và có lẽ
sẽ nới lỏng bớt gọng kìm độc tài. Giờ đây, ta thấy rằng niềm hy vọng đó
đã bị đặt nhầm chỗ.
Rõ
ràng chính sách của Hoa Kỳ cần phải thay đổi – vấn đề là thay đổi như
thế nào. Đã đến lúc Hoa Kỳ cần bắt đầu kết nối quan hệ kinh tế và các
lĩnh vực khác với những cải cách
cụ thể về nhân quyền. Và thông điệp về chính sách này phải được thể
hiện rõ ràng và công khai. Bước đi đầu tiên là Obama cần chỉ thị cho Đại
diện Thương mại Hoa Kỳ nêu công khai các yêu cầu thiết yếu của mình
trong quá trình đàm phán TPP, để những người lao
động và công dân ở Việt Nam – cũng như ở Hoa Kỳ - có thể yên tâm rằng
các quyền cơ bản của người lao động được đảm bảo.
Nhưng
chính quyền Obama cũng nên tự đặt cho mình một câu hỏi cơ bản hơn: Liệu
Hoa Kỳ có nên tiếp tục làm ăn như không có chuyện gì xảy ra với một
chính quyền quốc gia đang hình
sự hóa các hành vi kêu gọi dân chủ và không có biểu hiện gì hướng tới
cải cách hay không?
John Sifton là Giám đốc Vận động Ban Á Châu thuộc
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, tài khoản trên Twitter là: Twitter @johnsifton.
No comments:
Post a Comment