Thursday, October 31, 2019

Tiểu Đĩnh – Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ



Huy hieu LLDNTB 211. TVQ Collection.jpgHuy hieu GD70TB. TVQ Collection.jpgHuy hieu GD72TB.jpgHUY HIEU GIANG DOAN 73 THUY BO..jpgHuy hieu GD74TB.jpgHuy hieu GD75TB..jpg

Anh T. thân mến,

Tuần qua tôi có nhận bức thư không đề ngày của anh thăm hỏi, trong đó anh nêu một vài việc anh muốn biết. Xin cám ơn anh viết bức thư gợi nhớ đến cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến dài nhất thế kỷ trong lịch sử cận đại của nhân loại mà “ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.” Không quên nhưng cũng không lên tiếng vì đa số chúng ta nay đã qua tuổi nhi nhĩ thuận, tuổi nghe ai nói gì, dù đúng hay sai, cũng gật đầu cho là phải rồi yên lặng. Huống hồ tôi nay đã quá cổ lai hi, tuổi với ngày mai có thể không có thật. Thế nhưng, khi anh lên tiếng thì tôi xin theo thứ tự trả lời như sau.Lực lượng Thủy Bộ là một đại đơn vị tổng trừ bị được Bộ TMT tăng phái hành quân cho Quân đoàn 4 và V4CT từ năm 1969, hậu cứ thời bấy giờ đóng tại Trà Nóc, Cần Thơ. Khi tôi nhận đơn vị này vào thời điểm anh nói thì phần lớn các Giang đoàn Thủy bộ đã được tăng phái cho một số tiểu khu trong vùng. Do thế mà ngày tôi đến trình diện TL/V4CT, tướng Nguyễn khoa Nam, để nhận việc, ông yêu cầu tôi gấp rút nghiên cứu rồi trình ông kế hoạch tái lập. Lực Lượng Đặc nhiệm Thủy Bộ như những năm 1969-70. Quyết định của ông cho biết ông dự trù sẽ có những trận đánh lớn trong Quân khu của ông; và đó cũng là để nói lên lòng ông tin tưởng ở khả năng tác chiến của những thủy thủ phục vụ vùng có nhiều sông rạch.

Thời phục vụ các giang đoàn, tôi có tìm hiểu những gì đã làm cho thủy thủ trong sông không chùn chân trước khi đi vào chiến địa. Tôi cho đó là tình yêu thương đất nước quê hương, là tinh thần chiến đấu, là quyết tâm trả thù cho những bạn bè bị ngã gục. Kế đó là tinh thần kỷ luật cao độ cộng với niềm hãnh của người lính trận có truyền thống riêng. Những yếu tố này khiến thủy thủ trong sông tự tin và ngạo nghễ, vừa hào hùng vừa lãn mạn đến mức thành “ba-gai” một cách đáng yêu. Việc bỏ tàu bỏ bạn trong hành quân bị xem là hành vi xấu xa, là một sứt mẻ trầm trọng cho tự ái cá nhân. Tóm lại, người thủy thủ xuất sắc luôn biết sống chết với quê hương, chung thủy với bạn bè, luôn tự tin với tinh thần lạc quan, và biết tự trọng mà bám sông bám biển. Tôi được cái may ở chung đơn vị với nhiều thủy thủ như thế trong những năm tháng vui buồn với cuộc chiến ta không lựa chọn, nhưng chấp nhận tiến hành vì ý chí bảo vệ quê hương gồm gia đình và lối sống tự do của người dân miền Nam cương quyết đứng về phía ta như cuộc chiến Mậu Thân năm 1968 đã chứng tỏ.

Các chiến đĩnh Monitor thao diễn trên sông Sài Gòn (Douglas Pike Photograph Collection)


Từ cuối 1974, chắc anh còn nhớ, chiến sự trên quê hương miền Nam thêm sôi động; binh sĩ và các cấp chỉ huy tại những đơn vị chiến đấu cảm thấy gần nhau hơn bao giờ hết. Những ai trong tác chiến từng thấy binh sĩ của mình chẳng nay bị thương vong, hay chính mình bị ngã tại trận tiền mà còn được chiến tranh tha thứ, máu mình hòa với máu đồng đội thì hiểu rõ điều này. Gần gũi và cùng thích một việc thì ghét nhau. Nhưng gần gũi chung lo một việc thì sinh gắn bó là lẽ thường. Khi còn trong quân ngũ, có đi đâu rồi cũng tìm về, nghĩa là sống chết có nhau.
Sự gắn bó đó vừa xúc tác, vừa hỗ trợ tinh thần của binh sĩ đang tại nhiệm sở địa đầu. Nhiều cây bút quân đội xác đáng cho đó là kỷ luật cần thiết để bảo đảm sự an toàn trong chiến trận, đồng thời còn giúp quân nhân trấn áp được nỗi sợ để giữ phẩm giá của mình trong giờ phút nguy nan cao độ. Phẩm giá này, nếu mất đi, sẽ gây tủi nhục cho thế hệ kế tiếp khi họ bắt đầu biết suy nghĩ.
Nhật báo Người Việt, Nam Cali, (Mục Diễn đàn – B1) ngày 4 tháng 11 năm 1998, có bài Đôi Mắt Người Bị Xử Bắn Trong Rặng Bình Bát của tác giả Nguyễn Bửu Thoại. Trong lời phi lộ, tác giả nói là viết để trả lời cho câu hỏi các con của ông. Câu đó là “Ngày Xưa Ba Đi Lính Đã Làm Gì Mà Phải Bỏ Nước Ra Đi? ”[1]
Với tác giả, tôi có tiếp chuyện. Ông nói có nhiều người cũng đã thắc mắc về nghi vấn nói trên, đồng thời ông còn xác nhận tuổi trẻ, khi thấy tự ái bị xúc phạm thì sẽ có những câu hỏi không ngờ. Riêng tôi xin ý kiến của tác giả bài viết vì thấy câu hỏi các con ông cũng gần giống như câu vấn trong thư anh “Vì sao đa số quân nhân Thủy Bộ bị kẹt lại, không di tản được.” Tôi hiểu câu của anh có đại ý: khi con tàu đất nước sấp bị chìm thì di tản là tốt, kẹt lại là không tốt.” Hai phạm trù này vừa thống nhất vừa đối lập nhau giống như tốt với xấu hay là thiện với ác.
Suy cho cùng, trên đời này chỉ có thiện mà không có ác. Giống như có bóng tối là do thiếu ánh sáng, có màu đen là do thiếu sắc tố, lạnh là do thiếu sự nóng, điều con người gọi là ác chỉ là cái thiện còn bị thiếu sót mà ra. Cái ranh giới giữa thiện và ác như thế quả thật mong manh, vì nếu nói theo Alexandr Soljenitsyne thì đường ranh giới này không chạy ngang các quốc gia mà chạy qua trái tim con người. Hay là giữa thiện và ác có nhiều trăn trở, trong đó lương tâm con người là thẩm quyền quyết định. Ngoài sinh hồn và giác hồn mà tất cả sinh vật khác đều có, con người, còn có linh hồn và lương tâm biết suy xét đúng sai. biết thiện biết ác, và biết thế nào là lòng tự trọng. Ngày đó, sự bỏ nước ra đi hay ở lại cũng đều qui về cái thiện, tức là đời sống con người. Điểm khác nhau giữa hai lựa chọn này là đời sống cho cá nhân hay đời sống cho tập thể, nếu quả có sự lựa chọn đó.
Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hoà tung bay trên các chiến đĩnh ASPB trong ngày thành lập lực lượng thuỷ bộ.


Để sang một bên cái thuần lý chung chung của vấn đề “bị kẹt lại” thì thấy tình hình miền Tây không giống như Sài Gòn. Ở Sài Gòn thời đó có Hạm Đội đi biển như phương tiện qui mô mà người Mỹ cần thu hồi theo chương trình Lend-Lease Act hiệu lực kể từ ngày 11 tháng 3 năm 1941, trong khi miền Tây thì không. Cố Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt ký pháp án này như con lưỡi dao hai lưỡi. Nó đã cho phép Hoa Kỳ chi viện các nước đồng minh giúp Hoa Kỳ chiến thắng Thế chiến 2 để từ đó mà lên ngôi bá chủ cho đến nay. Nó giúp nhiều quốc gia, trong đó có Đệ nhất Công Hòa miền Nam đứng vững từ 1954; và cũng chính nó đã góp phần xóa bỏ nền Cộng Hòa này tháng 11 năm 1963, rồi đến tháng 4 năm 1975 thì nó thành lá bùa hộ mạng cho hơn 30 ngàn đồng bào ta ra khơi chạy nạn chiến tranh. Lý do của điểm sau cùng này là theo nội dung của Lnd-Lease, các chiến hạm Hoa Kỳ chuyển giao cho Việt Nam dùng trong chiến tranh chỉ là cho mượn, khi xong việc thì thu hồi về bằng mọi giá.
Tại Vùng 4 Chiến Thuật vào thời anh nói, nếu để ý sẽ thấy:(1) Dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Quân Đoàn 4, các đơn vị chiến đấu cơ bản (Sư đoàn) thuộc Quân Khu 4 còn nguyên phong độ đến khi có lệnh buông súng, (2) Không một Tư lệnh Sư đoàn nào trực thuộc Quân khu 4 bỏ nhiệm sở mà ngược lại có nhiều vị tướng khác, sau khi cố hết sức mà không giữ được thủ đô bèn tìm về Quân Khu 4, mong giúp lật ngược thế cờ, và (3) Hầu như không một dân thường miền Tây nào bị tử vong hay bị cướp bóc trong ngày định mệnh của đất nước. Quan trọng nhất là không có diễn lại thảm cảnh miền Trung. Tại Vùng 4, cứu cánh này là do lời giao ước của Tư lệnh Quân Khu 4 với người dân miền Nam tự do nói chung và người dân miền Tây nói riêng. Ông quan niệm rằng chiến sĩ tuyến đầu rất cần có một địa phương ổn định mới yên tâm hành quân diệt giặc. Ngược lại, một địa phương muốn được ổn định thì rất cần binh sĩ kỷ luật, hữu hiệu, nương nhau thành một khối, không có bất cứ một hành động nào gây đại họa, kinh hoàng, hay khủng hoảng cho thường dân, đặc biệt vào giờ phút nghiêm trọng nhất.
Nhiều năm hoạt động trong ngành Tâm Lý, chắc anh cũng cho đây là hình thức cố định của tình quân dân cá nước. Khi nghĩ như trên, tướng Nam đã thật sự nắm được nghĩa triết học của chữ SƯ (đoàn) được người xưa diễn dịch bằng quẻ Khảm và quẻ Khôn, tức là quân với dân như Nước với Đất. Bình thường thì nước nằm trong đất. Khi cần thì nước từ lòng đất tung ra dũng mãnh như thác xuyên ghềnh. Xong rồi thì nước chui lại vào đất, yên lặng, ngoài nhìn không thấy. Đó là vì sao khi nhận trách nhiệm vùng 4 chiến thuật, tướng Nam đã đặc biệt chú ý nâng phẩm lượng tác chiến của Nghĩa quân và Địa phương quân tại khấp miền Tây, trong khi quân chính qui thì thành lực lượng trừ bị của vùng.[2]
Anh có thể hỏi nước với đất là tương khắc, sao đứng chung với nhau được. Đúng vậy. Nhưng cái tương khắc đó sẽ được hóa giải bằng đức độ của súy, bằng kỷ luật nghiêm minh của quân đội. Theo luật an toàn vật thể thì đạn và nhiên liêu dễ cháy phải nằm cách nhau từ 200 đến 300 thước, ở giữa có tường ngăn. Nhưng trên chiến hạm, hai thứ này chỉ nằm cách nhau mươi thước là nhiều. Kỷ luật phòng tai trên tàu hóa giải cho mối nguy này. Cho nên trong chiến trận, tướng Nam tin ông nắm được quân và ông rất bình thản mà —trong trường hợp chẳng đặng đừng— đưa kế hoạch của ông hội tụ vào điểm cao nhất, khó thực hiện nhất của lời giao ước nói trên là: Kỷ luật để thắng mình, thắng giặc, và cứu dân lành trong chiến trận.
CAC CHIEN DINH CUA MOT GIANG DOAN THUY BO.
Phải ở cạnh ông trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975 mới thấy ông và vị tướng phụ tá của ông rõ ràng có chuẩn bị thi hành lời giao ước đó từ quan niệm quân đội trách nhiệm bão quốc an dân đến cách điều binh và rồi đi gặp định phận của chính mình. Khác với việc bỏ nước ra đi, theo lời con ông Nguyễn Bửu Thoại, cái kết cuộc của hai ông không phải được thành hình trong một sớm một chiều. Đó cũng không phải để phủ nhận cái định phận tối tăm của những tên lính chì trên một bàn cờ với mục đích mua vui cho ai đó. Nó đã nằm trong tâm nguyện khi hai ông chọn cho mình đời binh nghiệp, trong đó điều tối kỵ là “Mệnh lệnh chí kỳ… ” [3] Cho nên vì tự ái, ông không thể thất hứa rồi quay mặt với từng binh sĩ thuộc quyền, với gia đình của họ, với thân phận các thương bệnh binh trong quân y viện và oan hồn tử sĩ còn tại các nghĩa trang quân đội, điều mà mỗi khi nghĩ đến, người có tấm lòng thường quên ăn mất ngủ.
Từ xưa, tử sĩ thường được nhắc đến bằng những lời thơ thật trân trọng, thanh thoát nhưng cũng thật buồn, vì nghe như vọng lại từ bên trong phần mộ. Lý do tử sĩ đâu màng được truy tặng huân công hay cấp bực. Không ai nỡ nghĩ rằng sự hi sinh của mình tại trận tiền là định giá cho người đời đổi lấy cái vinh quang thường là lắm chuyện. Có ai muốn đời mình sẽ thành mặt trái của những huy chương cho người khác mang trên ngực và cấp bực mới trên vai [4]. Nơi chín suối họ chỉ mong ước quê hương vắng bóng quân thù, và ông bà, cha mẹ, gia đình con cái họ được chăm lo y như khi họ còn sống. Đó là đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam lấy gia đình làm trọng [5], và cũng là một tình cảm rất người, mỗi đồng đội coi đó như món nợ mà người cùng hội phải lo thanh thỏa cho nhau. Do đó, khi chiến trận còn tiếp diễn, danh sách tử sĩ ngày một dài ra. Sau cùng thì khi vận cùng thế kiệt, tướng thủ thành thường tử tiết chính vì món nợ này. Món nợ mà người ở cấp chỉ huy nếu chưa trả thì sẽ còn đó, dù cho có theo dòng định mệnh mà trôi dạt về một không gian và một thời gian khác.
Trong hoàn cảnh đó, nếu quyết định tự kết liễu cuộc đời khó khăn bằng một thì -như tướng Nam (V4CT) và các vị đã thành nhân [6] khác khi cuộc chiến vừa tàn đã nghĩ- sự di tản cho cá nhân mình mà bỏ lại thuộc hạ thì còn khó khăn hơn thế nhiều lần. Ông là một vị tướng còn mang tinh thần võ sĩ đạo cuối cùng thời quá giữa thế kỷ 20. Ngày xưa khi ở quân trường đến bài giảng về uy nghi và lao dịch của đời thủy thủ thì thầy dạy rằng trong chiến đấu trên biển, nếu không may chiến hạm mình bị chìm thì hạm trưởng phải là người di tản sau cùng, nghĩa là ông phải bảo đảm rằng đến lượt ông rời tàu thì trên tàu không còn một ai còn sống sót. Nhưng trong hải chiến, có vị hạm trưởng nào dám đoan chắc rằng trên tàu mình không còn thượng binh bị kẹt đâu đó trong những hầm đã bị hư hại, cửa ra vào bị kẹt không mở được. Do đó mà lương tâm của người được chỉ định chức vụ hạm trưởng đã chọn cái định phận theo tàu của mình rõ ràng là một định lệ bất thành văn. Với Hải Quân Hoàng Gia nước Anh thì cụ thể hơn. Năm 1958, trong một chuyến du hành thực tập trên chiến hạm HMS Chichester của Anh, thấy có vài cuộn dây móc ở nóc phòng lái, tôi hỏi vị sĩ quan người Anh, Thiếu tá Jon Austick, những dây đó để làm gì. Ông nói:” Để hạm trưởng dùng tự buộc ông vào tay lái khi tàu này bị chìm.” Thời đó các nay đã hơn nửa thế kỷ! Sinh lực Hải Quân của họ nằm ở truyền thống hải nghiệp lâu đời nhất trên thế giới này, một truyền thống mà tướng TL/V4CT đã nhìn thấy
Chiều ngày 30 tháng Tư, ông một mình lái xe đi thăm tử sĩ tại nghĩa trang quân đội ở Cần Thơ. Xong về Tổng Y Viện Phan thanh Giản thăm và bắt tay các thương bệnh binh như một cữ chỉ biết ơn. Hừng sáng hôm sau ông đi, sau vị phụ tá của ông khoảng không đầy 10 tiếng đồng hồ. Thời đó, ông có một Sư đoàn Không Quân trong tay, nhưng ông biết giữ lời hứa danh dự cho riêng ông. Ông và nhiều vị tướng tử tiết khác biết sống với danh dự và thác với phẩm hạnh mà lên thần. Tâm tư của ông ngày đó ông giữ cho riêng mình. Nhưng có thể ông nghĩ trong ngày tàn của đất nước, bỏ đi hay ở lại với đơn vị là tùy thái độ mỗi cấp chỉ huy tự xử trước lương tâm và lịch sử. Và đó là định phận cho từng cá nhân, nên dù bỏ đi hay ở, không ai có lỗi cả. Nhiệm vụ chiến đấu của ông ngày đó đã chấm dứt nhưng trách nhiệm tinh thần của ông đối với các quân nhân thuộc hạ của ông vẫn còn.
Cac chien dinh ALPHA va MONITOR cua Luc luong dac nhiem thuy bo HQ VNCHẢnh của Brown Water Navy in Vietnam
Ông đã gánh trên đôi vai của ông một miền Nam đang hấp hối. Và ông lấy cái chết của chính mình để một mặt cho quân nhân các cấp hãnh diện có một chủ súy xứng đáng với danh xưng, một mặt ngăn cho thuộc hạ của ông những nỗi khổ sở vì bị bỏ rơi, và ngừa những cái chết oan uổng một khi cuộc chiến đã được sấp xếp để cho miền Nam bị thua lúc bấy giờ [7]. Tôi nghĩ do hiểu như thế mà các vị Tư lệnh Sư đoàn cũng như đơn vị trưởng các đại đơn vị khác không nỡ bỏ ông, bỏ ngũ, bỏ rơi binh sĩ của mình. Ông đã làm sống lại gương dũng cảm của những Nguyễn tri Phương, những Trần bình Trọng, những Võ Tính, những Bùi thị Xuân, và nhiều nữa khi đất nược gặp nguy vong.

Trong hoàn cảnh đó, Lượng Thủy Bộ nằm trong cái thế cân bằng quân sự toàn vùng, nên khó thể tháo lui mà không gây hoang mang rã ngũ cho những đơn vị bạn, kéo theo cảnh hỗn loạn tất nhiên trong dân chúng; rồi lịch sử sẽ còn nói đến với lời lẽ khó thể nhẹ nhàng. Bị người đời chê cười —oan ưng chưa biết— thì coi như nhận cái cười chê để xả nghiệp. Bị lịch sử chê cười thì là nổi nhục cho cả dòng họ, là đại bất hiếu theo nghĩa của Đông phương.
Đến đây anh có thể hỏi những người phải ở lại để chịu phận tù đày có oán hận những người đả bỏ đi hay không? Tôi nghĩ đại để hầu như là không. Thường những ai đã làm hết sức mà không thoát khỏi định phận nghiệt ngã của mình thì biết tất cả mọi sự đều do nghiệp lực mà ra. Lúc đó thì giữa sống và chết không có gì khác biệt. Họ cũng không ưng thấy các cấp lãnh đạo hàng quốc gia miền Nam ở lại để vào tù, vì họ không phải là những người lấy ghen tức làm lẽ sống.
Vào những năm sống trên đất Bắc, tôi gặp hầu hết quí vị sĩ quan cao cấp và Tư lệnh các Sư đoàn trực thuộc Quân Đoàn 4 trước kia. Tôi cũng gặp lại nhiều sĩ quan thuộc lực lượng Thủy Bộ. Không ai còn nhắc đến quá khứ hay phiền trách gì ai. Dường như trong nhiều năm sống với yên lặng và suy tư, nhiều lúc cảm thấy như cận kề cái chết vì bệnh tật, vì đói khát, quí vị đó hiểu rõ tác năng của chữ nghiệp trong cuộc đời mỗi người. Đi theo chữ nghiệp này, họ còn giữ được danh dự của một người lính sống chết với quê hương. Ngoài ra, họ còn có dịp học được bài học khó nhất, quí báu nhất là biết mình là ai, hay là tìm được bản thân mà trước đó mình đã đánh mất hồi nào cũng không nhớ!
Riêng có một cựu Chỉ huy trưởng Giang đoàn Thủy Bộ nay không biết ở đâu, khi tình cờ gặp tôi đang ngao du trong một khu rừng Yên Bái, anh biếu tôi một ống pipe nay tôi còn giữ làm kỷ niệm. Tuy hơn anh ấy những mười tuổi đời mà chưa từng nghe ai nói, ” Ngày trước em đi trận đánh tụi này không nhân nhượng. Không phải ghét chúng mà em chỉ muốn góp phần cứu dân miền Bắc ra khỏi sự u mê Mác Lê, và cứu miền Nam chúng ta khỏi nạn khủng bố và tham nhũng nếu để bị thua trận. Rồi nay nghiệp báo viên thành, trong bộ đồ tù của bọn chúng, em thấy mình vẫn uy nghi.”
Anh ngừng một vài giây rồi tiếp:” Bây giờ em thấy những gian khổ em đang gánh chịu đây, nếu em còn sống và ra khỏi nơi này, sẽ giúp tuổi già của em có được sự bình yên. Em đã tòng quân giữ nước, trả thù nhà vì anh em của em đều vào lính Cộng Hòa, bị thương tích đầy người, và bây giờ thì em đang trả nợ đời lính của em. Thời trước em dẫn quân đi bắn mổ cũng nhiều. Tổ quốc cho rằng em có công, nhưng Thượng đế thì có luật nhân quả của Ngài. Không biết điều em nói đây là đúng hay sai nhưng qua nhiều suy tư giữa rừng già, em thấy nó phải là như vậy. Một thời làm vua, cả đời là vua; một thời làm lính, cả đời là lính; một thời làm cấp chỉ huy, dù cao dù thấp, cả đời phải sống như mình là cấp chỉ huy. Em nay không còn thắc mắc gì nữa,. thưa ông thầy (!) Lịch sử không kết tội em là được. ”
CHIEN DINH TANGO LUC LUONG DAC NHIEM THUY BOẢnh của Brown Water Navy in Vietnam
Cố Tổng Thống Hoa Kỳ, ông Richard M. Nixon, có nói một câu hơi lạ mà nghĩ thì cũng đúng, là: “Lịch sử sẽ được viết tùy theo người nào viết ra nó.” Lý do là những người làm nên lịch sử thường không còn, những người còn lại để viết thì không có mặt tại nơi xảy ra từng sụ kiện lịch sử, chỉ ngồi nhà nghe chuyện trong bàng dân thiên hạ nói về những chuyện gì đó rồi mang vào những trang giấy cho có đầy chữ rồi gọi đó là lịch sử. Do thế mà hi vọng sau này, người viết sử không quên là khi vận nước đến thời nghiêng ngửa, bản đồ thế giới cần được vẽ lại phù hợp với quyền lợi ai đó, miền Nam phải bị bại vong theo kế hoạch cũng của ai đó, quân nhân miền Tây thật sự có cố gắng bảo vệ dân lành cho đến lúc cuối, đồng thời lo an ninh bờ sông cho đa số đồng bào trên sông Cửu Long an toàn di tản ra biển. Chừng đó, những chiến sĩ miền Tây cũng như các chiến sĩ tại các miền khác còn quyết tâm cố giữ vững trận địa trong những ngày u tối đó, may ra mới được an lòng nếu còn sống, và khỏi ngậm ngùi nếu đến hạn phải ra đi.
Tôi nay thì lực dĩ bất tòng tâm, ký ức chứa toàn những chấp vá, luộm thuộm, nhớ đâu viết đó thành một thứ tạp-pí-lù. Qui luật này nào ai tránh được, khi mà nhìn quanh từ bàn ăn, bàn rửa mặt, bếp núc đâu đâu cũng thấy thuốc thứ này thứ nọ bày la liệt, ngày nào cũng dùng lia chia, khi cần đến thì đỡ phải tìm! Cho nên thư này chỉ được viết với tính cách trao đổi giữa hai chiến hữu già mà thôi. Viết xong thấy không ưng ý, nhưng cũng phải gửi kẻo anh mong.
Chúc anh nhiều sức khỏe, rất cần.
Thân mến,
Tiểu Đĩnh
[1] Nội dung bài viết này nói lên lòng nhân đạo của các chiến sĩ miền Nam trước sự tàn bạo của người CS đối với người của họ.

[2] “Sau vụ Tết Mậu Thân 1968 Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và phương pháp hành sử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân, bình định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy trình cấp bách ngang với chiến trận. Chiến thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “bình định và giữ đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân thì quân đội phải đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được phát triển tối đa để phụ trách an ninh và bình định lãnh thổ” -Trích Xác Định Giá Trị Của Người Chiến Sĩ VNCH của tác giả Trần đổ Cung.
[3] “Mệnh lệnh chí kỳ vi chi tặc.”
[4] ….
Em không thấy được xác chàng
Ai thêm lon giữa hai hàng nến trong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai.”
Bài thơ Thương ca 1 đã được phổ nhạc, của tác giả Lê thị Ý
[5] Với người làm cách mạng thì “Cách mạng với gia đình không là một.” Lớn lên với đất nước trang 157
của tác giả Vy Thanh.
[6] Hai chữ thành nhân trong câu nói được lưu truyền của liệt sĩ Nguyễn thái Học (Không thành công thì cũng thành nhân) có nghĩa vì nước mà hi sinh hay là tử tiết.
[7] Theo tài liệu viết tay của cựu Đại tá Trưởng Phòng 3 Quân Đoàn 4, hiện sống tại Nam California, thì trong lúc tiếp người đại diện của GPMN trưa ngày 30 tháng 4, sau khi ông DVM tuyên bố miền Nam buông súng, tướng NKN có nói đại ý, “ Chúng tôi thi hành lệnh của nguyên thủ chúng tôi. Riêng tôi thì cuộc chiến chưa chấm dứt ở đây.”
 on 

No comments: